Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi

Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng

protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10

đến 40 ngày tuổi. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi

nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc (73,4±6,22 mg) được ương trong bể composite 35 lít

nước với mật độ 2 con/lít trong thời gian 30 ngày. Trong thí nghiệm này, thức ăn tương

ứng với 5 hàm lượng protein (30%, 35%, 40%, 45% và 50%) được thử nghiệm. Các chỉ

tiêu được ghi nhẫn gồm: tăng trưởng khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử

dụng protein. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng

protein trong thức ăn. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất ở 45% protein và khác

biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ngoài ra, chỉ số FCR đạt thấp nhất ở nghiệm thức cá

ăn thức ăn mức protein 45%. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng protein cũng đạt cao nhất ở

nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Như vậy, ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày

tuổi đến 40 ngày tuổi thì thức ăn chứa 45% protein lả thích hợp nhất.

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 8

Trang 8

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 9

Trang 9

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 3900
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi

Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
241 
ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN CÓ HÀM LƯỢNG PROTEIN 
KHÁC NHAU LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ LÓC 
(Channa striata) GIAI ĐOẠN 10 ĐẾN 40 NGÀY TUỔI 
Trần Ngọc Tuyền1* và Nguyễn Văn Triều2 
1Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô 
2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ 
(*Email: tntuyen@tdu.edu.vn) 
Ngày nhận: 17/10/2020 
Ngày phản biện: 19/11/2020 
Ngày duyệt đăng: 20/02/2021 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng 
protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10 
đến 40 ngày tuổi. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi 
nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc (73,4±6,22 mg) được ương trong bể composite 35 lít 
nước với mật độ 2 con/lít trong thời gian 30 ngày. Trong thí nghiệm này, thức ăn tương 
ứng với 5 hàm lượng protein (30%, 35%, 40%, 45% và 50%) được thử nghiệm. Các chỉ 
tiêu được ghi nhẫn gồm: tăng trưởng khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử 
dụng protein. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng 
protein trong thức ăn. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất ở 45% protein và khác 
biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ngoài ra, chỉ số FCR đạt thấp nhất ở nghiệm thức cá 
ăn thức ăn mức protein 45%. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng protein cũng đạt cao nhất ở 
nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Như vậy, ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày 
tuổi đến 40 ngày tuổi thì thức ăn chứa 45% protein lả thích hợp nhất. 
Từ khóa: Hàm lượng protein, tăng trưởng, thức ăn, tỷ lệ sống 
Trích dẫn: Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2021. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm 
lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa 
striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát 
triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 11: 241-251. 
*Ths. Trần Ngọc Tuyền – Giảng viên Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
242 
1. GIỚI THIỆU 
Các lóc là một trong những loài cá 
đồng được đánh giá có giá trị kinh tế cao. 
Cá lóc có đặc điểm dễ nuôi, cá có khả 
năng chịu đựng tốt với điều kiện khắc 
nghiệt của môi trường và có giá trị dinh 
dưỡng cao. Cá lóc là loài ăn tạp, sử dụng 
được các phế phẩm nông nghiệp, chính 
những đặc điểm trên nên cá lóc đã trở 
thành đối tượng được nhiều người nuôi 
quan tâm (Dương Nhựt Long et al., 2014). 
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện 
nay nghề sản xuất và nuôi cá lóc cũng 
đang gặp phải một số khó khăn như: chất 
lượng con giống hàng năm chưa đảm bảo, 
chưa chủ động đáp ứng cho người nuôi; 
dịch bệnh ngày càng tăng; hệ thống ao 
nuôi chưa hoàn thiện, thiếu ao chứa, ao xử 
lý nước thải dẫn đến tình trạng ô nhiễm 
môi trường nước, giá thức ăn tăng, hiệu 
quả ương nuôi còn thấp Hiện nay có rất 
nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng của cá 
lóc như: xác định nhu cầu duy trì, hiệu 
quả sử dụng protein và năng lượng (Ngô 
Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 
2017); nghiên cứu khả năng tiêu hóa 
nguồn nguyên liệu protein của cá (Ngô 
Minh Dung và trần Thị Thanh Hiền, 
2017); nghiên cứu sự biến đổi về hoạt tính 
enzyme tiêu hóa của ống tiêu hóa ở cá 
(Ngô Minh Dung và ctv., 2017) Tuy 
nhiên, chưa có tài liệu công bố về ảnh 
hưởng của hàm lượng protein khác nhau 
trong thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống 
của cá lóc giai đoạn cá bột lên giai đoạn 
cá hương. Trong hoạt động nuôi thủy sản, 
thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí 
chung từ 50-80% (Trần Thị Thanh Hiền 
và Nguyễn Anh Tuấn, 2019), do đó việc 
nghiên cứu xác định thức ăn có hàm lượng 
protein phù hợp cho sự tăng trưởng, tỷ lệ 
sống của cá lóc là vấn đề rất cấp thiết. 
 Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác 
định thức ăn có hàm lượng protein phù 
hợp cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của 
cá lóc giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Từ 
các kết quả đạt được của đề sẽ tài góp 
phần bổ sung thêm một số thông tin kỹ 
thuật về ương cá lóc, đồng thời giúp người 
ương cá chủ động chọn loại thức ăn cho 
cá nhằm giảm chi phí đầu tư. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được thực hiện tại trại sản 
xuất giống thủy sản phường Phú Thứ, 
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Thí 
nghiệm được tiến hành trên hệ thống bể 
composite có thể tích 35 L/bể và được đặt 
trong nhà có mái che và sục khí liên tục. 
2.1. Bố trí thí nghiệm 
Cá lóc dùng để thí nghiệm khoảng 10 
ngày tuổi, khối lượng trung bình là 
73,4±6,22 mg/con. Thí nghiệm được bố trí 
hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 05 nghiệm thức 
cho cá ăn với 5 loại thức ăn có mức 
protein khác nhau, mỗi nghiệm thức được 
lặp lại 03 lần. Cá được thả ương với mật 
độ 2 con/L trong thời gian 30 ngày. 
2.2. Thức ăn thí nghiệm 
Thức ăn sử dụng trong suốt thời gian 
thực hiện thí nghiệm là thức ăn viên nổi 
cỡ 0,6 mm và chuyên dùng cho cá có vẩy. 
Thành phần hóa học của các loại thức ăn 
dùng để thí nghiệm được trình bày ở Bảng 
1. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
243 
Bảng 1. Thành phần hóa học của thức ăn dùng để ương cá lóc 
 Thức ăn 
 Tỷ lệ phần trăm (%) 
Protein Lipid Xơ Độ ẩm 
Loại 1: 30% 
protein 
30 
8,00 
7,00 11,0 
Loại 2: 35% 
protein 
35 
8,00 
7,00 11,0 
Loại 3: 40% 
protein 
40 
8,00 
7,00 11,0 
Loại 4: 45% 
protein 
45 
8,00 
7,00 11,0 
Loại 5: 50% 
protein 
50 
8,00 
7,00 11,0 
2.3. Chăm sóc và quản lý 
Cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu 
(khoảng 10-12 %/khối lượng thân/ngày) 
và cho ăn 4 lần trong ngày vào các thời 
điểm 7 giờ, 11 giờ, 15 giờ và 19 giờ. 
Thức ăn thừa được siphon sau khi cá ăn 
no ở mỗi lần cho ăn. Trong quá trình thí 
nghiệm, nước trong hệ thống bể ương cá 
được thay 1 lần/ngày vào mỗi buổi sáng 
và thay khoảng 1/3 thể tích nước trong 
mỗi bể. 
2.4. Ghi nhận các kết quả 
Chỉ tiêu về môi trường: Các yếu tố  ... ,13 g/ngày. Tuy nhiên, tốc độ 
tăng trưởng về khối lượng của cá tăng 
dần khi tăng khẩu phần thức ăn cho cá. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
246 
Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối 
theo ngày của cá lóc dao động từ 0,20-
0,93 g/ngày và giá trị này khác biệt có ý 
nghĩa thống kên (p<0,05) giữa các 
nghiệm thức. 
Tương tự, ở một số loài cá khác ăn 
thiên về động vật như: cá lăng vàng 
(Mystus nemurus) (Khan et al., 1993); 
cá trê trắng (Clarias batrachus) 
(Meenakshi Jindal, 2011); cá kết 
(Micronema bleekeri) (Nguyễn Văn 
Triều và ctv., 2014) cũng đã khẳng định 
cá kết tăng trưởng chậm lại khi hàm 
lượng protein trong thức ăn trên 49%. 
Cá kết có khối lượng 269±28,9 mg được 
ương với các loại thức ăn có hàm lượng 
protein tăng dần 24%, 29%, 34%, 
39%,44%, 49% và 54%. Kết quả, tăng 
trưởng khối lượng của cá tăng từ 16,3-
41,9 mg/ngày khi cá được cho ăn mức 
protein 24-49% nhưng tăng trưởng của 
cá chậm lại (20,5 mg/ngày) khi cá được 
cho ăn thức ăn chứa 54% protein. 
 Khi sử dụng thức ăn với hàm lượng 
protein thấp chưa đáp ứng nhu cầu thì 
cá sẽ tăng trưởng chậm. Trái lại, cho cá 
ăn thức ăn chứa lượng protein cao vượt 
quá nhu cầu cần thiết, sẽ rất lãng phí (Lê 
Thanh Hùng, 2008). Hàm lượng protein 
trong thức ăn là yếu tố quyết định đến 
tốc độ tăng trưởng của cá, giá thành và 
hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất 
giống. Vì vậy, việc xác định được hàm 
lượng protein của cá ở các giai đoạn 
khác nhau và tối ưu hóa hàm lượng 
protein trong thức ăn của cá là yếu tố rất 
cần thiết. Nhu cầu protein được định 
nghĩa là lượng protein tối thiểu mà 
nhằm thỏa mãn các nhu cầu acid amin 
để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1983). 
Cá lóc có đặc tính ăn tạp, thức ăn chủ 
yếu là động vật. Trong tự nhiên, cá trê 
ăn côn trùng, giun đất, tôm, cua, cá 
Ngoài ra, ở điều kiện nuôi trong ao, cá 
lóc có thể ăn các phụ phẩm từ trại chăn 
nuôi, nhà máy chế biến thủy sản, chất 
thải từ lò mổ (Dương Nhựt Long, 2004). 
Kết quả thí nghiệm ương cá lóc với các 
hàm lượng protein khác nhau cho thấy, 
hàm lượng protein phù hợp cho sự tăng 
trưởng của cá lóc là 45%. Nhu cầu 
protein trong thức ăn của cá thay đổi tùy 
theo loài, theo giai đoạn phát triển, đặc 
điểm dinh dưỡng của cá (Trần Thị 
Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 
2009). Một số loài cá khác có tập tính ăn 
động vật cũng có nhu cầu protein tương 
tự cá lóc, bao gồm: cá trê vàng Clarias 
macrocephalus) cỡ 18,1 mg là 40,0% 
(Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn 
Triều, 2017); cá kết (Micronema 
bleekeri) cỡ 269 mg là 43,2% (Trần 
Ngọc Tuyền, 2008) hoặc cá trê 
Heterobranchus longifilis là 45% 
(Olufeagba et al., 2002). 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
247 
Bảng 4. Khối lượng trung bình và hệ số biến động CV của cá lóc 
Nghiệm thức 
(% protein) 
Khối lượng 
trung bình (mg) 
Độ lệch 
về khối lượng 
Hệ số 
CV 
NT1: 30 1.934 6,08 0,0031 
NT2: 35 2.364 5,51 0,0023 
NT3: 40 2.728 4,51 0,0017 
NT4: 45 3.152 3,51 0,0011 
NT5: 50 2.859 4,04 0,0014 
(CV- Hệ số biến động: tỷ lệ giữa độ lệch và khối lượng của cá) 
Khối lượng của cá lúc kết thúc thí 
nghiệm (Bảng 4) dao động trong khoảng 
1.934-3.152 mg/con và có sự khác biệt 
giữa 5 nghiệm thức. Cá đạt khối lượng 
thấp nhất ở nghiệm thức 30% protein và 
cao nhất ở nghiệm thức 45% protein. Hệ 
số biến động (CV) lớn nhất là 0,0031 ở 
nghiệm thức 30% protein và nhỏ nhất là 
0,0011 ở nghiệm thức 45% protein. Kết 
quả này khẳng định khi ương cá lóc giai 
đoạn cá 10 ngày tuổi lên 40 ngày tuổi thì 
cá ít phân hóa khối lượng khi được sử 
dụng thức ăn chứa 45% protein. 
Tóm lại, khi ương cá lóc với thức ăn 
chứa hàm lượng protein khác nhau thì sự 
phân hóa sinh trưởng cũng khác nhau. 
Hàm lượng protein trong thức ăn đã ảnh 
hưởng đến sự tăng trưởng của cá, hàm 
lượng protein thấp hoặc cao vượt quá 
nhu cầu thì cá phát triển càng chậm và 
cá phân hóa càng rõ ràng về khối lượng. 
3.3. Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và 
hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc 
Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và hiệu quả 
sử dụng protein của cá lóc được trình 
bày ở Bảng 5. 
Bảng 5. Tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng protein của cá lóc 
Nghiệm thức 
(% protein) 
Tỷ lệ sống 
(SR,%) 
Hệ số thức ăn 
FCR 
Hiệu quả sử dụng 
protein (PER) 
NT1: 30 100±0,00a 1,69 ± 0,01e 62,0 ± 0,20a 
NT2: 35 100±0,00a 1,64 ± 0,02d 65,5 ± 0,16b 
NT3: 40 100±0,00a 1,56± 0,02c 66,4 ± 0,11c 
NT4: 45 100±0,00a 1,46 ± 0,01a 68,4 ± 0,08d 
NT5: 50 100±0,00a 1,50 ± 0,01b 61,9 ± 0,09a 
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về 
thống kê (p<0,05). SR: Tỷ lệ sống; FCR: Hệ số thức ăn; PER: Hiệu quả sử dụng protein. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
248 
Bảng 5 cho thấy tỷ lệ sống của cá ở cả 
5 nghiệm thức đều đạt tối đa (100%). 
Kết quả khẳng định, hàm lượng protein 
trong thức ăn từ 30-50% không ảnh 
hưởng lên tỷ lệ sống của cá lóc. Theo 
Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh 
Hiền (2017), cá lóc có khả năng sống sót 
rất cao mặc dù bị bỏ đói trong một 
khoảng thời gian. Mặt khác, theo 
Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004), tỷ lệ sống 
của cá lóc bông không bị ảnh hưởng bởi 
chế độ cho ăn. Theo Nguyễn Văn Triều 
và ctv., (2014), tỷ lệ sống của cá kết 
cũng không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng 
protein trong thức ăn đã sử dụng. 
 Ở nghiệm thức cá lóc sử dụng thức 
ăn 30% protein cho giá trị FCR cao nhất 
(1,69), hệ số FCR giảm dần theo sự tăng 
dần của hàm lượng protein trong thức ăn 
và đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức 
45% protein (1,46). Theo Tiêu Quốc 
Sang và ctv., (2013), khi nuôi cá lóc giai 
đoạn 60 ngày tuổi lên cá thương phẩm 
thì hệ số thức ăn của cá lóc dao động từ 
1,21-1,68. Điều này cũng xảy ra tương 
tự trên các loài cá khác như: ở cá trê H. 
longifilis hệ số thức ăn giảm khi hàm 
lượng protein trong thức ăn tăng đến 
40% thì hệ số thức ăn đạt 1,33 (Jamabo 
and Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et 
al., 2011); ở cá trê (C. gariepinus) hệ số 
thức ăn là 1,28 khi cho cá ăn thức ăn 
40% protein (Sotolu, 2010); ở cá trê 
vàng (C. macrocephalus) hệ số thức ăn 
là 1,32 khi cho cá ăn thức ăn 40% 
protein (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn 
Văn Triều, 2017). Theo Trần Thị Thanh 
Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009), khi 
thức ăn được cung cấp có hàm lượng 
protein cao trong giới hạn cho phép sẽ 
giúp người nuôi sử dụng thức ăn có hiệu 
quả. Quá trình này cũng xảy ra đối với 
cá lóc, khi phân tích các chỉ tiêu WG, 
SGR và FCR cho thấy, ở nghiệm thức cá 
sử dụng 45% protein cho WG, SGR cao 
nhất và FCR thấp nhất. Mối quan hệ 
giữa hàm lượng protein trong thức ăn và 
hệ số thức ăn của nhóm cá ăn thiên về 
động vật đã được nhiều tác giả chứng 
minh: cá trê trắng (Clarias batrachus) 
(Meenakshi Jindal, 2011); cá trê phi H. 
longifilis (Jamabo and Alfred-Ockiya, 
2008; Otchoumou et al., 2011) và cá trê 
C. gariepinus (Sotolu, 2010); cá trê vàng 
(Clarias microcephalus) (Trần Ngọc 
Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017). 
Hiệu quả sử dụng protein (PER) 
không những thay đổi theo loại protein 
ăn vào mà còn thay đổi theo hàm lượng 
protein trong thức ăn. Theo Nguyễn Thị 
Ngọc Lan (2004), hiệu quả sử dụng 
protein ở cá lóc bông tăng khi hàm 
lượng protein trong thức ăn càng cao. 
Vấn đề này cũng được khẳng định trên 
cá lóc giống (Ngô Minh Dung và Trần 
Thị Thanh Hiền, 2017) và cá trê vàng 
(Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn 
Triều, 2017). Ở cá lóc giai đoạn 10 ngày 
tuổi, hiệu quả sử dụng protein tốt nhất ở 
nghiệm thức cá ăn thức ăn 45% protein 
với giá trị PER cao hơn có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức 
còn lại. Tuy nhiên, nếu hàm lượng 
protein trong thức ăn quá cao thì sẽ dẫn 
đến thừa protein, cơ thể phải tốn năng 
lượng để tiêu hóa lượng protein thừa, 
làm cho tăng trưởng giảm, dẫn đến hiệu 
quả sử dụng protein cũng sẽ giảm. Kết 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
249 
quả thí nghiệm ương cá lóc cho thấy, 
hiệu quả sử dụng protein thấp nhất ở 
nghiệm thức 50% protein (Bảng 5). 
Trong khi đó, ở nghiệm thức 45% 
protein tăng trọng bình quân của cá đạt 
cao nhất (3.079 mg/con) và hiệu quả sử 
dụng protein đạt giá trị tối ưu so với tất 
cả các nghiệm thức còn lại. 
4. KẾT LUẬN 
Cá lóc 10 ngày tuổi, có khối lượng 
trung bình là 73,4±6,22 mg/con được 
ương trong cùng điều kiện thí nghiệm, 
thức ăn chứa 45% protein cho tốc độ 
tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng lớn 
nhất, hệ số tiêu tốn thức ăn thấp nhất và 
hiệu quả sử dụng thức ăn đạt cao nhất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dương Nhựt Long, 2004. Giáo 
trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. 
Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần 
Thơ. 
2. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh 
Tuấn và Lam Mỹ Lan, 2014. Kỹ thuật 
nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học 
Cần Thơ. 
3. Jamabo, N. A., F. J. Alfred - 
Ockiya, 2008. Effects of dietary protein 
levelson the growth performance of 
Heterobranchus bidorsalis (Geoffrey-
Saint-Hillarie) fingerlings from Niger 
delta. Afr. J. Biotechnil. 7 (14): 2483-
2485. 
4. Khan, M. S., J. K. Ang and A. M. 
Ambak, 1993. Optimum dietary protein 
requirement of a Malaysia freshwater 
catfish, Mystus nemurus. Aquaculture, 
Volume 112, Issue 2-3: 227-235. 
5. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và 
dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản 
Nông nghiệp. 
6. Ngô Minh Dung Bùi Minh 
Tâm, Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thị 
Long Châu, Phạm Thị Tú Nga, 2017. 
Nghiên cứu sự thay đổi hoạt tính một số 
enzyme tiêu hóa của cá lóc đen (Channa 
striata) từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi 
với thức ăn khác nhau. Tạp chí Khoa 
học - Trường Đại học Cần Thơ. Tập 49. 
Trang 84-90. 
7. Ngô Minh Dung và Trần Thị 
Thanh Hiền, 2017. Nhu cầu duy trì và 
hiệu quả sử dụng protein, năng lượng 
của cá lóc (Channa striata). Tạp chí 
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. 
Tập 53. Trang 1-9. 
8. Ngô Minh Dung và Trần Thị 
Thanh Hiền, 2017. Phương pháp thu 
phân và khả năng tiêu hóa nguồn nguyên 
liệu protein của cá lóc (Channa striata). 
Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam. 
Tập 81. Trang 114-120. 
9. NRC National Research Council., 
1983. Nutrient requirements of fish 
National Academy press. Washington. 
114pp. 
10. Nguyễn Phú Hòa, 2014. Chất 
lượng môi trường nước trong nuôi trồng 
thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 
11. Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004. 
Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để 
ương nuôi cá lóc bông. Luận văn cao 
học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa 
Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
250 
12. Nguyễn Văn Triều, Trần Ngọc 
Tuyền, Trần Thị Thanh Hiền, Dương 
Nhựt Long và Nguyễn Anh Tuấn. 2014. 
Xác định nhu cầu đạm của cá kết 
(Micronema bleekeri Gunther, 1864) 
giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học - 
Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề 
thủy sản. Trang 229-235. 
13. Otchoumou A. K., M. B. Célestin, 
A. E. Olivier, L. A. Yao, L. N. Sébastien 
and K. D. Jacques, 2011. Effects of 
increasing dietary protein levels on 
growth, feed utilization and body 
composition of Heterobranchus 
longifilis (Valenciennes, 1840) 
fingerlings. African Journal of 
Biotechnology Vol. 11(2), pp. 524-529. 
14. Sotolu A.O., 2010. Effects of 
varying dietary protein levels on the 
breeding performance of Clarias 
geriepinus broodstock and fry growth 
rate. Livestock Research for Rural 
Development 22(4) 2010. 
15. Tiêu Quốc Sang, Dương Nhựt 
Long và Lam Mỹ Lan, 2013. Ảnh hưởng 
của mật độ lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và 
hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá 
lóc (Channa striata) thương phẩm trong 
bể lót bạt. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Cần Thơ. Phần B: Nông nghiệp, 
Thủy sản và Công nghệ sinh học. 25 
(2013):223-230. 
16. Trần Ngọc Tuyền, 2008. Nghiên 
cứu đặc điểm dinh dưỡng và thức ăn cho 
cá kết giai đoạn từ bột lên giống 
(Micronema bleekeri Gunther). Luận 
văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. 
Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cẩn 
Thơ. 
17. Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn 
Triều, 2017. Ảnh hưởng của thức ăn có 
hàm lượng đạm khác nhau lên tăng 
trưởng và tỷ lệ sống của cá Trê vàng 
(Clarias macrocephalus) giai đoạn cá 
bột lên cá giống (Tạp chí Nghiên cứu 
khoa học và phát triển kinh tế - ĐHTĐ. 
Số 02/2017). 
18. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn 
Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn 
thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 
251 
EFFECT OF FEEDING DIFFERENT DIETARY PROTEIN LEVELS 
ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF SNAKEHEAD (Channa 
striata) FINGERLINGS OF 10 TO 40 DAY-OLD STAGE 
Tran Ngoc Tuyen1* and Nguyen Van Trieu2 
1Faculty of Applied Biology, Tay Do University 
2Faculty of Aquaculture & Fisheriesand, Can Tho University 
(*Email: tntuyen@tdu.edu.vn) 
ABSTRACT 
The study was conducted to evaluate the effect of protein levels in feeding on growth and 
survival rate of the snakehead (Channa striata) fingerlings of 10 to 40 day-old stage. The 
experiment was randomly set up with 5 treatments and 3 replications. The snakehead 
(73.4±6,22 mg) was nursed in the croncrete tanks (35L) with the density of 2 fish/L for the 
duration of 30 days. In this study, five different protein levels (30%, 35%, 40%, 45% and 
50%). Survival rate, mean weight, FCR were observed in this study. The results showed 
that survival rate of fish was not affected by the protein content in food. Daily weigth 
growth of fish was highest at the protein of 45% and significantly different (p<0.05) from 
the other treatments. In addition, the lowest FCR was gained by feeding pellet feed of 45% 
protein. Besides, protein efficiency used was highest with feed protein level of 45%. 
Therefore, feed protein level was the most suitable for snakehead at 45% CP. 
Keyswords: Feed, growth, protein level, survival rate 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_thuc_an_co_ham_luong_protein_khac_nhau_len_tan.pdf