Chức năng tim trên bệnh nhân người Việt bị sốt Dengue ở những độ nặng khác nhau
Sốt dengue tiếp tục gây ra một bệnh suất và tử suất có ý nghĩa trên toàn cầu. Thể bệnh nặng ẩn chứa sự đe dọa tim mạch do rò rỉ mao mạch. Tổn thương tim trong sốt xuất huyết cũng đã được báo cáo nhưng chưa được nghiên cứu thỏa đáng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Chức năng tim trên bệnh nhân người Việt bị sốt Dengue ở những độ nặng khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chức năng tim trên bệnh nhân người Việt bị sốt Dengue ở những độ nặng khác nhau
NGHIÊN CỨU THỜI SỰ Y HỌC 9/2012 - Số 70 3 CHỨC NĂNG TIM TRÊN BỆNH NHÂN NGƯỜI VIỆT BỊ SỐT DENGUE Ở NHỮNG ĐỘ NẶNG KHÁC NHAU Sophie Yacoub1, Anna Griffiths2, Trần Thị Hồng Châu3, Cameron P. Simmons4, Bridget Wills4, Trần Tịnh Hiền4, Michael Henein5, và Jeremy Farrar4 Tóm tắt Mục tiêu: Sốt dengue tiếp tục gây ra một bệnh suất và tử suất có ý nghĩa trên toàn cầu. Thể bệnh nặng ẩn chứa sự đe dọa tim mạch do rò rỉ mao mạch. Tổn thương tim trong sốt xuất huyết cũng đã được báo cáo nhưng chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Địa điểm: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đối tượng và thiết kế: Nghiên cứu gồm 79 bệnh nhân từ 8–46 tuổi bị sốt dengue ở những độ nặng khác nhau được khảo sát siêu âm tim bao gồm hình ảnh học Doppler mô. Bệnh nhân được chia theo độ nặng của bệnh: sốt dengue đơn thuần, dengue có các dấu hiệu báo động, và dengue nặng. Những thay đổi trong các thông số chức năng tim và chỉ số huyết động học được theo dõi trong thời gian nằm viện. Can thiệp: Không có. Kết quả chính: Chức năng tim của bệnh nhân dengue nặng xấu hơn so với bệnh nhân dengue đơn thuần dưới dạng rối loạn chức năng tâm thu thất trái với tăng chỉ số hiệu năng cơ tim (0,58 (0,26–0,80) so với 0,38 (0,22– 0,70), p=0.006). giảm vận tốc tâm thu cơ tim vách (6,4 (4,8 –10) so với 8,1 (6 –13) cm/s, p=0,01), cũng như vận tốc tâm thu thất phải (11,4 (7.5–17) so với 13,5 (10 –17) cm/s, p=0,016) và vận tốc tâm trương (13 (8–23) so với 17 (12–25) cm/s, p=0,0026). Ở nhóm bệnh nặng, lúc ra viện những thông số này được cải thiện so với khi nhập viện; vận tốc tâm thu cơ tim vách đạt 8,8 (7–11) cm/s (p=0,002), vận tốc tâm thu thất phải đạt 15,0 (11,8 –23) cm/s, (p=0,003), và vận tốc tâm trương đạt 21 (11–25) cm/s (p=0,002). Bệnh nhân giảm chức năng tim có nhiều khả năng tràn dịch màng phổi hơn. Kết luận: Bệnh nhân dengue nặng có bằng chứng suy tim tâm thu và tâm trương với ảnh hưởng chủ yếu là ở vách tim và thành thất phải. Abstract CARDIAC FUNCTION IN VIETNAMESE PATIENTS WITH DIFFERENT DENGUE SEVERITY GRADES Objective: Dengue continues to cause significant global morbidity and mortality. Severe disease is characterized by cardiovascular compromise from capillary leakage. Cardiac involvement in dengue has also been reported but has not been adequately studied. Setting: Hospital for Tropical Diseases, Ho Chi Minh City, Vietnam. Subjects and Design: Seventy-nine patients aged 8– 46 yrs with different dengue severity grades were studied using echocardiography including tissue Doppler imaging. The patients were split into severity grades: dengue, dengue with warning signs, and severe dengue. Changes in cardiac functional parameters and hemodynamic indices were monitored over the hospital stay. Intervention: None. Measurements and Main Results: Patients with severe dengue had worse cardiac function compared with dengue in the form of left ventricular systolic dysfunction with increased left myocardial performance index (0.58 (0.26– 0.80) vs. 0.38 (0.22– 0.70), p=0.006). Septal myocardial systolic velocities were reduced (6.4 (4.8 –10) vs. 8.1 (6 – 13) cm/s, p=0.01) as well as right ventricular systolic (11.4 (7.5–17) vs. 13.5 (10 –17) cm/s, p=0.016) and diastolic velocities (13 (8 –23) vs. 17 (12–25) cm/s, p=0.0026). In the severe group, these parameters improved from hospital admission to discharge; septal myocardial systolic velocities to 8.8 (7–11) cm/s (p=0.002), right ventricular myocardial systolic velocities to 15.0 (11.8 –23) cm/s, (p=0.003), and diastolic velocity to 21 (11–25) cm/s (p=0.002). Patients with cardiac impairment were more likely to have significant pleural effusions. Conclusions: Patients with severe dengue have evidence of systolic and diastolic cardiac impairment with septal and right ventricular wall being predominantly affected. Đặt vấn đề Sốt dengue là bệnh lây truyền qua vectơ phổ biến hàng thứ hai trên thế giới với 50–100 triệu trường hợp được báo cáo mỗi năm và 2,5 tỉ người có nguy cơ mắc bệnh.(1) Đây cũng là bệnh lan tràn nhanh nhất với xuất độ tăng gấp 4 lần trong mười năm qua. Virút dengue gây ra một phổ bệnh từ sốt dengue, một bệnh virút không đặc hiệu, đến dengue nặng trong đó bệnh nhân có thể bị đe dọa về tim mạch thứ phát sau tăng tính thấm mao mạch và rò rỉ huyết tương. Các biến chứng tim cũng đã được báo cáo, gồm giảm chức năng cơ tim, viêm cơ tim, và rối loạn dẫn truyền.(2–5) Bản chất và cơ chế của suy giảm chức năng tim và sự góp phần của nó làm bệnh nặng chưa được xác định một cách có hệ thống. 1Bộ môn Nhiễm và Miễn dịch, Imperial College, London, Vương quốc Anh, 2Khoa Siêu âm tim, Guys & St. Thomas’ NHS Trust, London, Vương quốc Anh 3Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam 4Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford, Chương trình nghiên cứu hải ngoại, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam 5Bộ môn Y tế Công cộng và Y học Lâm sàng, Đại học Umea Thụy Điển và Đại học Giáo hội Công giáo Canterbury, Canterbury, Vương quốc Anh . Công trình nghiên cứu này được Wellcome Trust (Vương quốc Anh) tài trợ. NGHIÊN CỨU 4 THỜI SỰ Y HỌC 9/2012 - Số 70 Chức năng tim, khi đánh giá qua các thông số siêu âm tim truyền thống, phụ thuộc vào tiền tải. Dengue nặng có đặc điểm là giảm thể tích nội mạch khiến cho việc đánh giá chức năng tim chính xác trở nên khó khăn hơn. Kỹ thuật hình ảnh học Doppler mô (tissue Doppler imaging, TDI) cơ tim có độ nhạy cao trong việc phát hiện rối loạn chức năng tâm trương và đầu tâm thu và được xem là tương đối độc lập với tiền tải.(6–9) Trong nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát chi tiết các ảnh hưởng ở tim bằng kỹ thuật siêu âm tim trên những bệnh nhân dengue có độ nặng khác nhau, bao gồm TDI kết hợp với đo thể tích nội mạch và theo dõi mọi thay đổi trong suốt thời gian nằm viện. Bệnh nhân, vật liệu và phương pháp ... ảnh hưởng nhiều nhất. Cần nghiên cứu thêm để tìm hiểu nguyên nhân chính xác của những khác biệt thành tim từng vùng này. Một cơ chế khả dĩ là tính dễ tổn thương cơ tim khác nhau tùy vùng khi có giảm tưới máu.(20) Các thông số TDI tâm trương đã được chứng minh là có tương quan với kết cục trong nhiều bệnh tim mạch(6) và có giá trị tiên lượng trên những bệnh nhân trước đó khỏe mạnh được đưa vào khoa săn sóc tăng cường (ICU).(21,22) Những bệnh nhân chết vì nhiễm khuẩn huyết có vận tốc tâm thu vách thấp hơn rõ rệt so với bệnh nhân sống sót không có sự khác biệt nào về các thông số siêu âm qui ước.(23) Mặc dù dengue và sốc nhiễm khuẩn là những thực thể bệnh lý khác nhau, nhưng có một số đặc điểm giống nhau, bao gồm tăng tính thấm mao mạch và rò rỉ mạch máu.(24–27) Trong nhiễm khuẩn huyết, nguyên nhân được gợi ý là một yếu tố ức chế cơ tim trong Trị số trung vị của vận tốc ở vòng van hai lá đầu tâm trương (cm/s) ở 3 nhóm độ nặng dengue qua thời gian Den. Den.+ Nặng Den. Den.+ Nặng Den. Den.+ Nặng Nhập viện Ngày 1 Xuất viện Hình 3. Vận tốc ở vòng van hai lá đầu tâm trương (E’) giảm ở nhóm dengue so với nhóm dengue (p=0,003), tăng có ý nghĩa khi xuất viện (p =0,002). *Khác biệt có ý nghĩa so với bệnh nhân nhóm dengue. Trị số trung vị của vận tốc tâm thu (S’) ở thành bên, vách và thành thất phải trong nhóm dengue nặng Vào. Ngày 1 Ra* Vào. Ngày 1 Ra* Vào. Ngày 1 Ra* S’ thành bên S’ vách S’ thất phải Hình 4. Trong dengue nặng, các vận tốc tâm thu lúc nhập viện đều giàm so với lúc xuất viện, rõ nhất là ở thành bên (p=0,002). *Khác biệt có ý nghĩa giữa nhập viện và các thời điểm khác. NGHIÊN CỨU THỜI SỰ Y HỌC 9/2012 - Số 70 9 máu,(28) bao gồm các cytokin trợ viêm.(29–33) Cơ chế bệnh sinh của dengue nặng ít được hiểu rõ hơn nhưng được cho là có liên quan với một đáp ứng miễn dịch hoạt động thái quá,(34) đặc biệt là trong nhiễm khuẩn thứ phát, với một cơn “bão” cytokin gây tăng tính thấm mao mạch.(35–38) Rối loạn chức năng tim mà chúng tôi quan sát thấy có thể có cùng một cơ chế tiềm ẩn với nồng độ cao của các cytokin trợ viêm trong máu gây ức chế cơ tim và tăng tính thấm mao mạch, đặc biệt khi chúng xảy ra cùng một lúc. Các cơ chế tiềm năng khác có thể bao gồm sự thay đổi tính hằng định nội môi của calci nội bào(38) và giảm tưới máu của động mạch vành. Sự xâm lấn trực tiếp của virút vào tế bào cơ tim cũng có thể là một khả năng, nhưng không có bằng chứng nào về tổn thương cơ tim với tăng nồng độ troponin I trong huyết tương và bằng chứng từ dữ liệu mổ xác.(39) Có bằng chứng điện học của viêm cơ tim với một phần ba số bệnh nhân có điện tâm đồ bất thường, có thể góp phần gây suy giảm chức năng. Điều này phù hợp với các kết quả trước đây, trong đó 70% số bệnh nhân dengue nặng có giảm động toàn bộ khi xạ ký tâm thất với chất đồng vị phóng xạ nhưng không có hoại tử cơ tim khi dùng kỹ thuật hình ảnh học với 99m Tc-pyrophosphat.(40) Ý nghĩa lâm sàng của những kết quả này có thể rất quan trọng. Mặc dù suy tim chỉ thoáng qua, nhưng nó xảy ra đồng thời với rò rỉ mạch máu, khi bệnh nhân ở tình trạng huyết động không ổn định. Bệnh nhân dengue nặng có nhiều khả năng có một mức độ suy tim ngoài việc mất thể tích nội mạch, chúng phối hợp với nhau làm cho tình trạng mất ổn định tim mạch nặng thêm và tăng nguy cơ quá tải dịch y căn.(41) IVCCI dùng trong nghiên cứu này đã được chứng minh là phương pháp hữu ích không xâm lấn để đánh giá thể tích và xác định tiền tải.(42) Nó tương quan tốt với áp lực tĩnh mạch trung tâm (một thủ thuật nhiều rủi ro trên bệnh nhân dengue giảm tiểu cầu) và hữu ích trong việc tiên đoán sự đáp ứng với dịch truyền.(43,44) Siêu âm tim, đặc biệt là máy xách tay, đang trở nên khả dụng rộng rãi trên thế giới. Vì vậy, chúng tôi muốn đề nghị bệnh nhân dengue nặng nên được đánh giá chức năng tim, đặc biệt là sử dụng các thông số TDI: S’ thành bên, vách và thất phải, và IVCCI để lượng giá thể tích nội mạch và ước lượng sự đáp ứng với dịch truyền. Việc này có thể hướng dẫn truyền dịch hồi sức cấp cứu và nhận diện sớm những bệnh nhân có nguy cơ quá tải dịch y căn và cho phép sử dụng các liệu pháp thay thế, kể cả thuốc trợ co bóp tim. Hạn chế. Mặt hạn chế của nghiên cứu này là số bệnh nhân ít khi chia tách thành những nhóm độ nặng khác nhau. Các trường hợp không ổn định được hồi sức bằng dịch truyền trước khi siêu âm lần đầu sao cho không cản trở điều trị cấp cứu của bệnh nhân. Sự chậm trễ siêu âm lần đầu này có thể đánh giá chưa đúng mức ảnh hưởng trên tim trong giai đoạn quan trọng này. Lý tưởng nhất là bệnh nhân được tái khám vài tháng sau khi xuất viện để kiểm tra tất cả các thông số đã bình thường hóa và thăm dò các di chứng tim lâu dài. Kết luận Bệnh nhân sốt dengue có bằng chứng suy cơ tim tâm thu và tâm trương mà chủ yếu là ở vách tim và thành thất phải. Những thay đổi này hay gặp hơn và trầm trọng hơn trong dengue nặng và hay kết hợp với tràn dịch màng phổi hơn. Nên xem xét tầm soát siêu âm cho tất cả các trường hợp dengue nặng để đánh giá chức năng tim và thể tích nội mạch nhằm xử trí thích hợp. Cảm tạ: Các tác giả chân thành cảm ơn Cô Trương Thị Thọ đã giúp thu tuyển bệnh nhân và đội ngũ điều dưỡng và nhân viên y tế ở Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, Tp Hồ Chí Minh, trong việc điều trị bệnh nhân. Chúng tôi cũng xin cảm ơn nhân viên phòng siêu âm trong việc sử dụng trang thiết bị của phòng. Và xin cảm ơn Derek Robinson và Clare Glover về việc phân tích thống kê. Tài liệu tham khảo 1. TDR research on dengue: Recommendations of a scientific working group. TDR News 2000; 3:15 2. Thôngphatthanayothin A, Lertsapcharoen P, Supachok-chaiwattana P, và cs: Myocardial depression in dengue hemorrhagic fever: Prevalence and clinical description. Pediatr Crit Care Med 2007; 8:524–529 3. Thôngphatthanayothin A, Suesaowalak M, Muangming-sook S, và cs: Hemodynamic profiles of patients with dengue hemorrhagic fever during toxic stage: An echocardiographic study. Intensive Care Med 2003; 29: 570–574 4. Kularatne SA, Pathirage MM, Kumarasiri PV, và cs: Cardiac complications of a dengue fever outbreak in Sri Lanka, 2005. Trans R Soc Trop Med Hyg 2007; 101: 804–808 5. Thôngphatthallayothin A, Chotivitayatarakorn P, Somchit S, và cs: Morbitz type I second degree AV block during recovery from dengue hemorrhagic fever. Southeast Asian J Trop Med Public Health 2000; 31:642–645 6. Meco M, Cirri S: The effects of load on systolic mitral annulus movements by tissue Doppler imaging in cardiac surgery patients. J Cardiovasc Surg (Torino) 51: 277–281 7. Mendes L, Ribeiras R, Adragao T, và cs: Load-independent parameters of diastolic and systolic function by speckle tracking and tissue Doppler in hemodialysis patients. Rev Port Cardiol 2008; 27:1011–1025 8. Mogelvang R, Sogaard P, Pedersen SA, và cs: Cardiac dysfunction assessed by echocardiographic tissue Doppler imaging is an independent predictor of mortality in the general population. Circulation 2009; 119: 2679–2685 NGHIÊN CỨU 10 THỜI SỰ Y HỌC 9/2012 - Số 70 9. Fijalkowski M, Koprowski A, Gruchala M, và cs: Effect of preload reduction by hemodialysis on myocardial ultrasonic characterization, left atrial volume, and Doppler tissue imaging in patients with end-stage renal disease. J Am Soc Echocardiogr 2006; 19:1359–1364 10. Hang VT, Nguyet NM, Trung DT, và cs: Diagnostic accuracy of NS1 ELISA and lateral flow rapid tests for dengue sensitivity, specificity and relationship to viraemia and antibody responses. PLoS Negl Trop Dis 2009; 3:e360 11. World Health Organization: Dengue: Guidelines for Diagnosis, Treatment, Prevention and Control. (Pages 25–27, and 46). Available at: publications/2009/9789241547871_eng.pdf Accessed July 12, 2009 12. Eidem BW, Tei C, O’Leary PW, và cs: Nongeometric quantitative assessment of right and left ventricular function: Myocardial performance index in normal children and patients with Ebstein anomaly. J Am Soc Echocardiogr 1998; 11:849–856 13. Haciomeroglu P, Ozkaya O, Gunal N, và cs: Venous collapsibility index changes in children on dialysis. Nephrology (Carlton) 2007; 12:135–139 14. Ommen SR, Nishimura RA, Appleton CP, và cs: Clinical utility of Doppler echocardiography and tissue Doppler imaging in the estimation of left ventricular filling pressures: A comparative simultaneous Doppler- catheterization study. Circulation 2000; 102: 1788–1794 15. Nagueh SF, Middleton KJ, Kopelen HA, và cs: Doppler tissue imaging: A noninvasive technique for evaluation of left ventricular relaxation and estimation of filling pressures. J Am Coll Cardiol 1997; 30:1527–1533 16. Wills BA, Nguyen MD, Ha TL, và cs: Comparison of three fluid solutions for resuscitation in dengue shock syndrome. N Engl J Med 2005; 353:877– 889 17. Vignon P, Allot V, Lesage J, và cs: Diagnosis of left ventricular diastolic dysfunction in the setting of acute changes in loading conditions. Crit Care 2007; 11:R43 18. De Boeck BW, Cramer MJ, Oh JK, và cs. Spectral pulsed tissue Doppler imaging in diastole: A tool to increase our insight in and assessment of diastolic relaxation of the left ventricle. Am Heart J 2003; 146: 411–419 19. Sohn DW, Chai IH, Lee DJ, và cs: Assessment of mitral annulus velocity by Doppler tissue imaging in the evaluation of left ventricular diastolic function. J Am Coll Cardiol 1997; 30:474–480 20. Camici PG, Crea F: Coronary microvascular dysfunction. N Engl J Med 2007; 356: 830–840 21. Ikonomidis I, Nikolaou M, Dimopoulou I, và cs: Association of left ventricular diastolic dysfunction with elevated NT-pro-NP in general intensive care unit patients with preserved ejection fraction: A comple- mentary role of tissue Doppler imaging parameters and NT-pro-BNP levels for adverse outcome. Shock 2010; 33:141–148 22. Sturgess DJ, Marwick TH, Joyce CJ, và cs: Tissue Doppler in critical illness: A retrospective cohort study. Crit Care 2007; 11:R97 23. Sturgess DJ, Marwick TH, Joyce C, và cs: Prediction of hospital outcome in septic shock: A prospective comparison of tissue Doppler and cardiac biomarkers. Crit Care 2010; 14:R44 24. Ranjit S, Kissoon N, Gandhi D, và cs: Early differentiation between dengue and septic shock by comparison of admission hemodynamic, clinical, and laboratory variables: A pilot study. Pediatr Emerg Care 2007; 23: 368–375 25. Subla MR, Khan SA, Behl D, và cs: Sepsis and myocardial depression in a young woman. Mayo Clin Proc 2005; 80:810–814 26. Kumar A, Haery C, Parrillo JE: Myocardial dysfunction in septic shock. Crit Care Clin 2000; 16:251–287 27. Merx MW, Weber C: Sepsis and the heart. Circulation 2007; 116:793–802 28. Reilly JM, Cunnion RE, Burch-Whitman C, và cs: A circulating myocardial depressant substance is associated with cardiac dysfunction and peripheral hypoperfusion (lactic acidemia) in patients with septic shock. Chest 1989; 95:1072–1080 29. Pathan N, Hemingway CA, Alizadeh AA, và cs: Role of interleukin 6 in myocardial dysfunction of meningococcal septic shock. Lancet 2004; 363:203–209 30. Kumar A, Thota V, Dee L, và cs: Tumor necrosis factor alpha and interleukin 1beta are responsible for in vitro myocardial cell depression induced by human septic shock serum. J Exp Med 1996; 183:949–958 31. Chagnon F, Metz CN, Bucala R, và cs: Endotoxin-induced myocardial dysfunction: Effects of macrophage migration inhibitory factor neutralization. Circ Res 2005; 96: 1095–1102 32. Krishnagopalan S, Kumar A, Parrillo JE, và cs: Myocardial dysfunction in the patient with sepsis. Curr Opin Crit Care 2002; 8:376–388 33. Chagnon F, Bentourkia M, Lecomte R, và cs: Endotoxin-induced heart dysfunction in rats: Assessment of myocardial perfusion and permeability and the role of fluid resuscitation. Crit Care Med 2006; 34:127–133 34. Simmons CP, Dong T, Chau NV, và cs: Early T-cell responses to dengue virus epitopes in Vietnamese adults with secondary dengue virus infections. J Virol 2005; 79:5665–5675 35. Pang T, Cardosa MJ, Guzman MG: Of cascades and perfect storms: the immunopathogenesis of dengue haemorrhagic fever–dengue shock syndrome (DHF/DSS). Immunol Cell Biol 2007; 85:43–45 36. Dong T, Moran E, Vinh Chau N, và cs: High pro-inflammatory cytokine secretion and loss of high avidity cross-reactive cytotoxic T-cells during the course of secondary dengue virus infection. PLoS One 2007; 2:e1192 37. Chau TN, Quyen NT, Thuy TT, và cs: Dengue in Vietnamese infants— Results of infectionenhancement assays correlate with agerelated disease epidemiology, and cellular immune responses correlate with disease severity. J Infect Dis 2008; 198:516–524 38. Nguyen TH, Lei HY, Nguyen TL, và cs: Dengue hemorrhagic fever in infants: A study of clinical and cytokine profiles. J Infect Dis 2004; 189:221– 232 39. de Araujo JM, Schatzmayr HG, de Filippis AM, và cs: A retrospective survey of dengue virus infection in fatal cases from an epidemic in Brazil. J Virol Methods 2009; 155:34–38 40. Wali JP, Biswas A, Chandra S, và cs: Cardiac involvement in dengue haemorrhagic fever. Int J Cardiol 1998; 64:31–36 41. Maitland K, Kiguli S, Opoka RO, và cs: Mortality after fluid bolus in African children with severe infection. N Engl J Med 2011; 364:2483–2495 42. Ranjit S, Kissoon N, Jayakumar I: Aggressive management of dengue shock syndrome may decrease mortality rate: A suggested protocol. Pediatr Crit Care Med 2005; 6:412– 419 43. Sefidbakht S, Assadsangabi R, Abbasi HR, và cs: Sonographic measurement of the inferior vena cava as a predictor of shock in trauma patients. Emerg Radiol 2007; 14: 181–185 44. Charron C, Caille V, Jardin F, và cs: Echocardiographic measurement of fluid responsiveness. Curr Opin Crit Care 2006; 12:249 –254
File đính kèm:
- chuc_nang_tim_tren_benh_nhan_nguoi_viet_bi_sot_dengue_o_nhun.pdf