Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não

Đột quỵ vẫn là một vấn đề thời sự cấp thiết vì tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, tử vong cao và để lại nhiều di chứng về tâm thần kinh. Tại Việt Nam, các nghiên cứu sử dụng thuốc y học cổ truyền kết hợp châm cứu trong điều trị phục hồi vận động sau đột quỵ vẫn còn ít so với các nghiên cứu về châm cứu. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm.

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 1

Trang 1

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 2

Trang 2

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 3

Trang 3

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 4

Trang 4

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 5

Trang 5

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 6

Trang 6

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1060
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não

Đánh giá hiệu quả của cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não
157
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Địa chỉ liên hệ: Lê Ngọc Thanh, email: drlengocthanh1982@gmail.com
- Ngày nhận bài: 21/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 8/11/2018, Ngày xuất bản: 17/11/2018 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CAO LỎNG HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ THANG 
KẾT HỢP ĐIỆN CHÂM TRONG PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG 
TRÊN BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI SAU NHỒI MÁU NÃO
Lê Ngọc Thanh1, Nguyễn Thị Tân2, Huỳnh Nguyễn Lộc3 
(1) Học viên CKII Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(3) Viện Y Dược học dân tộc, thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Đột quỵ vẫn là một vấn đề thời sự cấp thiết vì tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, tử vong cao và 
để lại nhiều di chứng về tâm thần kinh. Tại Việt Nam, các nghiên cứu sử dụng thuốc y học cổ truyền kết hợp 
châm cứu trong điều trị phục hồi vận động sau đột quỵ vẫn còn ít so với các nghiên cứu về châm cứu. Nghiên 
cứu nhằm đánh giá hiệu quả phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não của cao 
lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 40 bệnh nhân 
bị liệt nửa người do nhồi máu não, đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, được điều trị bằng cao lỏng huyết phủ trục ứ 
thang kết hợp với điện châm. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu dọc có can thiệp, có so sánh trước sau 
điều trị. Kết quả: Điểm Barthel thời điểm kết thúc nghiên cứu tăng 1,73 lần, điểm Barthel được xếp loại từ 
trung bình trở lên chiếm 97,5%, khá + tốt chiếm 55%. Sức cơ từ 2/5 trở lên chiếm 100%, sức cơ từ 3/5 trở 
lên chiếm 70%. Kết luận: Phương pháp điều trị bằng cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm có 
tác dụng phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não. 
Từ khóa: Huyết phủ trục ứ thang, Huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm, thang điểm Barthel. 
Abstract
EVALUATING EFFICIENCY OF TREATMENT MOTOR REHABILITATION 
AFTER ISCHEMIC STROKE WITH A COMBINATION OF 
“HUYET PHU TRUC U” DECOCTION AND ELECTRONIC ACUPUNCTURE
Le Ngoc Thanh1, Nguyen Thi Tan2, Huynh Nguyen Loc3 
(1) Post – graduate Students of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(3) Institute of Traditional Medicine, Ho Chi Minh City
Introduction: Stroke is still an urgent problem because of an increase in morbidity, mortality and many 
neurological sequelae. In Vietnam, studies using traditional medicine combined with acupuncture in the 
treatment of motor rehabilitation after stroke are still less compared to acupuncture studies. This study 
evaluates the efficacy of “Huyet phu truc u” decoction and electronic acupuncture combination therapy in 
motor rehabilitation in patients with hemiplegia after ischemic stroke. Subjects and methods: 40 patients 
with hemiplegia after ischemic stroke, eligible for study, were treated with “Huyet phu truc u” decoction 
combined electronic acupuncture. Research Methods: Longitudinal study with pre- and post-treatment 
follow-up. Result: Barthel points at the end of the study increased 1.73 times, Barthel points are ranked 
from the average or higher 97.5%, good + fairly 55%. Muscle strength from the 2/5 or higher 100%, from 
the 3/5 or higher 70%. Conclusions: The method treated with “Huyet phu truc u” decoction and electronic 
acupuncture combination has effected for treatment motor rehabilitation in patients with hemiplegia after 
ischemic stroke. 
Keywords: “Huyet phu truc u” decoction, “Huyet phu truc u” decoction and electronic acupuncture, The 
Barthel index. 
158
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đột quỵ vẫn là một vấn đề thời sự cấp 
thiết vì tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, tử vong cao 
và để lại nhiều di chứng về tâm thần kinh. Theo cơ 
quan thống kê về bệnh tật của Hoa Kỳ, đột quỵ đứng 
hàng thứ ba về nguyên nhân tử vong, dẫn đầu về 
nguyên nhân gây nên tàn tật. Các nghiên cứu cho 
thấy có khoảng 50% những người sống sót sau đột 
quỵ để lại di chứng, trong đó: 92,96% di chứng về 
vận động, 66% mất khả năng lao động, 50% bệnh 
nhân phụ thuộc các hoạt động tự chăm sóc [3]. 
Những nghiên cứu mới giúp tăng cường phục hồi 
chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ luôn được 
khuyến khích. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về việc 
sử dụng thuốc y học cổ truyền kết hợp châm cứu 
trong điều trị phục hồi vận động sau đột quỵ vẫn còn 
khiêm tốn so với các nghiên cứu về châm cứu. Các 
nghiên cứu ở Trung Quốc đã cho thấy hiệu quả trong 
phòng ngừa và điều trị đột quỵ của những bài thuốc 
có tác dụng hoạt huyết khử ứ như: bổ dương hoàn 
ngũ thang, huyết phủ trục ứ thang [14]. Tại Việt 
Nam, những bài thuốc cổ phương có tác dụng hoạt 
huyết khử ứ, thông kinh hoạt lạc thường được sử 
dụng trong điều trị phục hồi vận động sau đột quỵ, 
nhưng chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy chúng 
tôi tiến hành đề tài “Đánh giá hiệu quả của cao lỏng 
huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm trong 
phục hồi vận động trên bệnh nhân liệt nửa người 
sau nhồi máu não” với 2 mục tiêu sau:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
của bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não tại 
Viện Y dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đánh giá hiệu quả phục hồi vận động trên 
bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não bằng 
cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện châm.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Chọn tất cả bệnh nhân được chẩn đoán là liệt 
nửa người do nhồi máu não (NMN) đến khám và 
điều trị nội trú tại Viện Y Dược học dân tộc TP. Hồ Chí 
Minh (VYDHDT) từ tháng 5/2017 đến tháng 5/2018, 
có các đặc điểm sau:
- Bệnh nhân tỉnh táo, hợp tác với thầy thuốc điều 
trị
- Chỉ số Barthel < 60.
- Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân liệt nửa người không do nhồi ... ần điện châm.
- Liệu trình: ngày châm 1 lần, 1 tuần châm liên tục 
5 ngày, nghỉ 2 ngày, một liệu trình điều trị là 4 tuần. 
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chọn mẫu thuận tiện. 
2.2.3. Các bước tiến hành nghiên cứu
Mỗi bệnh nhân được tiến hành theo dõi điều trị 
trong thời gian 28 ngày. 
Thực hiện đánh giá trước và sau khi tiến hành 
nghiên cứu:
- Khám lâm sàng: 
+ Sinh hiệu: mạch, nhiệt độ, huyết áp
+ Sức cơ, điểm Barthel: Ngày 0, 7, 14, 21, 28. 
+ Một số triệu chứng YHCT: Lưỡi (Chất lưỡi + 
Rêu lưỡi); Sắc (màu sắc da niêm); Hơi thở, giọng nói; 
Đau lưng, đau gối; Giấc ngủ; Đại tiện; Tiểu tiện; Cảm 
giác trong người (nóng, lạnh); Mạch tượng.
- Cận lâm sàng: Công thức máu, đường huyết lúc 
đói, Urea, Creatinine máu, SGOT, SGPT, Bilan lipid 
máu. 
2.2.4. Phân tích và xử lý số liệu
Nhập và quản lý dữ liệu trên phần mềm SPSS 20.
Phân tích dữ liệu qua phần mềm SPSS 20.
- Phân tích đặc điểm của nhóm nghiên cứu: sử 
dụng phép kiểm Descriptive Stastistics (Frequencies, 
Crosstabs), Nonparametric Tests (Chi square).
- So sánh điểm phục hồi vận động giữa các giai 
đoạn T0 -T1, T0 -T2, T0 -T3, T0-T4: sử dụng phép 
kiểm Compare Means (Paired - samples T test).
- Đánh giá tỉ lệ phục hồi vận động, đáp ứng điều 
trị: sử dụng phép kiểm Nonparametric Tests (Chi 
square).
159
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Đánh giá các các yếu tố ảnh hưởng đến kết 
quả điều trị: sử dụng phép kiểm Compare Means 
(Independent - samples T test), Nonparametric Tests 
(Chi square). 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Thông tin nền và tiền sử bệnh TBMMN
Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ %
Tuổi
< 50 tuổi 5 12,5
≥ 50 tuổi 35 87,5
Giới 
Nam 19 47,5
Nữ 21 52,5
Thời gian NMN 
đến điều trị
≤ 1 tháng 31 77,5
> 1 tháng 9 22,5
Số lần đột quỵ
1 lần 32 80
≥ 2 lần 8 20
Tri giác lúc NMN
Không hôn mê 38 95
Có hôn mê 2 5
Thể bệnh YHCT
Khí hư huyết ứ 28 70
Can Thận âm hư 11 27,5
Khí huyết lưỡng hư 1 2,5
Thận âm dương lưỡng hư 0 0
Tăng huyết áp 
Có 36 90
Không 4 10
Đái tháo đường
Có 15 37,5
Không 25 62,5
Rối loạn lipid máu
Có 10 25
Không 30 75
Bệnh tim mạch khác
Có 7 17,5
Không 33 82,5
Điểm Barthel ( X± SD) 23,88 ±10,83
3.2. Đánh giá hiệu quả điều trị
3.2.1. Đánh giá điểm phục hồi vận động theo Barthel
Biểu đồ 1. Điểm Barthel trung bình tại các thời điểm nghiên cứu
Điểm Barthel trung bình ngày kết thúc nghiên cứu là 65,38 ±15,746, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 
ngày bắt đầu nghiên cứu với p < 0,05. 
160
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Biểu đồ 2. Phân độ Barthel khi bắt đầu và khi kết thúc nghiên cứu
Sau khi kết thúc điều trị, đa số bệnh nhân có điểm Barthel được xếp loại từ trung bình trở lên (97,5%) 
và chỉ có 1 trường hợp có điểm Barthel ở mức yếu – kém, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với ngày bắt đầu 
nghiên cứu với p < 0,05. 
3.2.2. Đánh giá sự thay đổi sức cơ chân trước và sau điều trị
Bảng 2. Sức cơ chân ngày kết thúc nghiên cứu
Sức cơ Ngày 0 Ngày 28 P
Sức cơ 0/5 11 0
p < 0,05
Sức cơ 1/5 12 0
Sức cơ 2/5 7 12
Sức cơ 3/5 9 8
Sức cơ 4/5 1 12
Sức cơ 5/5 0 8
Tổng 40 40
3.2.3. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị
3.2.3.1. Đánh giá ảnh hưởng của số lần đột quỵ đến kết quả điều trị
Bảng 3. Ảnh hưởng của số lần đột quỵ đến kết quả điều trị
Xếp loại Barthel ngày 28 Số lần đột quỵ P
1 lần ≥ 2 lần 
P > 0,05
Tốt 6 2
Khá 13 1
Trung bình 13 4
Yếu + kém 0 1
Tổng 32 8 40 
OR = 1,003
Số lần đột quỵ ảnh hưởng không có ý nghĩa thống kê đến kết quả phân loại Barthel sau điều trị, p = 0,127 
> 0,05.
3.2.3.2. Đánh giá ảnh hưởng của thời gian từ lúc NMN đến lúc bắt đầu nghiên cứu đến kết quả điều trị
Biểu đồ 3. Ảnh hưởng của thời gian từ lúc NMN đến lúc bắt đầu nghiên cứu đến kết quả điều trị
161
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Những bệnh nhân có thời gian từ lúc NMN đến lúc bắt đầu nghiên cứu ngắn ( ≤ 1 tháng ) có tỉ lệ phục hồi 
tốt hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian > 1 tháng, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, OR = 1,125.
3.2.3.3. Đánh giá ảnh hưởng của tình trạng tri giác lúc đột quỵ đến kết quả điều trị
Biểu đồ 4. Ảnh hưởng của tình trạng tri giác lúc đột quỵ đến kết quả điều trị
Những bệnh nhân có tri giác không hôn mê lúc NMN có tỉ lệ phục hồi tốt hơn so với nhóm bệnh nhân có 
hôn mê, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, OR = 2. 
3.2.3.4. So sánh thể lâm sàng YHCT đối với kết quả điều trị 
Bảng 4. So sánh thể lâm sàng YHCT đối với kết quả điều trị
Xếp loại Barthel 
ngày 28
Thể YHCT P
Khí hư 
huyết ứ 
Khí huyết lưỡng 
hư 
Can Thận 
âm hư 
P < 0,05
Tốt 8 0 0
Khá 11 0 3
Trung bình 9 0 8
Yếu + kém 0 1 0
Tổng 28 1 11 40 
OR = 1,091
Những bệnh nhân có thể bệnh YHCT là khí hư huyết ứ có tỉ lệ phục hồi tốt hơn so với nhóm bệnh nhân có 
các thể bệnh YHCT còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, OR = 1,091. 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Bàn luận một số đặc điểm của bệnh nhân 
nghiên cứu
Đột quỵ là bệnh lý có xu hướng tăng lên theo 
tuổi, nhất là sau 50 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy những bệnh nhân ≥ 50 tuổi chiếm tỉ lệ 87,5% 
số bệnh nhân nghiên cứu. Kết quả này tương tự kết 
quả nghiên cứu của Đàm Duy Thiên là 86,52%, của 
Trịnh Thị Diệu Thường là 88,89%[10]. Nghiên cứu 
của Hoàng Khánh và cộng sự cũng cho thấy độ tuổi 
từ 60 -70 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất bệnh nhân đột 
quỵ não[6]. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 
64 ± 11,18, nhỏ nhất là 33, lớn nhất là 84. 
Thể bệnh lâm sàng theo YHCT của nhóm nghiên 
cứu chiếm đa số là thể khí huyết ứ trệ và Can Thận 
âm hư (97,5%). Điều này cũng phù hợp với độ tuổi 
trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 64 
tuổi. Theo lý luận Y học cổ truyền khi cơ thể già yếu, 
nguyên khí dần hư hoặc do bị bệnh nằm lâu ngày 
làm tổn thương khí, khí hư không thúc đẩy huyết 
vận hành, mạch lạc không thông gây nên chứng khí 
hư huyết ứ. Có sự phù hợp giữa kết quả về độ tuổi 
trung bình của nhóm nghiên cứu (64 tuổi), về thời 
gian từ lúc đột quỵ đến lúc bắt đầu điều trị (đa số < 
1 tháng, và tất cả đều ≤ 2 tháng), về các bệnh lý mạn 
tính kèm theo đối với các thể lâm sàng của YHCT 
(chiếm đa số là Khí hư huyết ứ và Can Thận âm hư). 
Điểm Barthel trung bình ngày bắt đầu nghiên 
cứu của nhóm là 23,88 ± 10,83, nhỏ nhất là 10 điểm, 
lớn nhất là 55 điểm. Nhóm có điểm Barthel kém và 
yếu ở ngày bắt đầu nghiên cứu chiếm đa số (95%). 
Nhóm bệnh nhân nghiên cứu này có điểm Barthel 
trung bình thấp hơn so với nghiên cứu của Lê Thanh 
Hải (36,90 ± 18,68) [4], Trịnh Thị Diệu Thường 
162
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
(41±16) [10]. 
4.2. Bàn luận hiệu quả điều trị
Điểm Barthel trung bình ngày kết thúc nghiên 
cứu là 65,38 ± 15,74, khác biệt có ý nghĩa thống 
kê so với ngày bắt đầu nghiên cứu với p < 0,05. So 
với thời điểm bắt đầu nghiên cứu (T0), mức điểm 
Barthel trung bình thời điểm kết thúc nghiên cứu 
(T28) tăng 1,73 lần. Đây là mức tăng điểm cao hơn 
so với nghiên cứu của Trịnh Thị Diệu Thường là 0,75 
lần [10], Lê Thanh Hải là 1,16 lần [4]. Sự khác biệt 
này có lẽ là do những nghiên cứu của Trịnh Thị Diệu 
Thường, Lê Thanh Hải chủ yếu là đánh giá hiệu quả 
dựa trên sự thay đổi kỹ thuật châm cứu, không đề 
cập đến việc sử dụng thuốc YHCT. Nghiên cứu của 
chúng tôi có sự kết hợp giữa thuốc YHCT và châm 
cứu theo phác đồ được Bộ Y tế công nhận. 
Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu có 95% bệnh 
nhân có điểm Barthel ở mức yếu, kém. Sau khi kết 
thúc điều trị, đa số bệnh nhân có điểm Barthel 
được xếp loại từ trung bình trở lên (97,5%) và chỉ 
có 1 trường hợp có điểm Barthel ở mức yếu –kém. 
Kết quả 97,5% bệnh nhân đạt mức điểm Barthel từ 
trung bình trở lên có ý nghĩa rất lớn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi kết thúc điều 
trị, tất cả bệnh nhân có sức cơ từ 2/5 trở lên, trong 
đó nhóm có sức cơ từ 3/5 trở lên chiếm 70%, khác 
biệt có ý nghĩa thống kê so với ngày bắt đầu nghiên 
cứu với p < 0,05. So với ngày bắt đầu nghiên cứu, vào 
ngày kết thúc nghiên cứu nhóm bệnh nhân có sức cơ 
từ 3/5 trở lên tăng từ mức 20% lên 70%, nhóm sức 
cơ từ 2/5 trở xuống từ 75% giảm xuống 30%. 
Những bệnh nhân có thời gian từ lúc NMN đến 
lúc bắt đầu nghiên cứu ngắn (≤ 1 tháng) có tỉ lệ phục 
hồi tốt hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian > 
1 tháng, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, 
OR = 1,125. Theo Maurice Victor thì cơ chế tự phục 
hồi của các tế bào và các sợi thần kinh đạt cao nhất 
trong khoảng 30 ngày. Sau thời gian này, các tế bào 
và các sợi thần kinh phục hồi bình thường kém dần 
và không bình thường [16]. 
Những bệnh nhân có tri giác không hôn mê lúc 
NMN có tỉ lệ phục hồi tốt hơn so với nhóm bệnh 
nhân có hôn mê, khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p<0,05, OR =2. Có 100% bệnh nhân không hôn mê 
có điểm Barthel từ mức trung bình trở lên và tỉ lệ 
khá + tốt là 55,26%, nhóm bệnh nhân hôn mê có 
1 bệnh nhân có điểm Barthel ở mức yếu, kém khi 
kết thúc điều trị. Rối loạn ý thức là yếu tố tiên đoán 
về tiên lượng chức năng ở thời điểm 1 tháng sau 
đột quỵ. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho rằng rối 
loạn ý thức lúc nhập viện (được đánh giá bằng điểm 
Glasgow hoặc độ hôn mê) có liên quan đến kết cục 
sống còn và phục hồi chức năng sau đột quỵ [12].
Kết quả nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân có 
thể bệnh YHCT là khí hư huyết ứ có tỉ lệ phục hồi tốt 
hơn so với nhóm bệnh nhân có các thể bệnh YHCT 
còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, OR 
=1,091. Có 100% bệnh nhân thể khí hư huyết ứ đạt 
mức điểm Barthel từ trung bình trở lên sau khi kết 
thúc điều trị, trong đó tỉ lệ đạt mức từ khá trở lên 
là 67,85%. Cao lỏng “Huyết phủ trục ứ thang” được 
lấy từ bài thuốc cổ phương có nguồn gốc từ sách 
“Y lâm cải thác” của Vương Thanh Nhâm, một danh 
y Trung Quốc đời nhà Thanh chuyên điều trị chứng 
huyết ứ. Toàn bộ phương thuốc có tác dụng hành 
huyết tiêu ứ trệ, giải trừ uất kết ở khí phận, lấy hóa ứ 
làm chủ đạo, lý khí là bổ trợ, tức là dùng thuốc hành 
khí trong nhóm hoạt huyết, là phương thuốc hành 
khí huyết chặt chẽ [8].
5. KẾT LUẬN 
Cao lỏng huyết phủ trục ứ thang kết hợp điện 
châm có hiệu quả tốt trong phục hồi chức năng vận 
động ở bệnh nhân liệt nửa người sau nhồi máu não, 
đặc biệt trên những bệnh nhân đến sớm (≤ 1 tháng), 
thể bệnh YHCT là khí hư huyết ứ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quốc Bảo (2012), Đột quỵ não, Bệnh học y học 
cổ truyền, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, trang 265 – 
283. 
2. Trần Quốc Bảo (2017), Thuốc lý huyết, Các bài thuốc 
thường dùng trong y học cổ truyền và ứng dụng lâm sàng, 
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, trang 218 -239.
3. Trần Văn Chương (2010), Phục hồi chức năng bệnh 
nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não, Nhà xuất 
bản Y học, trang 9-40. 
4. Lê Thanh Hải, Nguyễn Nhược Kim (2016), Đánh giá 
tác dụng của điện mãng châm trong phục hồi chức năng 
vận động trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp 
tại bệnh viện châm cứu trung ương, Tạp chí nghiên cứu y 
học, tập 103, số 5, trang 80 -87. 
5. Lưu Trường Thanh Hưng và cộng sự (2014), Nghiên 
cứu tác dụng của “Huyết phủ trục ứ hoàn” trong việc phục 
hồi chuyển độ liệt trên bệnh nhân nhồi máu não, Tạp chí 
Y dược học cổ truyển quân sự, số 1 -tập 4, trang 20 -26. 
163
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
6. Hoàng Khánh (2013), Giáo trình sau đại học thần 
kinh học, Nhà xuất bản Đại học Huế, trang 227 -231. 
7. Bùi Phạm Minh Mẫn (2015), Đánh giá hiệu quả phục 
hồi vận động sau đột quỵ bằng thể châm cải tiến kết hợp 
tái học hỏi vận động, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y 
dược TP. Hồ Chí Minh. 
8. Vương Thanh Nhậm (2004), Y lâm cải thác, Nhà xuất 
bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, trang 63-69, 74-84. 
9. Vũ Xuân Tân, Vũ Anh Nhị (2008), Yếu tố nguy cơ và 
tiên lượng ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cục bộ 
cấp, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 12, số 1, 
trang 1 -9. 
10. Trịnh Thị Diệu Thường, Phan Quan Chí Hiếu (2013), 
Hiệu quả phục hồi vận động của phương pháp châm cải 
tiến kết hợp vận động trị liệu trên bệnh nhân nhồi máu 
não trên lều, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 17, 
số 1, trang 25 -33. 
11. Phạm Vũ, Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Đánh giá tác 
dụng của bài thuốc huyết phủ trục ứ thang trong điều trị 
phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu não 
sau giai đoạn cấp, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học 
Y Hà Nội. 
12. Tobias Haefeli, et al (2010), Predictors of early 
mortality after acute ischaemic stroke, Swiss med wkly ; 
140(17–18):254–259. 
13. Hung. I.L., et al. (2015), Chinese herbal products 
for ischemic stroke. Am J Chin Med,. Volume 43(7): 1365–
1379.
14. John K. Chen, Blood -regulating formulas, Chinese 
Herbal Formulas and applications, 700-705 pages.
15. Lee JJ, et al (2011), Traditional Chinese medicine, 
Xue-Fu-Zhu-Yu decoction, potentiates tissue plasminogen 
activator against thromboembolic stroke in rats, Journal 
Ethnopharmacol. 134(3):824-30 pages. 
16. Allan H. Ropper (2014), Cerebrovascular Diseases, 
Adams and Victor’s Principles of Neurology, McGraw-Hill 
education, 778 -876. 
17. Naoyuki Takeuchi (2013), Rehabilitation with 
poststroke motor recovery: A Review with a focus on 
Neural Plasticity, Stroke Research and Treatment, 13 
pages. 
18. Xu JH , Huang YM , Ling W et al (2015), Wen 
dan decoction for hemorrhagic stroke and ischemic 
stroke. Complement. Ther. Med.; Volume 23: 298–308.
19. Yu, M., et al (2015), The beneficial effects of the 
herbal medicine Di-Huang-Yin-Zi (DHYZ) on patients with 
ischemic stroke: a randomized placebo controlled clinical 
study. Complement Ther Med, 2015. 23(4): 591–597.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_cua_cao_long_huyet_phu_truc_u_thang_ket_ho.pdf