Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam

Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu tách galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam và khảo

sát những tính chất đặc trưng của nó. Rau câu được ngâm trong nước ở các nhiệt độ khác nhau để thu

được dung dịch chứa galactan, sau đó đông tụ dung dịch và tinh chế để thu galactan ở dạng bột. Các

phương pháp Kjeldahl, phổ hồng ngoại, xác định độ nhớt đặc trưng và đo nhiệt quét vi sai (DSC) được thực

hiện để nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và tính chất của sản phẩm. Kết quả cho thấy mẫu galactan thu được

có cấu trúc agar, không chứa nhóm thế sunfat. Mẫu tách trong nước ở 40 oC có hàm lượng protein cao hơn,

độ nhớt và độ bền nhiệt đều cao hơn so với mẫu tách trong nước ở 100 oC.

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam trang 1

Trang 1

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam trang 2

Trang 2

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam trang 3

Trang 3

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam trang 4

Trang 4

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang viethung 8420
Bạn đang xem tài liệu "Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam

Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077 
73 
Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu 
Gracilaria verrucosa Việt Nam 
Extraction and Characterization of Galactan from Seaweed Gracilaria Verrucosa of Vietnam 
Nguyễn Thu Hà1, Nguyễn Thị Thu Trang1, Toshiaki Ougizawa2, Nguyễn Ngọc Tuệ1* 
1Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam 
2Viện Công nghệ Tokyo, Nhật Bản 
*Email: tue.nguyenngoc@hust.edu.vn 
Tóm tắt 
Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu tách galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam và khảo 
sát những tính chất đặc trưng của nó. Rau câu được ngâm trong nước ở các nhiệt độ khác nhau để thu 
được dung dịch chứa galactan, sau đó đông tụ dung dịch và tinh chế để thu galactan ở dạng bột. Các 
phương pháp Kjeldahl, phổ hồng ngoại, xác định độ nhớt đặc trưng và đo nhiệt quét vi sai (DSC) được thực 
hiện để nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và tính chất của sản phẩm. Kết quả cho thấy mẫu galactan thu được 
có cấu trúc agar, không chứa nhóm thế sunfat. Mẫu tách trong nước ở 40 oC có hàm lượng protein cao hơn, 
độ nhớt và độ bền nhiệt đều cao hơn so với mẫu tách trong nước ở 100 oC. 
Từ khóa: Gracilaria verrucosa, galactan, đặc trưng cấu trúc, cấu trúc, độ nhớt đặc trưng, DSC 
Abstract 
In this study, we extracted galactan from seaweed Gracilaria verrucosa of Vietnam and investigated its 
structure and properties. The seaweed was immersed in water in different temperatures to obtain a solution 
of galactan. Thereafter, the solution was coagulated and purified to obtain galactan as a powder. Kjeldahl 
method, infrared spectroscopy, viscosity determination and differential scanning calorimetry (DSC) were 
used to characterize structure and properties of the resulting material. It was found that the obtained 
galactan had agar structure without sulfate as a substitute group. Proteins content, intrinsic viscosity and 
thermal resistance of the galactan extracted in water at 40 oC were higher than those of the galactan 
extracted in water at 100 oC. 
Keywords: Gracilaria verrucosa, galactan, structural characterization, intrinsic viscosity, DSC 
1. Giới thiệu* 
Rau câu chỉ vàng là một loại rong phổ biến ở bờ 
biển Việt Nam, có tên khoa học là Gracilaria 
verrucosa (G. verrucosa), thuộc ngành rong đỏ 
Rhodophyta [1,2]. Từ lâu, loại rau câu này đã được 
người dân dùng làm thức ăn. Nhiều món ăn quen 
thuộc được chế biến từ rau câu như nộm, thạch hoặc 
canh. Theo các tài liệu đã công bố, trong G. 
verrucosa chứa các galactan tan tốt trong nước tạo 
thành gel [3,4]. Loại galactan này có thể dùng làm 
chất tạo đông trong thực phẩm hoặc trong các ngành 
kĩ thuật, dùng chế tạo thạch agar làm môi trường nuôi 
cấy vi khuẩn, chế thuốc nhuận tràng, làm chất nhũ 
hóa 
Cấu trúc của galactan tách từ Rhodophyta cũng 
được công bố rộng rãi trong nhiểu công trình nghiên 
cứu [5-8]. Các loại mắt xích thường thấy trong các 
chuỗi galactan này là ß-D-galactopyranozơ (G), α-D-
galactopyranozơ (DG) và α-L-galactopyranozơ (LG). 
ISSN 2734-9381 
https://doi.org/10.51316/jst.148.etsd.2021.1.1.15 
Received: February 14, 2020; accepted: August 01, 2020 
Thông thường, các mạch galactan này được tạo thành 
do sự lặp lại của G-DG hoặc G-LG. Nếu chuỗi 
galactan gồm các đơn vị G-DG thì được gọi là cấu 
trúc cacrageenan, nếu gồm các đơn vị G-LG thì được 
gọi là cấu trúc agar. Đôi khi, các mắt xích DG và LG 
có thể tồn tại ở dạng anhidrit tương ứng là 3,6-
anhydro-α-D-galactopyranozơ (DA) và 3,6-anhydro-
α-L-galactopyranozơ (LA). Thí dụ, các cấu trúc có 
thể có của agar được trình bày trên hình 1. Một đặc 
điểm quan trọng trong cấu trúc galactan tách từ 
Rhodophyta nói chung và G. verrucosa nói riêng là 
sự tồn tại của các các nhóm thế sắp xếp ngẫu nhiên 
trên mạch galactan. Nguyên tử H trong các nhóm OH 
của vòng galactopyranozơ thường bị thay thế bởi các 
nhóm như metyl, sulfat, pyruvat Tuỳ thuộc điều 
kiện tự nhiên như thời điểm thu hoạch, thời tiết, nhiệt 
độ, thổ nhưỡng, rau câu sẽ cho galactan với số nhóm 
thế trong mỗi vòng galactopyranozơ rất khác biệt. 
Các nhóm thế này quyết định các đặc tính hoá lý 
cũng như chất lượng của galactan. 
Các nghiên cứu về cấu trúc, tính chất của 
galactan tách từ G. verrucosa đã được tiến hành khắp 
nơi trên thế giới. Tuy nhiên như đã biết, tính chất và 
cấu trúc của loại galactan này tách phụ thuộc rất lớn 
vào điều kiện sinh trưởng của cây. Ở Việt Nam, các 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077 
74 
nghiên cứu về loài rau câu chỉ vàng chủ yếu nhằm 
phân loại, tìm hiểu ứng dụng của nó trong thực phẩm, 
thuốc chữa bệnh [1,9]. Trong công trình này, chúng 
tôi tiến hành chiết tách galactan bằng cách ngâm rau 
câu trong nước nóng ở các nhiệt độ khác nhau. Sau 
đó chúng tôi thực hiện quy trình tinh chế để xác định 
rõ cấu trúc và tính chất của sản phẩm. Thành phần, 
cấu trúc của galactan được xác định thông qua 
phương pháp xác định hàm lượng nitơ và phổ hồng 
ngoại FT-IR. Đặc tính nhớt và tính chất nhiệt của 
galactan được xác định thông qua phương pháp đo độ 
nhớt và nhiệt quét vi sai (DSC). Nghiên cứu này 
nhằm khảo sát những đặc điểm về cấu trúc và một số 
tính chất của galactan tách từ G. verrucosa, từ đó góp 
phần nâng cao giá trị của loại rau câu phổ biến này. 
O
H
H H
O
H
O
H
OR
H
O
H
H
H
CH2OR
OR
H
OH
CH2OR
RO
Đơn vị DG – LG 
O
CH2OR
H
H
OH
H
O
H
O
H
H OR
H
O
H
H
CH2
O
RO
H
Đơn vị DG - LA 
Hình 1. Các đơn vị trong cấu trúc agar (R có thể là H, 
hoặc các nhóm thế như metyl, sunfat, pyruvat). 
2. Thực nghiệm 
2.1. Nguyên liệu và hoá chất 
Rau câu chỉ vàng G. verrucosa được thu hoạch 
vào tháng 5 và tháng 6 tại bờ biển tỉnh Nam Định – 
Việt Nam. Rau câu thu hoạch xong được rửa sạch đất 
cát, ngâm trong dung dịch NaOH 10% trong 8 giờ để 
tẩy trắng. Sau đó, rau câu được lấy ra rửa sạch đến 
khi nước rửa trung tính, phơi khô dưới ánh sáng mặt 
trời trong 24 giờ. 
Các hoá chất dùng trong nghiên cứu bao gồm: 
NaOH (99,9%), axeton (99,5%), dietyl ete (99,5%), 
than hoạt tính (99,9%) là sản phẩm của Nacalai 
Tesque (Nhật Bản). K2SO4 (99,9%), CuSO4 (99,9%), 
H2SO4 (98%) và thuốc thử Nessler là hoá chất của 
Merck (Đức). Các hoá chất sử dụng không cần tinh 
chế lại. 
2.2. Quy trình tách galactan từ rau câu 
Chúng tôi thử nghiệm tách galactan trong rau 
câu G. verrucosa theo hai quy trình: tách ở 40oC và ở 
100oC. Trước hết, rau câu được xay nhỏ mịn, ngâm 
trong nước cất 8 giờ, sau đó đun nóng (ở 40oC hoặc ở 
100oC) trong 30 phút. Lọc bỏ xác rau câu, thu được 
dung dịch 1. Thêm than hoạt tính vào dung dịch 1, lắc 
trong 2 giờ, sau đó lọc, thu được dung dịch 2. Đổ từ 
từ dung dịch 2 vào axeton (lấy dư), lọc thu được chất 
rắn đông tụ 1. Hoà tan chất rắn này trong nước cất để 
thu được dung dịch, tiếp tục đông tụ dung dịch bằng 
axeton, thu được chất rắn đông tụ 2. Lặp lại quá trình 
này hai lần để làm sạch các tạp chất trong mẫu. Cuối 
cùng rửa chất rắn đông tụ 2 bằng axeton, sau đó cho 
vào cối sứ, rót thêm dietyl ete và nghiền mịn, thu 
được galactan. Sản phẩm dạng bột được làm khô ở 50 
oC trong 1 tuần. Quy trình này được trình bày trong 
hình 1. Sản phẩm thu được bằng cách đun rau câu ở 
40 oC và ở 100 oC được kí hiệu lần lượt là G40 và 
G100. Các mẫu được bảo quản trong bình hút ẩm. 
Hình 2. Quy trình tách galactan từ rau câu. 
2.3. Nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và tính chất 
Phổ hồng ngoại (FT-IR) của G40 và G100 được 
đo trên máy phổ Jasco FT/IR 480 Plus theo kĩ thuật 
ATR. Mẫu được trộn đều với bột KBr, sau đó ép 
viên. Quá trình đo được thực hiện ở nhiệt độ phòng, 
số vòng quét 64, tần số quét từ 400 đến 4000 cm-1. 
Hàm lượng niơ trong mẫu được xác định bằng 
phương pháp Kjeldahl theo TCVN 9937 : 2013 
(tương đương với ISO 5378 : 1978). Lấy khoảng 
0,5 gam galactan và 0,75 gam xúc tác (gồm (K2SO4 
và CuSO4 với tỉ lệ 97:3 theo khối lượng), trộn đều rồi 
cho vào bình hình quả lê. Cho 20 ml dung dịch 
H2SO4 98% vào bình, đun trong 2 giờ để đảm bảo vô 
cơ hoá hoàn toàn mẫu, nitơ trong mẫu chuyển thành 
dạng (NH4)2SO4. Thêm dung dịch NaOH 40% vào 
hỗn hợp sau phản ứng và chưng cất, NH3 sinh ra được 
thu vào bình hứng chứa 25 ml dung dịch axit sunfuric 
0,1N. Lấy V ml dung dịch thu được, thêm nước cất 
và 1,0 ml thuốc thử Nessler để thể tích dung dịch là 
50 ml. Đo mật độ quang của dung dịch này trên máy 
quang phổ V-7200 UV-VIS-NIR tại bước sóng 430 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077 
75 
nm. Nồng độ nitơ trong mẫu được xác định dựa vào 
đường chuẩn nồng độ amoni sunfat – mật độ quang 
được xây dựng từ trước. Tiến hành thí nghiệm tương 
tự với mẫu trắng là đường saccarozơ. Hàm lượng nitơ 
tổng (% khối lượng) trong mẫu được tính theo công 
thức: 
( ) 1 2 1%
50 o
m mN
V m
− = × 
 
 (1) 
Trong đó: V là thể tích của phần dung dịch 
chưng cất được (ml), mo là khối lượng galactan đã 
dùng (g); m1 là khối lượng nitơ trong V ml dung dịch 
chưng cất từ mẫu thử đã phân hủy; m2 là khối lượng 
nitơ trong V ml dung dịch chưng cất từ mẫu trắng. 
Giá trị m1 và m2 đều xác định được từ đường chuẩn, 
tính bằng microgram (µg). Mỗi phép đo được lặp lại 
3 lần với một mẫu và lấy kết quả trung bình. 
Độ nhớt của mẫu được đo bằng nhớt kế 
Ubbelohde ở 25oC. Galactan được pha trong nước cất 
với các nồng độ khác nhau. Các dung dịch được lần 
lượt cho vào nhớt kế, đo thời gian chảy của chất lỏng 
giữa hai vạch cố định trên nhớt kế. Độ nhớt riêng của 
mẫu galactan được tính theo công thức: 
o
o
t t
t
η
−
= (2) 
Trong đó: t là thời gian chảy của dung dịch 
galactan (s), to là thời gian chảy của nước cất (s). Mỗi 
phép đo được lặp lại 3 lần với một mẫu và lấy kết quả 
trung bình. Vẽ đồ thị ( )f C
C
η
= , ngoại suy đến giá 
trị C = 0 sẽ thu được giá trị độ nhớt đặc trưng của 
mẫu. 
Nhiệt quét vi sai (DSC) được đo trên máy DSC 
7020 (SII NanoTechnology Inc.). Mẫu được nén 
trong chén nhôm tiêu chuẩn và hàn kín. Phép đo được 
tiến hành từ nhiệt độ phòng tới 250oC, tốc độ gia 
nhiệt là 10oC/phút. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Hàm lượng nitơ trong mẫu 
Bảng 1 trình bày kết quả xác định hàm lượng 
nitơ tổng có trong các mẫu. Kết quả khảo sát cho thấy 
mẫu galactan chiết ở nhiệt độ thấp (mẫu G40) có hàm 
lượng nitơ cao gấp hơn 4 lần mẫu chiết ở nhiệt độ cao 
(mẫu G100). Hàm lượng nitơ tỉ lệ thuận với hàm 
lượng protein, từ đó có thể suy ra mẫu G40 có hàm 
lượng protein cao hơn G100. Điều này có thể giải 
thích là do ở nhiệt độ cao, protein trong rau câu đã 
phân huỷ một phần, nên galactan tách từ rau câu sẽ có 
hàm lượng protein thấp. Protein trong rau câu thường 
đóng vai trò quan trọng, thí dụ là chất chống oxy hoá 
[10]. Như vậy, từ kết quả thí nghiệm có thể suy ra 
rằng việc đun sôi rau câu trong nước làm giảm đáng 
kể giá trị của galactan. 
Bảng 1. Hàm lượng nitơ có trong các mẫu. 
Tên mẫu Hàm lượng nitơ (% khối lượng) 
G40 0,88 
G100 0,21 
3.2. Cấu trúc galactan 
Để xác định rõ hơn thành phần và cấu trúc của 
các mẫu G40 và G100, chúng tôi phân tích phổ FT-IR 
của chúng. Phổ FT-IR của mẫu G40 và G100 được 
trình bày trong hình 3. Có thể nhận thấy phổ của G40 
và G100 tương đối giống nhau. Trên các phổ này đều 
xuất hiện một dải tín hiệu rộng trong khoảng từ 3600 
đến 2800 cm-1. Dải tín hiệu này có thể quy kết cho 
dao động kéo dãn của liên kết O-H. Đây là tín hiệu 
quen thuộc xuất hiện trong phổ của các galactan. Bên 
cạnh đó, trong các phổ đều xuất hiện vân hấp thụ tại 
1083 cm-1, 1056 cm-1 và 987 cm-1. Theo các tài liệu 
tham khảo [6,11], các tín hiệu này lần lượt được quy 
kết cho dao động kéo dãn của liên kết C-O, liên kết 
C-C và nhóm C-O-C trong vòng 3,6-anhydro-α-L-
galactopyranose. Thêm vào đó, trên phổ FT-IR của 
G40 và G100 xuất hiện tín hiệu tại 868 cm-1 và 
779 cm-1. Đây là tín hiệu đặc trưng của cấu trúc agar 
[7]. Như vậy, có thể kết luận rằng galactan đã được 
chiết tách thành công từ G. verrucosa và cấu trúc của 
chúng chủ yếu là agar. 
Hình 3. Phổ FT-IR của mẫu (a) G100, (b) G40. 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077 
76 
Điểm khác biệt quan trọng trong phổ FT-IR của 
G40 và G100 là: trên phổ của G40 xuất hiện hai đỉnh 
peak ở 1643 và 1420 cm-1, trong khi đó trên phổ của 
G100 hầu như không thấy tín hiệu này. Theo tài liệu 
đã công bố, những tín hiệu này có thể quy kết cho dao 
động của các nhóm amin bậc I và bậc II trong protein 
[11]. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của protein trong 
G40, phù hợp với kết quả thu được trong phần xác 
định hàm lượng nitơ. 
Hình 4. Đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa độ nhớt rút 
gọn và nồng độ của dung dịch. : G100, : G40. 
Trong phổ của cả G40 và G100, các tín hiệu đặc 
trưng của nhóm thế sunfat và nhóm thế pyruvic hoàn 
toàn không xuất hiện. Như vậy, agar tách từ rau câu 
theo phương pháp này có cấu trúc mắt xích tương đối 
đồng đều, không chứa có nhiều nhóm thế phức tạp. 
Trong công trình đã công bố, Sekkal và cộng sự đã 
dùng quy trình tương tự như trong bài báo này để tách 
galactan từ G. verrucosa thu hoạch tại Pháp. Kết quả 
từ phổ FT-IR cho thấy sản phẩm galactan đó có cấu 
trúc phức tạp, hàm lượng nhóm sunfat rất cao. Trong 
khi đó, các mẫu galactan do chúng tôi tách G. 
verrucosa của Việt Nam hầu như không chứa nhóm 
sunfat, do đó khả năng tạo gel sẽ rất cao [13]. 
3.3. Độ nhớt của dung dịch galactan 
Đồ thị biểu diễn liên hệ giữa độ nhớt rút gọn 
(đại lượng 
η
)
C
và nồng độ của các dung dịch galactan 
được biểu diễn trên hình 4. Đối với mẫu G40, mối 
liên hệ này có sự phù hợp khá tốt với phương trình: 
 η 25847 79,756
C
C= + (R2 = 0,9885) (3) 
Trong khi đó, mối liên hệ giữa độ nhớt rút gọn 
và nồng độ của dung dịch G100 phù hợp khá tốt với 
phương trình trình: 
 η 14422 38,303
C
C= + (R2 = 0, 0,9897) (4) 
Từ các đồ thị này, suy ra độ nhớt rút gọn của 
G40 và G100 lần lượt là 79,756 và 38,303 (L/g). Như 
vậy, độ nhớt rút gọn của G40 cao gấp hơn 2 lần so 
với G100. 
Theo các nghiên cứu đã công bố, trong dung 
dịch nước, các mạch galactan cuộn lại, thể tích các 
cuộn này càng lớn thì độ nhớt của dung dịch càng cao 
[5]. Như vậy, từ kết quả về độ nhớt ta suy ra rằng các 
cuộn polysacarit trong dung dịch G40 có thể tích lớn 
hơn so với dung dịch G100. Đặc tính này có thể liên 
quan đến thành phần protein có trong G40. Khi có 
protein, các cuộn galactan có thể mang điện tích 
(thường là điện tích âm). Do các điện tích đẩy nhau 
dẫn đến thể tích cuộn galactan tăng lên so với cuộn 
không mang điện tích. Đặc tính nhớt của dung dịch 
cũng liên quan đến khả năng tạo gel của các sản 
phẩm này. Có thể suy ra rằng, G40 dễ dàng tạo gel 
hơn G100. 
Tính chất nhiệt là một đặc tính quan trọng, quyết 
định phạm vi ứng dụng của của loại galactan này. 
Chúng tôi nghiên cứu tính chất nhiệt của G40 và 
G100 thông qua giản đồ DSC, được thể hiện trên hình 
5. 
3.4. Tính chất nhiệt của galactan 
Có thể nhận thấy sự khác biệt tương đối rõ rệt 
giữa tính chất nhiệt của G100 và G40. Trên đường 
DSC của G100 chỉ thấy một peak gây ra bởi quá trình 
toả nhiệt tại 198,8 oC. Có thể suy ra rằng quá trình 
này là phản ứng phân huỷ bởi nhiệt của G100. Trên 
đường DSC của G40, chúng tôi nhận thấy 2 tín hiệu. 
Tín hiệu thứ nhất gây ra do quá trình thu nhiệt, xảy ra 
tại nhiệt độ 122,5 oC; tín hiệu thứ hai gây ra do quá 
trình toả nhiệt, có đỉnh peak tại 223,2 oC. Dựa vào 
đặc điểm thành phần, cấu trúc của G40, có thể kết 
luận rằng tín hiệu thứ nhất tại 122,5 oC tương ứng với 
sự chuyển pha của protein trong G40. Tín hiệu thứ 
hai có đỉnh peak tại 223,2oC được quy kết cho quá 
trình phân huỷ của mẫu G40. Điều đáng chú ý là 
nhiệt độ phân huỷ của G40 cao hơn hẳn so với G100. 
Có thể thấy rằng do sự khác biệt trong cấu trúc của 
G40 (trong thành phần có hàm lượng protein tương 
đối cao) đã làm cho độ bền nhiệt của G40 cao hơn 
hẳn so với G100. 
Hình 5. Giản đồ DSC của (a) G100 và (b) G40. 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development 
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077 
77 
4. Kết luận 
Chúng tôi đã thu được galactan từ rau câu 
G. verrucosa mọc tại bờ biển miền bắc Việt Nam 
bằng cách chiết với nước ở hai nhiệt độ khác nhau. 
Kết quả cho thấy galactan thu được có cấu trúc agar, 
không chứa các nhóm thế trong vòng 
galactopyranozơ. Mẫu tách ở nhiệt độ thấp có chứa 
nhiều protein hơn, độ nhớt cao hơn và độ bền nhiệt 
tốt hơn so với mẫu tách ở nhiệt độ cao. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học 
Bách khoa Hà Nội trong đề tài mã số T2018-PC-234. 
Tài liệu tham khảo 
[1] V.K. Do. Status of production and utilization of 
seaweed in Vietnam. Proceedings of the Regional 
Workshop on the Culture & Utilization of Seaweeds, 
Philippines. FAO. 1990. 
[2] T.V. Nguyen, N.H. Le, S.M. Lin, F. Steen, O. De 
Clerck, A checklist of marine seaweeds of Vietnam, 
Bot. Mar. 56 (2013) 207-227. 
[3] E. Murano, Chemical structure and quality of agars 
from Gracilaria, J. Appl. Phyco. 7 (1995) 245-254. 
[4] R. Iyer, O. De Clerck, J.J. Bolton, V.E. 
Coyne, Morphological and taxonomic studies of 
Gracilaria and Gracilariopsis species (Gracilariales, 
Rhodophyta) from South Africa, S. Afr. J. Bot. 70 
(2004) 521-539. 
[5] M. Lahaye, Chemistry and physico-chemistry of 
phycocolloids, Cah. Biol. Mar. 42 (2001) 137-157. 
[6] M. Lahaye, C. Rochas, Chemical structure and 
physico-chemical properties of agar, Hydrobiologia 
221 (1991) 137-148. 
[7] A.I. Usov, Structural analysis of red seaweed 
galactans of agar and carrageenan groups, Food 
Hydrocolloids 12 (1998) 301-308. 
[8] C.A. Stortz, A.S. Cerezo, Novel findings in 
carrageenans, agaroids and “hybrid” red seaweed 
galactans, Curr. Top. Phytochem. 4 (2000) 121-134. 
[9] D.H. Dang, M.H. Hoang, N.S. Pham, Seaweeds from 
Vietnam used for functional food, medicine and 
biofertilizer. J. Appl. Phycol. 19 (2007) 817-826. 
[10] B.W.S. Souza, M.A. Cerqueira, A. I. Bourbon, A.C. 
Pinheiro, J.T. Martins, J.A. Teixeira, M.A. Coimbra, 
A.A. Vicente, Chemical characterization and 
antioxidant activity of sulfated polysaccharide from 
the red seaweed Gracilaria birdiae, Food 
Hydrocolloids 27 (2012) 287-292. 
[11] E.G. Ordónez, P. Rupérez, FTIR-ATR spectroscopy 
as a tool for polysaccharide identification in edible 
brown and red seaweeds, Food Hydrocolloids 25 
(2011) 1514-1520. 
[12] M. Sekkal, J-P Huvenne, P. Legrand, B. Sombret, J-C. 
Mollet, A. Mouradi-Givernaud, M-C. Verdus, Direct 
structure identification of polysaccharides from red 
algae by FTIR microspectrometry I: Localization of 
agar in Gracilaria verruscosa sections, Mikrochim. 
Acta 112 (1993) 1-10. 
[13] T.T.T. Thanh, H. Yasunaga, R. Takano, H. Urakawa, 
K. Kajiwara, Molecular characteristics and gelling 
properties of carrageenan family 2. Tri-sulfated and 
tetra-sulfated carrageenans, Polym. Bull. 47 (2001) 
305-312. 

File đính kèm:

  • pdfchiet_tach_va_nghien_cuu_mot_so_tinh_chat_cua_galactan_tu_ra.pdf