Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị

Ung thư là căn bệnh gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Suy dinh dưỡng rất phổ biến ở bệnh nhân ung thư, tỷ lệ này khoảng 80%. Trong khi suy dinh dưỡng rõ ràng đã phổ biến trên bệnh nhân ung thư, nhưng ảnh hưởng của nó lên chất lượng sống bệnh nhân ung thư đang hóa trị chưa được nghiên cứu đầy đủ, đặc biệt tại Việt Nam.

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 1

Trang 1

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 2

Trang 2

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 3

Trang 3

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 4

Trang 4

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 5

Trang 5

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 6

Trang 6

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1300
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị

Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị
29
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Văn Trí, email: drtruongtri@gmail.com 
Ngày nhận bài: 5/10/2018, Ngày đồng ý đăng: 22/10/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
Chất lượng sống và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư 
được hóa trị
Nguyễn Thị Hồng Chuyên1, Phùng Phướng1, Nguyễn Trường An2,
Nguyễn Văn Cầu1, Nguyễn Thành Phúc2, Hà Thanh Thanh1
(1) Bộ môn Ung bướu, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bộ môn Phẫu thuật thực hành, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế 
 Tóm tắt
Giới thiệu: Ung thư là căn bệnh gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Suy dinh dưỡng rất phổ biến 
ở bệnh nhân ung thư, tỷ lệ này khoảng 80%. Trong khi suy dinh dưỡng rõ ràng đã phổ biến trên bệnh nhân 
ung thư, nhưng ảnh hưởng của nó lên chất lượng sống bệnh nhân ung thư đang hóa trị chưa được nghiên 
cứu đầy đủ, đặc biệt tại Việt Nam. Mục đích: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và chất lượng sống ở bệnh nhân 
ung thư được hóa trị. Xác định mối liên quan của tình trạng dinh dưỡng lên chất lượng sống ở bệnh nhân 
ung thư được hóa trị. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca cắt ngang trên 70 bệnh nhân được chẩn đoán 
ung thư được điều trị hóa chất tại Khoa Ung bướu, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế trong thời gian từ 
3/2018 đến 9/2018. Đánh giá chất lượng sống bằng bảng EORTC QLQ-C30, đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng 
bảng SGA. Để xác định mối tương quan giữa 2 yếu tố chúng tôi dùng phép kiểm t, ANOVA, Mann Whitney, Kruskal 
Wallis. Hệ số Pearson và Spearman được sử dụng để xác định độ mạnh của mối tương quan. Kết quả: Tuổi 
trung bình bệnh nhân là 58,93 ± 13,26, nam chiếm 61,3%. Thang điểm sức khỏe tổng quát, thang điểm chức 
năng nằm trong giá trị tham khảo của tổ chức EORTC, thang điểm triệu chứng mất ngủ, chán ăn và tiêu chảy 
xấu hơn với giá tri tham khảo của tổ chức EORTC. Bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng tốt (SGA A) với tỷ lệ 
67,14%, bệnh nhân suy dinh dưỡng trung bình (SGA B) 14,29%, bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng (SGA C) là 
18,57%. Tình trạng dinh dưỡng có liên quan đến chức năng cảm xúc (p < 0,05), chức năng vai trò (p < 0.05) 
và triệu chứng buồn nôn – nôn (p < 0,05) có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng dinh 
dưỡng ảnh hưởng lên chất lượng sống ở bệnh nhân ung thư được hóa trị.
 Từ khoá: chất lượng sống, ung thư, dinh dưỡng, hoá trị
Abstract
Quality of life and nutritional status of cancer patients on chemotherapy
Nguyen Thi Hong Chuyen1, Phùng Phuong1, Nguyen Truong An2,
Nguyen Van Cau1, Nguyen Thanh Phuc2, Ha Thanh Thanh1
(1) Departement of Oncology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Department of Experimental Surgery, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Cancer is the second cause of disease-related deaths worldwide. Malnutrition among cancer 
patients is very common, with an estimated incidence of approximately 40 to 80%. While it is already a proven 
fact that malnutrition is prevalent among cancer patients, its impact on the quality of life of patients has not 
been adequately studied, particularly in the local setting. Purpose: To assess quality of life, nutrition status 
and to determine the affects of nutrition status on quality of life of cancer patients treated chemotherapy at 
Oncology Department, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital. Methods: A cross sectional study 
with 70 cancer patients admitted for chemotherapy recruited from at oncology department, Hue University 
of Medicine and Pharmacy Hospital during March to September 2018. The EORTC QLQ-C30 were used to 
assess quality of life and Subjective Global Assessment scale were used to assess nutrition status. T-test, 
ANOVA, Mann Whitney, Kruskal Wallis were used to determine the correlation between 2 factors. Pearson 
and Spearman Coefficient were used to measure the strength of relationship between the factors. Results: 
Patient’s mean age was 58.93 ± 13.26, males were 61.3%. There were 67.14% patients with SGA A, 14.29% 
were classified SGA-B (moderately malnourished) and 18.57% were classified SGA C (severely malnourished). 
The global health scale, the functional scales were in the limit of the EORTC reference value, meanwhile the 
toxicities -related symptom scales were worse than the EORTC reference value. Patients were statistically 
different across the Subjective Global Assessment groups according to emotional (p < 0.05), and cognitive 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Hồng Chuyên, email: nthchuyen@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2019.5.4
gày nhận bài: 16/5/2019, gày đồng ý đăng: 1/7/2019; Ngày xuất bản: 26/8/2019
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Globocan 2018 xuất độ bệnh ung thư toàn 
cầu là 18,1 triệu trường hợp. Suy dinh dưỡng (SDD) 
ở bệnh nhân ung thư rất phổ biến với tỉ lệ khoảng 
80%. Bệnh nhân ung thư chịu sự thay đổi chuyển 
hóa làm cho họ thiếu năng lượng protein trong tất 
cả các giai đoạn bệnh. Suy dinh dưỡng ảnh hưởng 
đến bệnh nhân qua việc làm gia tăng nguy cơ nhiễm 
trùng, trì hoãn lành vết thương, gia tăng độc tính 
điều trị. Bên cạnh đó, hóa trị ung thư còn gây ra 
nhiều vấn đề liên quan đến thể chất, tinh thần. Tất 
cả các yếu tố trên có tác động cộng hưởng làm suy 
giảm chất lượng sống (CLS). Nhiều nghiên cứu chỉ 
ra rằng chất lượng sống xấu liên quan đến thời gian 
sống còn ngắn. Duy trì hoặc cải thiện chất lượng sống 
là mối bận tâm chính của những bệnh nhân này và 
đó cũng được coi như là một phần quan trọng trong 
chiến lược điều trị ung thư [5], [13], [16].
Tình trạng dinh dưỡng kém đi kèm với chất lượng 
cuộc sống giảm, mức độ hoạt động thấp, các phản 
ứng phụ liên quan đến điều trị gia tăng, giảm đáp 
ứng khối u đối với điều trị và giảm thời gian sống 
còn. Người ta ước tính rằng tử vong của 10-20% 
bệnh nhân bị ung thư có thể là do suy dinh dưỡng 
hơn là bệnh ác tính. Đến nay tỷ l ... nghiên cứu nhận thấy, đa số các lĩnh vực mệt, buồn nôn - nôn, đau, khó thở, tiêu chảy có điểm 
số thấp (0 điểm - 44,33 điểm)
3.2. Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị
Tình trạng dinh dưỡng chung
Dựa vào bảng SGA tỷ lệ suy dinh dưỡng trong nghiên cứu này là 32,86% bao gồm SDD mức độ vừa 14,29% 
và 18,57% là SDD nặng. 
Thang điểm Tình trạng dinh dưỡng
Sức khỏe tổng quát 0,1332
Thang điểm chức năng
Thể chất
Vai trò
Cảm xúc
Xã hội
Nhận thức
0,1352
<0,052
<0,052
0,4742
0,7912
Thang điểm triệu chứng
Mệt
Buồn nôn - nôn
Đau
Khó thở
Mất ngủ
Chán ăn
Táo bón
Tiêu chảy
Khó khăn tài chính
0,5101
<0,052
0,7512
0,2622
0,7632
0,3322
0,4492
0,7912
0,5332
1: ANOVA 2: Kruskal Wallis p<0,05: có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nhận được cho thấy TRDD không ảnh hưởng đến sức khỏe tổng quát nhưng có ảnh hưởng lên 
chức năng vai trò, chức năng cảm xúc và triệu chứng buồn nôn - nôn và mối liên quan này có ý nghĩa thống 
kê. .p<0,05). 
Biểu đồ 3. Tình trạng dinh dưỡng đánh giá theo SGA
4. BÀN LUẬN
4.1. Chất lượng sống của bệnh nhân ung thư 
được hóa trị 
Sức khỏe tổng quát của bệnh nhân ung thư 
được hóa trị
Điểm sức khỏe tổng quát trung vị trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 50,0; ở mức trung bình, cho 
thấy CLS của các bệnh nhân trong nghiên cứu cũng 
ở mức trung bình. Tuy nhiên giá trị này thấp hơn 
so với giá trị tham chiếu toàn cầu của EORTC là 
61,3 ± 24,2 cho tất cả các loại ung thư và tất cả các 
giai đoạn. Kết quả này cũng thấp hơn so với trong 
nghiên cứu của tác giả Vergara, tác giả Movsas là 
66,7 điểm cho cả 2 nhóm nghiên cứu. Sự khác nhau 
33
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
này là do khác nhau trong tiêu chuẩn chọn mẫu cho 
nghiên cứu. Nghiên cứu của tác giả Movsas chỉ lựa 
chọn những đối tượng là ung thư phổi không tế bào 
nhỏ không thể phẫu thuật và/hoặc ung thư phổi tại 
chỗ tiến triển chưa điều trị và đồng thời các đối 
tượng cũng được phân thành các nhóm với các tiêu 
chuẩn xác định để đánh giá. Trong khi nghiên cứu 
này bao gồm tất cả các bệnh nhân trải qua hóa trị 
liệu, bất kể là hóa trị bổ trợ, tân bổ trợ, gây đáp ứng 
hay là hóa trị triệu chứng [10], [14].
Điểm số chức năng của bệnh nhân ung thư 
được hóa trị
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, tất cả các 
lĩnh vực chức năng đều có điểm số từ 50 điểm trở 
lên, trong đó chức năng xã hội có điểm thấp nhất là 
50, do đó CLS của các bệnh nhân trong nghiên cứu 
là tốt. Hầu hết các thang đo chức năng trong nghiên 
cứu này nằm trong phạm vi giá trị tham khảo đã 
thiết lập. Điều này phản ánh rằng nhóm nghiên cứu 
có năng lực trên mức trung bình về các lĩnh vực thể 
chất, vai trò, cảm xúc và nhận thức. Ngoại trừ lĩnh 
vực xã hội có kết quả thấp hơn phạm vi của giá trị 
tham khảo [7].
Điểm vai trò và nhận thức của chúng tôi tốt hơn, 
nhưng điểm thể chất, cảm xúc và xã hội lại kém 
hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Vergara. 
Bên cạnh đó thì điểm chức năng trong nghiên cứu 
của chúng tôi tốt hơn so với trong nghiên cứu của 
Lemonnier chỉ ở lĩnh vực vai trò, nhưng lại kém hơn 
ở lĩnh vực cảm xúc và xã hội. Sự khác nhau về điểm 
số trong lĩnh vực cảm xúc và xã hội như trên có thể 
là do các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi 
chưa được tư vấn về bệnh, chăm sóc cũng như điều 
trị về mặt tâm lý tốt so với nghiên cứu của hai tác 
giả trên [9], [16]. 
Điểm số triệu chứng của bệnh nhân được hóa trị
Từ kết quả nghiên cứu nhận thấy, đa số các lĩnh 
vực mệt, buồn nôn - nôn, đau, khó thở, tiêu chảy có 
điểm số thấp (0 điểm - 44,33 điểm) nên CLS của các 
trường hợp nghiên cứu là tốt. So sánh với phạm vi 
giá trị tham khảo của các lĩnh vực triệu chứng của 
EORTC nhận thấy các lĩnh vực mệt, buồn nôn -nôn, 
đau, khó thở và táo bón nằm trong phạm vi giá trị 
tham khảo. Nhưng các lĩnh vực còn lại là mất ngủ, 
chán ăn và tiêu chảy thì cao hơn rất nhiều phạm vi 
giá trị tham khảo. Điều này một lần nữa cho thấy 
các lĩnh vực triệu chứng mệt, buồn nôn - nôn, đau, 
khó thở và táo bón của nhóm nghiên cứu của chúng 
tôi là tốt. Kết quả này gần tương đồng với tác giả 
Vergara ở lĩnh vực buồn nôn - nôn và đau, và giống 
tác giả Lemonnier ở một số lĩnh vực như đau, táo 
bón và tiêu chảy. Tác giả Lemonnier chỉ ra rằng điểm 
số thấp của các triệu chứng mệt, táo bón, buồn nôn 
- nôn và chán ăn liên quan đến thời gian sống còn 
tốt hơn [7], [10], [12].
- Khó khăn tài chính
Điểm số khó khăn tài chính trong nghiên cứu của 
tác giả Nông Văn Dương là 35,3; hay trong nghiên 
cứu ngoài nước của tác giả Movsas là 0 ở cả hai 
nhóm nghiên cứu. Những kết quả này thấp hơn rất 
nhiều so với kết quả thu được từ nghiên cứu của 
chúng tôi là 66,67. Đây cũng là một trong những lĩnh 
vực có điểm số cao nhất trong số những thang điểm 
đơn trong nghiên cứu [2], [11].
Từ kết quả nghiên cứu nhận thấy rằng chi phí 
điều trị bệnh ung thư là một gánh nặng về kinh tế 
cho bệnh nhân. Mặc dù có bảo hiểm y tế chi trả 
nhưng với mức thu nhập bình quân đầu người ở 
Việt Nam là rất thấp và hầu hêt các chi phí y tế phát 
sinh trong quá trình hóa trị ung thư là do bệnh nhân 
tự chi trả thì chi phí điều trị nhìn chung vẫn là một 
con số đáng kể. Điều này là một trong những rào cản 
để bệnh nhân có thể tuân thủ điều trị để duy trì và 
cải thiện CLS [1].
4.2. Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư được hóa trị
Bảng 5. So sánh tình trạng dinh dưỡng với các tác giả khác
Nghiên cứu Suy dinh dưỡng nặng Suy dinh dưỡng vừa Dinh dưỡng tốt
Nourissat 17% 34% 49%
Montoya J.E 4,5% 43,2% 52,3%
Phạm Thị Thu Hương 55,7% 44,3%
Phạm Thị Thanh Hoa 11,6% 46,9% 41,4%
Chúng tôi 18,57% 14,29% 67,14%
Qua bảng 5 ta thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng trong 
nghiên cứu chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên 
cứu trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên tỷ lệ suy 
dinh dưỡng nặng trong nghiên cứu này cao hơn. Sự 
khác biệt này có thể được giải thích do đối tượng 
nghiên cứu của chúng tôi bao gồm tất cả các bệnh 
nhân với tất cả các loại ung thư khác nhau, ở nhiều 
giai đoạn khác nhau của quá trình điều trị và đa số 
bệnh nhân đã được điều trị trước đó bằng hóa trị, xạ 
trị, phẫu thuật đơn thuần hay kết hợp các phương 
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
pháp. Trong một nghiên cứu khác tương tự nghiên 
cứu của chúng tôi của tác giả Montoya J.E, tỷ lệ SGA 
A là 52,30%, SGA B là 43,20% và SGA C là 4,50%. Kết 
quả này cũng khác với nghiên cứu của chúng tôi về 
tỷ lệ của mỗi phân loại SGA, tỷ lệ suy dinh dưỡng 
nặng rất thấp nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng chung 
trong nghiên cứu này lại cao hơn nghiên cứu của 
chúng tôi (47,70% so với 32,86%). Tác giả Arrieta khi 
nghiên cứu trên bệnh nhân được chẩn đoán ung thư 
phổi gần đây, giai đoạn IV và chưa được điều trị gì 
trước đó, tỷ lệ SDD chung cao hơn so với nghiên cứu 
chúng tôi. Tác giả Phạm Thị Thu Hương khi nghiên 
cứu trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng được hóa 
trị cũng cho thấy thì tỷ lệ nguy cơ SDD cũng chiếm 
tỷ lệ cao nhất là 55,7%. Tác giả Phạm Thị Thanh Hoa 
cho thấy tỷ lệ SDD ở bệnh nhân ung thư đường tiêu 
hóa được hóa trị đang ở mức cao 58,5% [3], [4], 
[10], [12].
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy vấn đề dinh 
dưỡng vẫn chưa được quan tâm nhiều ở các bệnh 
nhân bị ung thư. Tỷ lệ bệnh nhân SDD vẫn còn cao. 
Nguyên nhân có thể là do chế độ ăn uống hằng ngày 
của bệnh nhân chưa phù hợp với đặc điểm bệnh ung 
thư là bệnh có nhu cầu dinh dưỡng cao. Ngoài ra do 
tác dụng phụ và độc tính của các phương pháp điều 
trị làm hạn chế vấn đề ăn uống hằng ngày của bệnh 
nhân. Điều này dẫn đến đáp ứng kém với điều trị. 
Do đó đề nghị cần đánh giá và can thiệp dinh dưỡng 
trước và trong suốt quá trình điều trị ung thư.
4.3. Mối liên quan của tình trạng dinh dưỡng 
lên chất lượng sống của bệnh nhân ung thư được 
hóa trị
Kết quả nhận được cho thấy TRDD không ảnh 
hưởng đến sức khỏe tổng quát nhưng có ảnh hưởng 
lên chức năng vai trò, chức năng cảm xúc và triệu 
chứng buồn nôn - nôn và mối liên quan này có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). 
Khi tham khảo các kết quả của những tác giả 
trong nước và trên thế giới, chúng tôi nhận thấy kết 
quả của mình cũng tương đối phù hợp. Tác giả Phạm 
Hùng Cường và cộng sự chỉ ra rằng cân nặng ảnh 
hưởng đến thang điểm triệu chứng mệt, chán ăn, 
khó khăn tài chính, khó thở và ho ở bệnh nhân ung 
thư phổi không tế bào nhỏ. Tác giả Phạm Thị Thanh 
Hoa cũng chỉ ra rằng TRDD và CLS khác nhau trên các 
nhóm về sức khỏe tổng quát, về chức năng thể chất, 
xã hội, hoạt động và các triệu chứng mệt mỏi, chán 
ăn, đau, khó khăn về tài chính. Tác giả Nourissat cho 
thấy ngoài sự liên quan giữa dinh dưỡng với chức 
năng vai trò và triệu chứng buồn nôn - nôn, còn có 
mối liên quan giữa dinh dưỡng với các lĩnh vực chức 
năng khác ngoại trừ cảm xúc và các lĩnh vực triệu 
chứng khác ngoại trừ khó thở, mất ngủ và lĩnh vực 
khó khăn tài chính. Và tác giả cũng khẳng định một 
mối liên quan mạnh giữa sụt cân và CLS kém và kiến 
nghị tầm quan trọng của quản lý dinh dưỡng ở bệnh 
nhân ung thư. Tác giả Vergara cũng báo cáo mối liên 
quan giữa điểm chức năng thể chất, vai trò, cảm xúc, 
nhận thức, điểm triệu chứng mệt, buồn nôn - nôn, 
đau, khó thở, mất ngủ, chán ăn và điểm sức khỏe 
tổng quát với các nhóm của đánh giá SGA. Trong 
một nghiên cứu hồi cứu của tác giả Gupta, SDD có 
liên quan đến sự kém hơn về CLS và các lĩnh vực của 
nó, và với bệnh nhân có TRDD tốt hơn thể hiện mức 
độ chức năng tốt hơn trong khi phân tích dưới nhóm 
của bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên kết 
quả thu được này hoàn toàn khác với nghiên cứu 
của tác giả Vilchez Trabal không cho thấy mối liên 
quan giữa TRDD và CLS [1], [3], [8], [12], [15], [16]. 
5. KẾT LUẬN
Chất lượng sống của bệnh nhân ung thư được 
hóa trị nhìn chung là tốt. Điểm chất lượng sống tốt 
nhất là của lĩnh vực chức năng thể chất với 82,62 
điểm. Điểm chất lượng sống kém nhất là của lĩnh 
vực triệu chứng mất ngủ, chán ăn và khó khăn tài 
chính với 66,67 điểm.
Đa số bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng tốt 
với tỷ lệ 67,14%. Tỷ lệ bệnh nhân suy dinh dưỡng 
vừa hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh nhân 
suy dinh dưỡng nặng gần tương đương với nhau 
(14,29% và 18,57%). 
Tình trạng dinh dưỡng có mối liên quan đến chất 
lượng sống bệnh nhân ung thư được hóa trị ở các 
chức năng cảm xúc, chức năng vai trò và triệu chứng 
buồn nôn - nôn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Hùng Cường và cộng sự (2015), “Khảo sát 
chất lượng sống ở bệnh nhân ung thư phổi tiến xa được 
hóa trị triệu chứng”, Tạp chí Ung thư học Viêt Nam, số 4, 
tr. 132-139. 
2. Nông Văn Dương (2015), Đánh giá chất lượng sống 
của bệnh nhân ung thư vú tại Trung tâm Ung Bướu Thái 
Nguyên Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Bệnh 
viện Ung bướu, Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh. 
35
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
3. Phạm Thị Thanh Hoa và cộng sự (2019), “Tình trạng 
dinh dưỡng và chất lượng sống của bệnh nhân ung thư 
đường tiêu hóa có hóa trị tại Bệnh viện K năm 2018”, Tạp 
chí Ung thư học Viêt Nam, số 1, tr. 420-4253. 
4. Phạm Thị Thu Hương, Cao Thị Thu Hương, “Tình 
trạng dinh dưỡng và khẩu phần của bệnh nhân ung thư 
đại - trực tràng điều trị hóa chất tại bệnh viện Bạch Mai”.
5. Bayram Z., Durna Z., và Akin S. (2014), “Quality of 
life during chemotherapy and satisfaction with nursing 
care in Turkish breast cancer patients”, European Journal 
of Cancer Care, 23(5), pp. 675-684. 
6. Detsky a S., McLaughlin J.R., Baker J.P. et al (1987), 
“What is subjective global assessment of nutritional 
status?”, Journal of Parenteral and Enteral Nutrition, 
11(1), pp. 8–13. 
7. Fayers P. M. et al (2001), EORTC QLQ-C30 scoring 
manual, European Organisation for Research and 
Treatment of Cancer (EORTC) Quality of Life Group, 
Brussels, 3rd edition. 
8. Gupta D, Lis CG, Granick J, Grutsch JF, Vashi PG, 
Lammersfeld CA. (2006), “ Malnutrition was associated 
with poor quality of life in colorectal cancer: a retrospective 
analysis”, Journal of Clinical Epidemiology, 59(7), pp. 704-709.
9. Lemonnier I., Guillemin F., Arveux P. et al (2014), 
“Quality of life after the initial treatments of non- small 
cell lung cancer : a persistent predictor for patients 
“survival”, Health and Quality of Life Outcomes, pp. 1–10. 
10. Montoya J.E., F. D.J., C.A. L. et al (2010) “Nutritional 
status of cancer patients admitted for chemotherapy at 
the National Kidney and Transplant Institute”, Singapore 
Medical Journal, 51(11), pp. 860–864. 
11. Movsas B., Moughan J., Sarna L. et al (2009), 
“Quality of life supersedes the 
classic prognosticators for long-term survival in locally 
advanced non-small- cell lung cancer: An analysis of RTOG 
9801”, Journal of Clinical Oncology, 27(34), pp. 5816–
5822. 
12. Nourissat A., Vasson M.P., Merrouche Y. et al 
(2008), “Relationship between nutritional status and 
quality of life in patients with cancer”, European Journal 
of Cancer, 44(9), pp. 1238–1242. 
13. Pressoir M., Desné S., Berchery D. et al (2010), 
“Prevalence, risk factors and clinical implications of 
malnutrition in french comprehensive cancer centres”, 
British Journal of Cancer, 102(6), pp. 966-971.
14. Scott NW, Fayers PM, Aaronson NK, et al (2008), 
“EORTC QLQ-C30 Reference Values”. 
15. Vilchez Trabal J., Leyes P., Forga M.T. et al (2006), 
“Quality of life, dietary intake and nutritional status 
assessment in hospital admitted cancer patients”, 
Nutrición Hospitalaria, 21(4), pp. 505 - 510. 
16. Vergara N., Montoya J.E., Luna H.G. et al (2013), 
“Quality of life and nutritional status among cancer 
patients on chemotherapy”, Oman Medical Journal, 28(4), 
pp. 270 - 274. 
16. Wie G.A., Cho Y.A., Kim S.Y. et al (2010), 
“Prevalence and risk factors of malnutrition among 
cancer patients according to tumor location and stage in 
the National Cancer Center in Korea”, Nutrition, 26(3), pp. 
263-268.

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_song_va_tinh_trang_dinh_duong_cua_benh_nhan_ung_t.pdf