Cách tiếp cận mới trong việc xây dựng mô hình làng nghề - Du lịch trong các làng nghề truyền thống khu vực Đồng bằng sông Hồng
Định hướng phát triển du lịch, khai thác các giá trị văn hóa của làng nghề truyền thống
đã được xác định trong chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, định hướng quy hoạch du
lịch của nhiều tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Tuy nhiên đến nay
(2019) có rất ít những làng thành công, cơ bản tại các làng nghề hoạt động du lịch còn
nhỏ, lẻ, mang tính tự phát.
Bài viết này chỉ ra rằng cần thiết phải có cách tiếp cận mới, giải pháp mới. Thay đổi
cách thức khai thác các giá trị văn hóa nghề hiện nay đang tự phát, manh mún, không
chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch, coi du lịch là yếu tố “ăn theo” của phát triển
nghề, tạo ra nhiều mâu thuẫn về môi trường, không gian giữa hoạt động sản xuất nghề
và hoạt động du lịch. Nghiên cứu đề xuất mô hình Làng nghề - Du lịch với các giải pháp
đồng bộ như một mô hình mới khả thi, bền vững trong việc khai thác hiệu quả các tiềm
năng văn hóa của các làng nghề truyền thống vùng ĐBSH nhằm phát triển du lịch, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách tiếp cận mới trong việc xây dựng mô hình làng nghề - Du lịch trong các làng nghề truyền thống khu vực Đồng bằng sông Hồng
SË 103+104 . 2020128 trong các làng nghề truyền thống khu vực Đồng bằng sông hồng Đặt vấn đề Vùng ĐBSH có khoảng 7.500 làng truyền thống với khoảng 1.500 làng nghề, 11 nhóm nghề trong đó khoảng 300 làng được công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề truyền thống không chỉ có nghề mà hầu hết còn có nhiều giá trị về di sản kiến trúc, cảnh quan và các giá trị văn hóa phi vật thể khác. Đây thực sự là tiềm năng quý giá để các làng nghề phát triển du lịch, đóng góp vào phát triển kinh tế, bảo tồn các giá trị văn hóa. Đã có định hướng phát triển cấp quốc gia, đề án về lĩnh vực này như: Chương trình Bảo tồn và phát triển làng nghề của PGS.TS. Phạm hùnG CườnG Đại học Xây dựng Định hướng phát triển du lịch, khai thác các giá trị văn hóa của làng nghề truyền thống đã được xác định trong chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, định hướng quy hoạch du lịch của nhiều tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Tuy nhiên đến nay (2019) có rất ít những làng thành công, cơ bản tại các làng nghề hoạt động du lịch còn nhỏ, lẻ, mang tính tự phát. Bài viết này chỉ ra rằng cần thiết phải có cách tiếp cận mới, giải pháp mới. Thay đổi cách thức khai thác các giá trị văn hóa nghề hiện nay đang tự phát, manh mún, không chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch, coi du lịch là yếu tố “ăn theo” của phát triển nghề, tạo ra nhiều mâu thuẫn về môi trường, không gian giữa hoạt động sản xuất nghề và hoạt động du lịch. Nghiên cứu đề xuất mô hình Làng nghề - Du lịch với các giải pháp đồng bộ như một mô hình mới khả thi, bền vững trong việc khai thác hiệu quả các tiềm năng văn hóa của các làng nghề truyền thống vùng ĐBSH nhằm phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới. (*) Từ khóa: Du lịch làng nghề, làng nghề truyền thống, du lịch văn hóa. new aPProaCh in buildinG a Trade villaGe model - TouriSm in TradiTional Trade villaGeS in The red river delTa Tourism development orientations, exploitation of cultural values of traditional craft villages have been determined in the socio- economic development guidelines, tourism planning orientations of many provinces and cities in the Red River Delta. However, up to now (2019), there are very few successful villages, basically in small and spontaneous tourism craft villages. This article points out that a new approach or new solution is needed. Changing the way of exploiting the cultural values of the current profession is spontaneous and fragmented, not paying attention to developing tourism products, considering tourism as a “follow” factor of professional development, creating many conflict on environment and space between professional production activities and tourism activities. Study and propose the model of Craft Tourism Village with comprehensive solutions as a feasible and sustainable new model in effectively exploiting the cultural potentials of traditional craft villages in the Red River Delta to develop tourism, contributing to socio-economic development and new rural construction. (*) TronG việC xây dựnG mô hình lànG nGhề - du lịCh CáCh TiếP Cận mới 129SË 103+104 . 2020 ≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝ Bộ NN&PTNT năm 2011 có mục tiêu đến năm 2015 bảo tồn từ 30-40 làng nghề truyền thống, phát triển 50-70 làng nghề mới gắn liền với du lịch. Đề án “Chương trình Quốc gia mỗi xã một sản phẩm - OCOP” giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030 có mục tiêu phát triển đến năm 2020 có 80-100 làng (bản) văn hóa du lịch đạt tiêu chuẩn từ 3-5 sao; Đề án Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch đến năm 2025, định hướng 2030 của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch - Tổng cục Du lịch (2016) và các định hướng phát triển du lịch của các tỉnh trong đó có cả phát triển du lịch tại các làng nghề.(5) Tuy nhiên hiện nay (2019) mới chỉ có làng gốm Bát Tràng có hoạt động du lịch khá tốt, các làng khác hoạt động du lịch ở quy mô nhỏ. Thuật ngữ “loay hoay tìm ra giải pháp”, “khai thác chưa hiệu quả”, “cần có một chính sách bài bản” đang được nhắc đến nhiều trong các hội thảo, các bài viết nghiên cứu về thực trạng phát triển làng nghề gắn với du lịch gần đây.(7)(8) Tìm hiểu 30 làng có nghề truyền thống trong phạm vi vùng ĐBSH cho thấy nguyên nhân của thực trạng trên là: n Các làng nghề chưa được đánh giá đúng về mặt tiềm năng phát triển du lịch, quá chú trọng vào việc đưa khách đến xem, thăm quan nghề mà chưa giới thiệu được các giá trị văn hóa khác của làng nghề truyền thống. Chính vì vậy các sản phẩm du lịch khá đơn điệu, không hấp dẫn được khách, không có các hoạt động cuốn hút giữ khách ở lại lâu, vì vậy doanh thu từ du lịch thấp. n Cách làm hiện nay chỉ chú trọng vào khai thác mà ít chú ý phát triển các sản phẩm du lịch mới để vừa thu hút khách du lịch, vừa thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm nghề truyền thống. Thiếu hệ thống sản phẩm du lịch đồng bộ, không đủ để một làng trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn. n Cách phát triển làng nghề vẫn là tìm cách phát triển thị trường, chú trọng vào kinh tế mà chưa nhìn nhận phát triển kinh tế du lịch cũng là một thế mạnh về phát triển kinh tế của làng nghề. Việc chỉ quan tâm phát triển nghề trước du lịch dẫn đến rời xa giá trị văn hóa, chạy theo sản phẩm thị trường, các giá trị văn hóa nghề giảm sút. Có hiện tượng ... g các làng nghề hiện nay, các nghề truyền thống đang khó cạnh tranh với các sản phẩm tương tự sản xuất bởi công nghệ mới, vật liệu mới. Mỗi một loại nghề, sản phẩm phải có sự sáng tạo riêng, đặc biệt là sự tham gia của các nhà thiết kế (designer), các họa sỹ, tạo dáng công nghiệp... góp sức để sản phẩm nghề có thêm các loại hình mới. Sự khởi sắc ở các làng nghề gốm Bát Tràng, Phù Lãng đã minh chứng cho sự quan trọng của việc sáng tạo ra các sản phẩm mới cho nghề truyền thống. Hình dưới đây minh họa khả năng phát triển các sản phẩm truyền thống từ loại đó bắt tôm cá được đan ở làng Nội Lăng, Tất Viên (xã Thủ Sỹ, Hưng Yên) thành đồ lưu niệm, sản phẩm tiêu dùng mới. n Khai thác được tất cả các giá trị văn hóa truyền thống của văn hóa làng, văn hóa vùng ĐBSH, chú trọng tạo lập giá trị tích hợp. Đây là quan điểm khác biệt với cách nhiều nơi đang khai thác làng nghề làm du lịch hiện nay, thường chỉ đưa khách đến thăm quan nơi sản xuất mà thiếu sự giới thiệu về các giá trị văn hóa khác của làng thể hiện qua các di sản kiến trúc như đình chùa, miếu, nhà cổ và các di sản văn hóa phi vật thể khác của làng. Tính đa dạng của các giá trị sẽ tạo nên sự đa dạng về sản phẩm du lịch, cũng là điều kiện để tổ chức các hoạt động du lịch thành công. Cần giới thiệu cả văn hóa làng và văn hóa vùng ĐBSH, các sản phẩm đặc sản OCOP của vùng (theo chương trình quốc gia “mỗi xã một sản phẩm”). Ví dụ biểu diễn múa rối nước, hát chèo là văn hóa không chỉ riêng của làng nào mà là văn hóa chung của vùng, đều có thể tạo lập và giới thiệu ở nhiều làng. Các sản vật ẩm thực, hoa quả của vùng ĐBSH đều có thể giới thiệu được ở làng. Chú trọng khai thác các giá trị di sản nổi bật, đã có thương hiệu. Ví dụ cùng nhóm mây tre đan nhưng nón lá làng Chuông đã có thương hiệu, gắn liền với văn hóa, hình ảnh phụ nữ Việt Nam, rất có thể mạnh để tạo bản sắc riêng. n Thiết lập được các Bộ sản phẩm du lịch dựa trên các giá trị tiềm năng có sáng tạo. Không thể khai thác các làng nghề như một thứ tài nguyên sẵn có. Các tài nguyên văn hóa này khẳng định hiện mới là tiềm năng, cần phải thiết lập sáng tạo, có đầu tư để trở thành các bộ sản phẩm du lịch có tính sáng tạo, bền vững, khai thác lâu dài. Bộ sản phẩm du lịch phải phong phú, đúng với nhu cầu của sản phẩm du lịch, bao hàm hết các nhu cầu của khách như thăm quan, trải nghiệm, vui chơi, ẩm thực, lưu trú. Có bốn nhóm sản phẩm du lịch cần thiết lập là: n Nhóm sản phẩm du lịch văn hóa nghề truyền thống: Khai thác đủ các khía cạnh lịch sử phát triển nghề, các quy trình sản xuất đặc biệt, tinh hoa của sản phẩm, giá trị văn hóa cộng đồng, các tập quán hình thành cùng với nghề. Có cả sản phẩm thăm quan và sản phẩm trải nghiệm học tập, khảo cứu. n Nhóm sản phẩm du lịch văn hóa nghề nông: Khai thác khía cạnh tìm hiểu phương thức sản xuất truyền thống, trải nghiệm kinh nghiệm làm nông, đánh bắt tôm cá, tát nước, thăm quan đồng ruộng, vườn rau hoa, hiểu về các giá trị phi vật thể của văn hóa nghề nông đối với cuộc sống cộng đồng làng. (6) n Nhóm sản phẩm du lịch các di sản kiến trúc, cảnh quan. Đây là khối lượng di sản lớn, nhất là mô hình làng vùng ĐBSH là mô hình cư trú đặc thù, khác với các vùng khác, có cổng, lũy tre, cây đa, đình, chùa, miếu, nhà cổ, vườn nhà, giếng, ao làng cầu đá, chợ, quán... nhiều di sản được công nhận là di tích. n Nhóm sản phẩm văn hóa phi vật thể: Ẩm thực, nghệ thuật biểu diễn, trang phục, tập quán, lễ hội... Như vậy dù là làng nghề truyền thống, cần xác định văn hóa nghề chỉ là một loại hình tạo lập sản phẩm du lịch. Trong các nhóm sản phẩm này, các bộ sản phẩm cụ thể như thăm quan, trải nghiệm nghề, ẩm thực, trò chơi, đồ lưu niệm, khảo cứu, thăm quan học tập... cần được thiết lập cụ thể. ≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝ Mẫu 1 Mẫu đan làm đồ lưu niệm. Từ hình chiếc đó truyền thống có khoét 2 chỗ để hom, trong 2 hom này đặt 2 túi đựng mạ gieo, khi tưới nước mạ sẽ mọc xanh. Gợi nhớ hình ảnh các khóm mạ vùng lúa nước ĐBSH. Mẫu 2 Mẫu Khay hoa quả: Đan làm đồ lưu niệm và đồ bày hoa quả. Là mẫu đó bắt cá được cải biên mẫu để đựng được hoa quả. Hoa quả đựng trong mẫu bán kèm vào mùa hè sẽ là Nhãn lồng, đặc sản của Hưng Yên. Mẫu 3 Mẫu nghệ thuật sắp đặt. Là tổ hợp 5 con cá tạo hình từ đó đan. Kích thước tổ hợp khoảng 1,5m x 1,2m. Để trưng bày tại các vườn, trên mặt nước. Mẫu 4 Chùm đèn làm bằng đó bắt cá. Là tổ hợp của các đó truyền thống, liên kết bằng khung thép, thân bằng tre. Có thể đặt đứng độc lập, bên trong có đèn. Làm đèn vườn, đặt dọc lối đi. Cao khoảng 2,1m. Hình 1. Sản phẩm đan “đó” được phát triển thành đồ lưu niệm, đèn trang trí. SË 103+104 . 2020132 Khi có nhiều bộ sản phẩm du lịch sẽ níu chân du khách lâu hơn, khách chi trả nhiều hơn. Tạo nên hiệu quả của việc tổ chức hoạt động du lịch. n Phải tích hợp không gian du lịch trong quy hoạch xây dựng, tổ chức không gian làng, xã. Các xã có làng nghề đã có Quy hoạch xây dựng nông thôn mới phải có nghiên cứu để điều chỉnh, bổ sung các không gian du lịch nếu có định hướng phát triển theo mô hình. Nhiều không gian phải được thiết kế, tạo lập có bản sắc theo mục tiêu phục vụ khách du lịch. Có tối thiểu 16 loại hình không gian du lịch cần được thiết lập, gắn kết với đồ án Quy hoạch xây dựng nông thôn. Trong nhóm các không gian này, Trung tâm dịch vụ du lịch là loại hình hầu như chưa có ở các làng, vì vậy phải có quỹ đất dự kiến trong quy hoạch để hình thành. Các không gian đường làng, không gian khu bán hàng lưu niệm, không gian trải nghiệm trong hộ gia đình... đều phải được thiết kế tạo lập bản sắc, phù hợp với yêu cầu của bộ sản phẩm du lịch. n Hình thành bộ máy quản lý phù hợp, cách thiết lập phù hợp. Có hai cách thiết lập và quản lý, vận hành mô hình có thể lựa chọn. Mô hình dạng A: Mô hình tập trung (tham khảo mô hình du lịch làng quê của làng Yên Đức - Đông Triều, Quảng Ninh). Trung tâm dịch vụ du lịch có vai trò điều phối toàn bộ hoạt động du lịch của làng, do một doanh nghiệp thực hiện. Doanh nghiệp quản lý tất cả các tua thăm quan, phân bố khách đến các điểm dịch vụ, là đơn vị đầu tư chính cho việc tổ chức các không gian du lịch, quản lý chất lượng du lịch tại tất cả các điểm thăm quan. Việc đầu tư ban đầu hạ tầng chung của làng do chính quyền địa phương và Trung tâm cùng phối hợp. Mô hình này có ưu điểm là có sự kiểm soát tốt về chất lượng, sự đầu tư hệ thống sản phẩm, chủ động về khách do có một doanh nghiệp du lịch lớn (Công ty du thuyền Đông Dương) tạo lập, kết nối khách từ Hà Nội - Hạ Long đi qua. Nhược điểm: Số lượng hộ gia đình thực sự làm du lịch chưa nhiều. Doanh nghiệp có vai trò quyết định nên nếu một doanh nghiệp đó đổi mô hình hoạt động có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của mô hình. Các nơi khác khó học tập được mô hình này. Nguồn khách chưa đa dạng, các sản phẩm du lịch còn thiếu (đồ lưu niệm, các sản phẩm OCOP). Mô hình dạng B: Mô hình Hợp tác xã (HTX) dịch vụ du lịch Thiết lập HTX dịch vụ du lịch, huy động các gia đình, doanh nghiệp đầu tư, doanh nghiệp lữ hành tham gia. HTX đề ra các quy định hoạt động chung, hỗ trợ đầu tư giữa các thành viên, kiểm soát chất lượng chung. q Đầu tư thiết lập các bộ sản phẩm du lịch. Đầu tư cơ sở vật chất ban đầu tại cơ sở du lịch. Do từng đơn vị doanh nghiệp, hộ gia đình đầu tư. HTX có vai trò kết nối, tổ chức thực hiện theo đề án phát triển. q Đầu tư hạ tầng và duy trì chất lượng các không gian du lịch chung: Do chính quyền địa phương phối hợp HTX, các đơn vị dịch vụ du lịch. q Kiểm soát chất lượng dịch vụ du lịch: HTX là đầu mối kiểm soát chất lượng chung. Trung tâm dịch vụ du lịch trong HTX có vai trò điều phối các tua chính. Các tua khách lẻ do các điểm dịch vụ tự quản lý. Các điểm dịch vụ cùng HTX xây dựng thị trường khách hàng. Mô hình này có ưu điểm huy động được nhiều thành phần cộng đồng dân cư tham Hình 2. Sơ đồ các không gian hoạt động du lịch chủ yếu trong làng nghề Hình 3: Minh họa cách tổ chức cảnh quan du lịch đường làng, cầu, quán 133SË 103+104 . 2020 gia, không bị phụ thuộc vào một doanh nghiệp. Tuy nhiên, phải có đề án phát triển rõ ràng, có sự đầu tư ban đầu của doanh nghiệp nòng cốt và chính quyền địa phương. Mỗi một mô hình quản lý đều liên quan đến hiệu quả khai thác không gian và vận hành du lịch. Việc lựa chọn mô hình nào cần có sự trao đổi cụ thể với địa phương, cộng đồng để có giải pháp phù hợp. Dù là mô hình nào cũng phải đảm bảo hình thành được nhiều nhất các sản phẩm du lịch, khai thác được hết các tiềm năng về di sản, làng nghề. q Kết nối vùng và liên kết trong quy hoạch du lịch vùng, tỉnh. Trong quá trình lập đề án phát triển phải có kế hoạch, mục tiêu kết nối với các tua, tuyến điểm du lịch trong vùng và trong tỉnh. Gắn kết trong quy hoạch du lịch vùng, tỉnh. Trong những giai đoạn đầu khi chưa có thương hiệu, việc kết nối tuyến điểm du lịch với các Khu du lịch lớn đô thị lớn như: Hà Nội, Ninh Bình, Hạ Long, Sa Pa rất quan trọng để đảm bảo có lượng khách thường xuyên. Việc kết nối các sản phẩm vùng trong một tổng thể quy hoạch du lịch cũng để đảm bảo các sản phẩm du lịch trong một tỉnh không bị trùng lặp giữa các làng, mỗi làng phải phát triển theo thế mạnh, tạo bản sắc, thương hiệu du lịch riêng. Kết luận Chuyển đổi một phương thức hoạt động kinh tế từ nghề nông, nghề thủ công đơn thuần của các làng nghề truyền thống sang kết hợp hoạt động du lịch, một phương thức hoạt động kinh tế văn hóa đòi hỏi phải có nghiên cứu, thiết lập mô hình rõ ràng, có đầu tư và quản lý vận hành bền vững. Mô hình Làng nghề - Du lịch với các nguyên tắc phát triển, khai thác được các thế mạnh của nghề, của làng, của văn hóa làng, văn hóa vùng cùng với các mô hình quản lý phù hợp sẽ là một mô hình bền vững, đủ cơ sở để có thể thiết lập đề án phát triển du lịch cho các làng cụ thể có nhiều tiềm năng. Rất cần sự quan tâm đầu tư của nhà nước, chương trình phát triển nông thôn, của các địa phương có làng nghề nhiều tiềm năng, xây dựng thí điểm theo mô hình để từ đó có thể nhân rộng trong vùng ĐBSH. NGÀY NHẬN BÀI: 02/4/2020 NGÀY GỬI PHẢN BIỆN: 03/4/2020 NGÀY DUYỆT ĐĂNG: 18/4/2020. Ghi chú: * Bài báo cám ơn sự hỗ trợ của đề tài:” Nghiên cứu xây dựng mô hình làng nghề - du lịch và làng di sản - du lịch khu vực ĐBSH nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2018-2020. 1. Phạm Hùng Cường. Nhận diện giá trị di sản trong công tác bảo tồn. Tạp chí Kiến trúc (trang 26-30), số 282 - tháng 10/2018. 2. Phạm Hùng Cường. Bảo tồn thích ứng các di sản làng xã truyền thống trong quy hoạch nông thôn mới. Tạp chí Kiến trúc (trang 34-38), số 294 - tháng 10/2019. 3. Lê Quỳnh Chi (2017). Phát triển du lịch cộng đồng tại làng truyền thống ngoại thành Hà Nội - Lấy làng Cựu làm trường hợp nghiên cứu. Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, Tập 11 số 5 - tháng 09/2017. 4. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch - Tổng cục Du lịch (2016). Đề án chiến lược phát triển sản phẩm du lịch đến năm 2025, định hướng 2030. 5. Đề án “ Chương trình Quốc gia mỗi xã một sản phẩm - OCOP” Giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030. 6. Liên hiệp Khoa học phát triển Du lịch bền vững (STDE). Đề tài: “Nghiên cứu phát triển sản phẩm du lịch tại di tích làng cổ Đường Lâm”. Đề tài NCKH cấp thành phố Hà Nội, năm 2014. 7. Vân Anh - Mỹ Linh - Đặng Ngân. Làng nghề truyền thống trong cơn lốc thị trường. Trang web: https:// baomoi.com/lang-nghe-truyen-thong-trong-con-loc- thi-truong/c/25824937.epi. Truy cập: QĐND26/04/18 10:34 GMT+712 liên quan Gốc 8. Giang Nam. Giúp làng nghề thích ứng nhu cầu mới và tiếp tục phát triển. Trang web: nhandan.com.vn/nation_news/item/39947902-giup- lang-nghe-thich-ung-nhu-cau-moi-va-tiep-tuc-phat- trien.html. Truy cập: Thứ Ba, 23/04/2019, 01:48:52 ≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝ Hình 4. Minh họa không gian thăm quan và trải nghiệm nghề trong hộ gia đình
File đính kèm:
- cach_tiep_can_moi_trong_viec_xay_dung_mo_hinh_lang_nghe_du_l.pdf