Ý tưởng triết luận và sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ trong kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
Cùng với hiệu ứng tích cực của vở diễn “Hồn Trương Ba da hàng thịt” trên sân khấu trong và ngoài nước, số lượng suất
diễn và thời gian “sáng đèn” của vở diễn trong một thời đoạn khá dài, kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” càng được giới
nghiên cứu và phê bình văn học thẩm bình. Trên cơ sở nhắc lại những ý kiến đã có về kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”,
người viết hướng đến “cách đọc” của riêng mình đối với kịch bản này. Tập trung vào khía cạnh tư duy triết luận và kết quả sáng
tạo của Lưu Quang Vũ, bài viết của chúng tôi hướng đến năng lực phát hiện vấn đề - bi kịch cá nhân của nhân vật Hồn Trương
Ba - và ưu thế của ngôn ngữ kịch; sự tiếp biến từ triết lí dân gian đến triết lí Lưu Quang Vũ; góc nhìn phân tâm học của Lưu
Quang Vũ về sự hòa hợp “cái Nó” (id) – “cái Tôi” (ego) – “cái Siêu Tôi” (superego), trong con người Hồn Trương Ba; quan niệm về
con người trong các mối quan hệ đa diện và những tấm gương soi giúp Hồn Trương Ba quyết tâm giải thoát bi kịch.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ý tưởng triết luận và sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ trong kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 https://doi.org/10.47393/jshe.v10i1.924 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 36 | Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 36-46 Cite this article as: Bui, T. N. (2021). Luu Quang Vu’s philosophical argumentation and artistic creativity in the play “Truong Ba’s soul in the butcher's body”. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 11(1), 36-46. https://doi.org/10.47393/jshe.v10i1.924 Ý TƯỞNG TRIẾT LUẬN VÀ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA LƯU QUANG VŨ TRONG KỊCH BẢN “HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT” Bùi Trọng Ngoãn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Việt Nam Tác giả liên hệ: Bùi Trọng Ngoãn - Email: btngoan@ued.udn.vn Ngày nhận bài: 29-3-2021; ngày nhận bài sửa: 17-5-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 Tóm tắt: Cùng với hiệu ứng tích cực của vở diễn “Hồn Trương Ba da hàng thịt” trên sân khấu trong và ngoài nước, số lượng suất diễn và thời gian “sáng đèn” của vở diễn trong một thời đoạn khá dài, kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” càng được giới nghiên cứu và phê bình văn học thẩm bình. Trên cơ sở nhắc lại những ý kiến đã có về kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, người viết hướng đến “cách đọc” của riêng mình đối với kịch bản này. Tập trung vào khía cạnh tư duy triết luận và kết quả sáng tạo của Lưu Quang Vũ, bài viết của chúng tôi hướng đến năng lực phát hiện vấn đề - bi kịch cá nhân của nhân vật Hồn Trương Ba - và ưu thế của ngôn ngữ kịch; sự tiếp biến từ triết lí dân gian đến triết lí Lưu Quang Vũ; góc nhìn phân tâm học của Lưu Quang Vũ về sự hòa hợp “cái Nó” (id) – “cái Tôi” (ego) – “cái Siêu Tôi” (superego), trong con người Hồn Trương Ba; quan niệm về con người trong các mối quan hệ đa diện và những tấm gương soi giúp Hồn Trương Ba quyết tâm giải thoát bi kịch. Từ khóa: bi kịch cá nhân; triết luận; cái Nó; cái Tôi; cái Siêu Tôi. 1. Mở đầu Tuyển tập năm kịch bản tiêu biểu nhất của Lưu Quang Vũ được xuất bản lần đầu (2013), 25 năm sau ngày Lưu Quang Vũ mất (1988), được gia đình ông chọn một nhan đề chung là “Hồn Trương Ba da hàng thịt” và kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” cũng được đặt vào vị trí đầu sách. Nhan đề của tuyển tập và vị trí đó của kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đã phản ánh thái độ đánh giá của người đọc về giá trị văn chương của kịch bản này. Sau tiếng vang của vở kịch trên sân khấu trong và ngoài nước, từ những năm cuối thập niên 1980 đến nay, kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đã được nhiều nhà phê bình văn học, nghệ thuật học phân tích, bình giá. Tựu trung các ý kiến đó xoay quanh các khía cạnh: (1) Vay mượn và làm mới truyện cổ dân gian. Đây là sự ghi nhận của hầu hết các cây bút khi đề cập về kịch bản này. Chẳng hạn, Ngô Thảo bình luận “Tác giả biết làm mới lại, biết phát hiện ra những vỉa quặng tư tưởng mới chứa trong câu chuyện dân gian quen thuộc” (Ly & Luu, 2007, 254). (2) Tính chất bi kịch của vở kịch. Phạm Vĩnh Cư nhận xét: “() Lưu Quang Vũ đổ rượu mới vào bình cũ, kể lại chuyện hài cổ như một bi kịch triết lí thời nay với hai chiều kích đan thoa: chiều kích nhân sinh - xã hội và chiều kích bản thể - siêu hình” (Ly & Luu, 2007, 272). (3) Tính triết lí của vở kịch. Ngô Thảo phát hiện: “Sự định hướng tư tưởng cơ bản của tác giả là: cuộc đời con người là một chỉnh thể” (Ly & Luu, 2007, 255); Lưu Khánh Thơ chỉ ra: “Vở kịch không chỉ nói đến sự hòa hợp và ý thức đạo lí về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách con người” (Ly & Luu, 2007, 280); Phan Trọng Thưởng khẳng định: “Anh khai thác vào sự kiện người chết mượn xác người khác để sống lại nhằm chứng minh cho một luận đề: người ta sống không phải bằng thân xác” (Ly & Luu, 2007, 294). Đặng Hiển đã phát hiện vấn đề nổi trội của vở kịch là tính triết học qua nhan đề bài viết “Hồn Trương Ba da hàng thịt” từ truyện cổ dân gian đến kịch của Lưu Quang Vũ, xét về ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 36-46 37 mặt tư tưởng triết học” (Ly & Luu, 2007, 340-343); nhưng tiếc rằng, trong bài viết, ông chỉ phân tích mối quan hệ linh hồn và thể xác theo kí ức cộng đồng hơn là những kiến giải triết học. (4) Tính đa nghĩa trong thông điệp của vở kịch. Đó là sự phát hiện của Phan Ngọc và Ngô Thảo. Phan Ngọc cho rằng phía sau văn bản tường minh là một “văn bản phụ mang tính toàn nhân loại” (Ly & Luu, 2007, 266). Ngô Thảo nhận xét: “() Vở kịch đã tạo nên trong lòng công chúng một không khí đối thoại hết sức thoải mái và thú vị. Chỉ riêng điều đó đã chứng tỏ tác giả biết làm mới lại, biết phát hiện những vỉa quặng tư tưởng mới chứa trong câu chuyện dân gian quen thuộc” (Ly & Luu, 2007, 254). Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập thêm một số khía cạnh vẫn còn để ngỏ hoặc chưa được phân tích chi tiết. Theo đó, bài viết lần lượt kiến giải về một số sáng tạo của Lưu Quang Vũ trong việc chọn lựa thể loại kịch, sự phát hiện của nhà văn về bi kịch của ông Trương Ba sau khi vay mượn sự sống, về bi kịch không kiểm soát được thân xác vay mượn của Hồn Trương Ba và nghệ thuật sử dụng các nhân vật bổ sung như những tấm gương soi chiếu bi kịch Hồn Trương Ba. Trong đó, vì chủ đề trung tâm của kịch bản là bi kịch Hồn Trương Ba nên chúng tôi ưu tiên phân tích quan hệ hướng nội của bản thân nhân vật trước, quan hệ hướng ngoại được đưa ra sau. 2. Nội dung 2.1. Năng lực phát hiện vấn đề và ưu thế của ngôn ngữ kịch Điểm xuất phát của vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một tích truyện dân gian nhưng không phải là một dạng chuyển thể bởi sự sáng tạo của Lưu Quang Vũ trong phần lớn cốt truyện. Điểm kết thúc của truyện dân gian là cuộc xử kiện của quan huyện mà phần thắng thuộc về Hồn Trương Ba, và tác giả dân gian yên lòng cho hồn Trương Ba trú ngụ trong xác hàng thịt. Trái lại, đối với Lưu Qua ... à quyết liệt ấy chính là tiếng nói của “cái Siêu Tôi” của Hồn Trương Ba. Như một cách xác định đây là tiếng nói của “cái Siêu Tôi”, Lưu Quang Vũ để cho nhân vật bộc lộ bằng độc thoại. “Cái Tôi” Trương Ba đau đớn nhận ra: càng kéo dài sự sống càng vô ích, ông quyết tìm cái chết, chết để được là mình. Vì vậy, ông thắp hương xin gặp Đế Thích. Dù vị tiên cho ông hai giải pháp mà nhân thế ai cũng mong mỏi là được hưởng lộc trời thêm một kiếp người (nhập vào xác cu Tỵ), hoặc bất tử (đổi cho Đế Thích), nhưng Hồn Trương Ba (“cái Siêu Tôi” và “cái Tôi” Trương Ba) vẫn quyết lìa khỏi xác hàng thịt, bỏ hẳn “cái Nó” gán ghép kia để được là mình! Cái chết của Hồn Trương Ba còn kèm thêm hai cuộc tái sinh. Người làm vườn ấy đã nhờ Đế Thích giúp cho người hàng thịt trở lại nhân thế, giúp cho cu Tỵ thoát khỏi lưới trời, sống lại. Chết không phải là hết khi tiếp ngay đó là hai cuộc tái sinh và một linh hồn nhẹ nhõm giữa hoa trái vườn nhà. Hành động vị tha ấy chỉ có thể là biểu hiện của “cái Siêu Tôi” Trương Ba. Nhà triết học Edward O. Wilson đã coi lòng vị tha là một căn tính của con người và ông kiến giải: “Bản tính người đích thực trong lòng vị tha, hiểu theo nghĩa là bổ sung thêm sự minh triết và yếu tố thức nhận vào khế ước xã hội, chỉ có thể xảy ra thông qua xem xét tính đạo đức một cách khoa học và sâu sắc hơn” (Wilson, 2014, 285). Theo đó, hành động nhờ Đế Thích giúp cho hai người được sống lại hoàn toàn không phải là một hành vi đột hiện mà là một việc có chủ ý của Hồn Trương Ba và vì vậy phải coi nó là một sản phẩm của lòng thương người, căn tính đạo đức của ông Trương Ba. Như lời anh con trai “Thôi thầy đi, nhân gian bây giờ khác rồi, mà thầy thì vẫn nghĩ theo lối xưa!” (Luu, 2013, 15), “cái Tôi” của Trương Ba là “cái Tôi” của lề thói cũ, là “cái Tôi” của một nền văn minh nông nghiệp ảnh hưởng đạo đức kiêm ái, nhân nghĩa, hỉ xả truyền thống, một “cái Tôi” tiểu nông ưa sự ổn định, căn cơ, một mặt nó sẽ không ưa sự thay đổi (không chấp nhận việc anh con trai chạy chợ, xa lánh ruộng vườn), không ưa sự khác biệt (không chấp nhận xác anh hàng thịt); một mặt vì tính ổn định, nó là căn nguyên giữ gìn chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhờ “cái Siêu Tôi” hay là cái siêu ngã bền vững mà cái bản năng thân xác hàng thịt (“cái Nó” của hồn Trương Ba da hàng thịt) không thể xô ngã được “cái Tôi” tốt đẹp của Trương Ba. May cho nhân vật Trương Ba, nhờ vào căn nguyên thuần hậu mà “cái Siêu Tôi” vẫn còn là điểm tựa cho “cái Tôi”. Hành động lựa chọn cái chết của ông và hai cuộc tái sinh của hai số phận khác đều xuất phát từ “cái Siêu Tôi” ấy. 2.4. Con người trong các mối quan hệ đa diện và những tấm gương soi Mâu thuẫn kịch trong kịch bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” không phải là mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn cá nhân với xã hội, cá nhân với cá nhânmà là mâu thuẫn ngay trong thế giới nội tại của một cá nhân. Điều đó đòi hỏi tác giả phải phân tích thế giới nội tâm nhân vật, và một trong những đường hướng người viết có thể lựa chọn sẽ là một tập hợp nhỏ các nhân vật kịch và tập trung xây dựng kiểu nhân vật độc thoại nội tâm. Ngược lại thế giới sân khấu trong vở kịch của Lưu Quang Vũ đa dạng từ người cõi trời đến người cõi đời, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, thể xác, linh hồn. Huy động một hệ thống nhân vật như vậy, Lưu Quang Vũ đã đặt nhân vật trung tâm của vở kịch trong hai bình diện quan hệ: quan hệ hướng ngoại và quan hệ hướng nội. Mỗi một phạm trù như vậy cũng là những góc nhìn đa chiều phóng chiếu bi kịch của Hồn Trương Ba. 2.4.1. Bi kịch Trương Ba được soi chiếu từ nhiều phía, nhiều mối quan hệ Dù cuối cùng thì bi kịch đó xoay quanh tình cảnh “không được là mình” của một cá nhân, nhưng Bùi Trọng Ngoãn 44 điều mấu chốt đó được soi chiếu từ nhiều góc độ, nhiều hướng. a. Quan hệ công dân: Không được thừa nhận về mặt pháp lí. Lời Lí trưởng: “Lệ nước, phép quan, sổ sách không có mục ghi chép về hồn nào cả! Anh lấy gì làm bằng cớ? Cái hồn của anh nó hình thù ra sao, vuông hay tròn, hả?” (Luu, 2013, 49). b. Quan hệ tha nhân: (1) Không được thừa nhận về mặt nhân loại. Tại nhà người hàng thịt, khi hồn Trương Ba mới mượn xác, Trưởng Hoạt đã gọi hỏi: “Này con người quái lạ kia” (Luu, 2013, 37). Vợ Trương Ba nhắc lại lời cháu nội: “Thế có hai ông Trương Ba à?” (Luu, 2013, 42). (2) Không được thừa nhận về mặt nhân cách. Anh con trai trắng trợn vạch ra sự thật: “ Đến cái thân thầy mang cũng không phải của thầy, chẳng qua thầy núp nhờ vào đó thôiSo với việc ấy, việc gian lận lừa đảo một vài món hàng của tôi ngoài chợ, nào có nghĩa lí gì!”, “Bản thân con người thầy đứng kia đã là một cái gìmột cái gìkhông ngay thật rồi!” (Luu, 2013, 44-45). Trưởng Hoạt chỉ ra sự tha hóa của Trương Ba: “Bác thay tâm đổi tính thật rồi” (Luu, 2013, 61). (3) Không được thừa nhận về mặt tư cách. Người con trai tuyên bố: “Ông không phải bố tôi, ông không còn là bố tôi nữa!” (Luu, 2013, 45). Lời cháu nội: “Ông giả vờ làm ông nội, về chiếm chỗ của ông nội trong nhà” (Luu, 2013, 52). (4) Không được thừa nhận về mặt đạo nghĩa. Lời lí trưởng: “Thật là một việc động trời, đâu đâu người ta cũng bàn tán có mỗi một chuyện: gã hàng thịt ngang nhiên bỏ nhà, bỏ vợ, tới ở nhà mụ vợ lão Trương Ba mới góa chồng, tự nhận mình chính là lão Trương Ba.” (Luu, 2013, 48). Người vợ Trương Ba phàn nàn: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!” (Luu, 2013, 66). c. Quan hệ nội tại: Từ khi mượn xác, sau niềm vui được tái sinh ban đầu, con người Hồn Trương Ba lúc đó là một khối mâu thuẫn không thể giải quyết bằng giải pháp dung hòa, phải chọn cái chết như một cách loại trừ hẳn. Khi xin được chết hẳn Hồn Trương Ba đã khẩn cầu cho người hàng thịt được sống lại, nghĩa là hồn Trương Ba không ghét bỏ gì con người này, mà chỉ có “cái Tôi” Trương Ba không dung hòa được “cái Nó” (vốn là “cái Nó” của người hàng thịt). 2.4.2. Tha nhân - những tấm gương soi Theo Gustave Le Bon, “Tuy khoa tâm lí cá nhân đặt căn bản trên việc quan sát các cá nhân riêng lẻ, nó nghiên cứu các phương thức mà cá nhân theo nhằm đáp ứng các dục vọng của mình; nhưng thực ra chỉ trong những trường hợp hãn hữu, trong những điều kiện đặc biệt nào đó nó mới có thể bỏ qua được quan hệ của cá nhân với tha nhân. Trong tâm trí của một cá nhân thì một cá nhân khác luôn luôn hoặc là thần tượng, hoặc là một đối tượng, một người hỗ trợ hay kẻ thù” (Gustave, 2014, 313). Hãy đặt một giả định, nếu như không có tha nhân, không có gia đình và người chung quanh, liệu Hồn Trương Ba có nhận ra được một cách đầy đủ quá trình tha hóa của mình không? Thay cho những lời biện giải, bằng ưu thế của nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã giúp cho Hồn Trương Ba soi chiếu toàn bộ hình ảnh của “gã” “Hồn Trương Ba da hàng thịt” trong mắt của mọi người. Cao trào và mở nút đều nằm trong cảnh VII; hầu như tất cả các nhân vật xuất hiện ở các phần trước đều lần lượt có mặt ở cảnh kịch này. Nếu ban đầu họ không chấp nhận nhân cách Hồn Trương Ba da hàng thịt thì lúc này họ chỉ rõ sự tha hóa của ông kể từ khi mang thể xác người khác. Vì vậy, thái độ của các nhân vật đó đều như những tấm gương soi của nhân vật Hồn Trương Ba. (1) Cuộc đối thoại với Trưởng Hoạt giúp cho Hồn Trương Ba nhận ra ông tha hóa như thế nào: nát rượu, trái tính, không cưỡng chống lại đòi hỏi của thân xác, tính cách trở nên hèn kém, tủn mủn, thô phũ, bần tiện. (2) Cuộc đối thoại Hồn Trương Ba với Xác Hàng Thịt, một mặt là cuộc đối thoại giữa hai cá thể độc lập, bản thân và tha nhân, một mặt lại là cuộc giải phẫu mối tương hợp và sự đối nghịch giữa hai mặt trong con người. Nhờ quả cảm đối mặt với cái phiền toái ấy mà ông nhận diện được thực tế tha hóa kinh khủng nhất: Phần “người” rơi vào nguy cơ bị phần “con” lấn át, phần lí tính đuối lí trước phần vật tính! (3) Cuộc đối thoại với người vợ là phần nước tràn li: Người vợ muốn bỏ đi, bởi “Ông đâu còn là ông” (Lưu, 2013, 66). Không còn là một lời cảnh tỉnh mà đã ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 36-46 45 là một sự thất vọng hoàn toàn dẫn đến thái độ cự tuyệt hẳn cuộc sống vợ chồng! (4) Lời của Cái Gái, cháu nội của ông: “Ông nội tôi chết rồi”. “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy” (Luu, 2013, 67) thể hiện thái độ: Hồn Trương Ba dù có hiện hữu trước mắt mọi người cũng không được thừa nhận. (5) Chị con dâu chỉ ra sự tha hóa toàn diện ở bố chồng bằng những lời thật bụng: “Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc mờ nhòa dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa” (Luu, 2013, 68). Có thể nhận ra sự tinh tế của Lưu Quang Vũ khi xây dựng các cuộc thoại này. Ba người phụ nữ, ba ý kiến chấn động tâm trí Hồn Trương Ba. Người vợ, một ngày nên nghĩa huống hồ đã gắn bó một đời, kiên quyết ra đi, nghĩa là không còn khả năng cứu vãn; lời đứa cháu gái, lời con trẻ là lời trung thực nhất; cô con dâu là người nhà để hiểu bố chồng, và lại là người ngoài để nói ra một cách thành thực điều không dễ nói về người khác! Cả ba mối quan hệ, giữa cá nhân mình với bạn hữu, với gia đình, với thân xác của chính mình đều chứng minh một thực tế nghiệt ngã là Trương Ba, chỉ sau ba tháng sống nhờ thân xác kẻ khác, đã vong thân hoàn toàn! 2.4.3. Từ chối lộc trời hay “phép thử bi kịch” Từ sự trải nghiệm bằng chính sự sống bất ổn, thường xuyên dằn vặt, Hồn Trương Ba thấm thía: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” (Luu, 2013, 69), và giải pháp tốt nhất với ông là tuân theo quy luật tự nhiên: chết hẳn. Lúc ấy xảy ra tình tiết mới là thằng cu Tỵ vừa chết, Đế Thích đề xuất giải pháp thứ hai là cho Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ nhưng Trương Ba Từ chối, Đế Thích lại đề xuất cho nhập vào hình hài của mình, Trương Ba vẫn từ chối! Các giải pháp đó đều có sức hấp dẫn, khác nào được hưởng lộc trời thêm một kiếp người, thậm chí bất tử! Do đã đau đớn trải nghiệm, Hồn Trương Ba hiểu rằng dù mượn xác của ai thì bản chất bi kịch không thay đổi, cái sai này thay thế cho cái sai kia mà thôi. Nói cách khác, các giải pháp của Đế Thích chính là phép thử Lưu Quang Vũ đặt ra cho nhân vật của mình. Không chấp nhận hai giải pháp ấy nghĩa là bi kịch của Hồn Trương Ba đã đạt đến đỉnh điểm, đến thời khắc bùng vỡ và chết hẳn là sự lựa chọn duy nhất! 3. Kết luận Qua việc lựa chọn thể loại kịch, qua sự phát hiện bi kịch Hồn Trương Ba, qua cách phân tích tính cách nhân vật dưới góc nhìn triết học – tâm lí học, người đọc dù khó tính đến mức nào cũng phải thừa nhận tài năng nghệ thuật vượt trội của Lưu Quang Vũ. Điều đáng ghi nhận hơn nữa là trình độ tư duy triết luận sâu sắc của ông. Vở kịch đề cập bi kịch của một con người cá nhân nhưng đã chạm đến cả chiều sâu lẫn bề rộng nhân sinh, nhân tình thế thái, cái nhất thời và cái muôn đời, tính thời sự và tính nhân loại. Vượt lên trên tất cả là tâm hồn cao đẹp của nhà văn thể hiện qua niềm tin vào bản ngã, siêu ngã của con người. Ca ngợi một lẽ sống đẹp cũng là lời đề xuất của tác giả về một cách sống. Tài liệu tham khảo Brown, G., & Yule, G. (2002). Discourse analysis (Phân tích diễn ngôn). Vietnam National University, Hanoi. Freud, S. (2018). The Ego and the Id (Cái tôi và cái nó) Tri thuc. Freud, S., & Jung, C. G. (2004). Psychoanalysis, culture and arts (Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật). Culture and Information. Freud, S. (1970). A general introduction to psychoanalysis (Phân tâm học nhập môn). Khai tri. Gulaiep, N. A. (1982). Literary theories (Lí luận văn học). Universities and Vocational Schools. Gustave, L. B. (2014). Psychology of crowds (Tâm lí học đám đông). Tri thuc. Ha, M. D. (2008). Literary theories (Lí luận văn học). Education. Luu, Q. V. (2013). Truong Ba's soul in the butcher's body: Collected works (Hồn Trương Ba da hàng thịt: Tuyển tập). The Writers' Association. Ly, H. T., & Luu, K. T. (2007). Luu Quang Vu, about the writer and his works (Lưu Quang Vũ, về tác gia và tác phẩm). Education. Bùi Trọng Ngoãn 46 Pierre, T. D. C. (2017). The phenomenon of man (Le phénomène humain). Tri thuc. Pospelop, G. N. (1985). An introduction to literature studies: Part 2 (Dẫn luận nghiên cứu văn học: Tập 2). Education. Wilson, E. O. (2014). The meaning of human existence (Về bản tính Người). The Gioi. LUU QUANG VU’S PHILOSOPHICAL ARGUMENTATION AND ARTISTIC CREATIVITY IN THE PLAY “TRUONG BA’S SOUL IN THE BUTCHER'S BODY” Bui Trong Ngoan The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam Author corresponding: Bui Trong Ngoan - Email: btngoan@ued.udn.vn Article History: Received on 29th March 2021; Revised on 17th May 2021; Published on 17th June 2021 Abstract: Thanks to the positive impacts brought by the show “Hồn Trương Ba da hàng thịt” (“Truong Ba's Soul in the Butcher's body”), together with its increasing numbers of performances and showing hours on domestic and international stages, the play has attracted increasing reviews from researchers and literary critics. Upon discussing the established criticism and opinions, the author shares his own approach of understanding the play. Investigating Luu Quang Vu’s philosophical argumentation and creativity, this article focuses on problem detection capability – Truong Ba Soul’s personal tragedies - and the advantages of the drama language; the transition from folk philosophy to Luu Quang Vu’s; Luu Quang Vu’s psychoanalytic perspectives on the harmony of the “Id" - "the “Ego” - "the SuperEgo” coexisting in Truong Ba’s Soul; the concept of humans in multifaceted relationships and the reflections that helped Truong Ba's Soul resolve his tragedies. Key words: personal tragedy; philosophy argumentation; the Id; the Ego; the SuperEgo.
File đính kèm:
- y_tuong_triet_luan_va_sang_tao_nghe_thuat_cua_luu_quang_vu_t.pdf