Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai
thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng
thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế,
giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình
này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù
riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng
kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và
dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và
xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau
về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành
thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D
và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có
thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có
các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông
thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các
khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã
nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là
một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ
phát triển của đô thị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp
87 XÂY DỰNG NTM KHU VỰC VEN ĐÔ VÙNG ĐNB: THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TS. Nguyễn Bạch Đằng; ThS. Trần Đức Luân37 I. Đặt vấn đề Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ phát triển của đô thị. Đối với thị trấn nó là vùng ven khu vực đô thị; đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nó là các xã thuộc vùng ven khu vực nội thị; còn đối với thành phố trực thuộc trung ương, đó là các xã, huyện vùng ven khu vực nội thị. Trong quy hoạch xây dựng, vùng ven đô có thể được coi là khu vực mở rộng đô thị trong giai đoạn quy hoạch. Xu thế phát triển công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, việc phát triển mở rộng xây dựng ra vùng ven đô ngày càng lớn và với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án khu đô thị, khu dịch vụ và khu công nghiệp được hình thành tại khu vực ven đô này. Do đó, việc xây dựng nông thôn mới ở các xã thuộc vùng ven đô sẽ có những đặc trưng, khác với các xã thuộc vùng thuần nông. Bài tham luận này tập trung vào việc phân tích thực trạng xây dựng NTM, định hướng và giải pháp xây dựng NTM ở khu vực ven đô của vùng ĐNB nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng NTM trong tương lai. 2. Tổng quan vùng Đông Nam Bộ và đặc trƣng của khu vực ven đô Vùng ĐNB có 6 đơn vị tỉnh thành, gồm tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn vùng Đông Nam Bộ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 8 thị xã, 40 huyện, 374 phường, 33 thị trấn và 465 xã. ĐNB nằm trên vùng bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu 37 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh 88 Long. Địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp đô thị và giao thông vận tải. Về hiện trạng sử dụng đất, theo số liệu tổng hợp từ niên giám thống kê 2018 của các tỉnh, tính đến ngày 31/12/2017, vùng ĐNB có diện tích tự nhiên 2.394,68 nghìn ha chiếm gần 7% tổng diện tích đất cả nước. Trong phạm vi của vùng ĐNB, đất dành cho sản xuất nông nghiệp là 1.361,01 nghìn ha (chiếm 56,8%), đất lâm nghiệp là 506,59 nghìn ha (chiếm 21,2%), đất chuyên dùng là 223,54 nghìn ha (chiếm 9,4%) và đất ở là 82,12 nghìn ha (chiếm 3,4%).Trong vùng ĐNB, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai có diện tích đất tự nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên dùng lớn nhất vùng. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Mính là hai địa phương có diện tích đất tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp nhỏ nhất khu vực. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích đất ở là 28,17 nghìn ha, cao nhất vùng ĐNB. ĐNB có khí hậu cận xích đạo, tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ cao đều quanh năm với mức bình quân là 27,65oC, số giờ nắng là 2.311 giờ/năm, độ ẩm không khí là 80,31% và lượng mưa 2.312 mm/năm. Tính đến ngày 31/12/2017, dân số toàn vùng ĐNB gần 16,94 triệu người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đông dân nhất với số lượng là 8,64 triệu người, chiếm 51% tổng dân số cả vùng ĐNB. Tiếp theo, tỉnh Đồng Nai có dân số là 3,03 triệu người (chiếm 18% tổng dân số cả vùng), tỉnh Bình Dương là 2,07 triệu người (chiếm 12% tổng dân số cả vùng), riêng tỉnh Bình Phước thì có số lượng dân số ít nhất, chỉ chiếm khoảng 6% dân số cả vùng. Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số 4.126 người/km2, cao hơn lần lượt từ 5 - 8 lần so với tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai, cao hơn 15 lần so với Tây Ninh và cao hơn 29 lần so với tỉnh Bình Phước. Năm 2002, vùng ĐNB có thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành là 667 nghìn đồng/người/năm. Đến năm 2012, chỉ tiêu này tăng gần 5 lần và đến năm 2016 thì tăng gấp 7 lần. Nhìn chung, giai đoạn 2002- 2016, thu nhập bình quân đầu người của vùng ĐNB cao hơn 1,6 lần nếu so với cả nước. Vùng ĐNB có tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2002 là 8,2%, năm 2012 là 1,3% và đến hết năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0,6% (so với cả nước thì thấp hơn 5 lần). Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cả năm 2017 của vùng ĐNB là 1.987.330 tỷ đồng. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, chiếm 54% tổng giá trị của cả vùng; thấp nhất là tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,6% và 3,2% tổng giá trị vùng ĐNB. Xét về cơ cấu giá trị tổng sản phẩm, vùng ĐNB có sự đóng góp chủ yếu từ ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ, chiếm tỷ lệ trên 83,5%. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị nên đóng góp ... có 02 huyện đạt chuẩn huyện NTM. Xây dựng NTM gắn với đô thị hóa có được tỉnh nhắc đến, hạ tầng giao thông xây dưng theo chuẩn NTM cấp xã nên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị. Báo cáo sơ kết xây dựng NTM, tỉnh Tây Ninh chưa có kế hoạch cụ thể xã nông thôn mới nào sẽ trở thành phường đô thị 39 Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM tỉnh Bình Dương (2016-2018) và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020. 40 Khu Tam Giác Sắt, là căn cứ cách mạng của Huyện ủy Bến Cát, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Khu ủy Sài Gòn 41 Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM TP.HCM (2016-2018) và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020. 96 5. BRVT Duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí của các xã đạt chuẩn NTM Phấn đấu đến năm 2000: đạt thêm 14 xã NTM, nâng tổng số xã NTM lên 37 (đạt 82,2%). Triển khai thực hiện xã NTM theo Bộ tiêu chí TW. Xây dựng huyện Long Điền là huyện NTM trong quá trình đô thị hóa (theo quyết định 676/QĐ-TTg) để được Thủ tướng công nhận vào năm 2020. Báo cáo sơ kết NTM, tỉnh BRVT chưa có kế hoạch cụ thể xã nông thôn mới nào sẽ trở thành phường đô thị 6.Bình Phước Năm 2019: tỉnh Bình Phước có thêm 9 xã đạt chuẩn NTM; Đến năm 2020: thêm 10 xã đạt chuẩn NTM (lũy kế 55 xã đạt, chiếm 59,8% tổng số xã); Số tiêu chí đạt bình quân: 14,22. Cũng chưa có kế hoạch cụ thể về xây dựng NTM vùng ven đô, chưa có dự kiến xã NTM nào sẽ trở thành phường hoặc thị trấn Nguồn: Các báo cáo sơ kết 3 năm xây dựng NTM và tham vấn một số tỉnh ĐNB Từ năm 2019 trở đi, trong các báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện NTM 2016-2018 của các tỉnh thành vùng ĐNB chỉ đề cập đến mục tiêu chung chung trong xây dựng NTM, tức là đến năm 2019 hoặc 2020 thì sẽ có thêm bao nhiêu xã được công nhận NTM hoặc bao nhiêu tiêu chí phải hoàn thành. Các báo cáo này chưa đề cập đến định hướng xây dựng NTM cho các xã ven đô. Phần thông tin khuyết này được đại diện VPĐPNTM các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Tp.HCM chia sẻ. Trước hết là tỉnh Đồng Nai, theo thông tin ước tính của VPĐPNTM tỉnh Đồng Nai, kế hoạch ngay trong năm 2019, toàn tỉnh sẽ có 11/34 xã trở thành phường và thị trấn (còn 23/34 xã ven đô còn lại thì chưa có kế hoạch cụ thể). Như vậy, nếu trở thành hiện thực thì tỉnh Đồng Nai sẽ giống như trường hợp của tỉnh Bình Dương vào năm 2011. Thứ hai là tỉnh Bình Dương, tỉnh này chưa có kế hoạch xã ven đô nào sẽ trở thành phường văn minh đô thị nhưng chủ trương sẽ giữ lại các xã nông thôn của vùng tam giác sắt42 (An Điền, An Tây và Phú An của thị xã Bến Cát), không định hướng xây dựng các xã này thành phường đô thị. Thứ ba là thành phố Hồ Chí Minh, ở nhiệm kỳ lãnh đạo của Bí thư thành ủy trước năm 2017 có nhắc đến việc xã ven đô nào sẽ trở thành phường đô thị. Tuy nhiên, theo thông tin từ VPĐPNTM thành phố HCM, đến nay kế hoạch này chưa được nhắc đến, điều này có nghĩa là các xã ven đô tiếp tục phấn đấu xây dựng NTM theo Bộ tiêu chí NTM nâng cao của thành phố. Các tỉnh còn lại như Tây Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu và Bình Phước chưa thấy định hướng xây dựng NTM khu vực ven đô trong báo cáo sơ kết của chương trình này. 5. Giải pháp xây dựng NTM khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ Thứ nhất, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hướng đồng bộ với phát triển đô thị. Trên thực tế, kết cấu hạ tầng theo yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại còn yếu, nhất là hạ tầng đáp ứng sản xuất công nghệ cao, nước sạch, vệ sinh môi trường, phòng, chống thiên tai và biến đổi khí hậu. Hệ thống giao thông tuy đã được đầu tư nhưng còn một số nơi chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, các tuyến đường còn thiếu hệ thống thoát nước. Đặc biệt, tại một số vùng ven đô nằm trên các trục quốc lộ chính nối kết khu vực, lượng xe lưu thông đông, gần 42 Khu Tam Giác Sắt, là căn cứ cách mạng của Huyện ủy Bến Cát, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Khu ủy Sài Gòn 97 khu dân cư nên tình trạng tai nạn giao thông còn khá cao, ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống người dân. Ngoài ra còn gặp khó khăn trong tiêu chí chợ, thông thường các xã có quy hoạch điểm chợ tập trung nhưng hiện tại người dân vẫn sinh hoạt ở chợ truyền thống, thuận tiện cho đi lại người dân hơn. Do đó một số nơi các chợ xây dựng xong nhưng hiệu quả hoạt động không cao. Công tác vận động người dân hiến đất làm đường, mở rộng đường gặp khó vì ảnh hưởng đến phần đất của dân, hoặc nhà cửa đã xây kiên cố. Xây dựng NTM ở khu vực ven đô cần có tầm nhìn, tránh tình trạng các cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, không theo kịp sự phát triển của đô thị hiện đại. Để thực hiện giải pháp này, công tác quy hoạch và chất lượng quy hoạch cần được làm thật tốt, từ đó có thể định hướng xây dựng, tái cơ cấu ngành, đảm bảo tính nhất quán, sự ổn định trong phát triển. Thứ hai, tổ chức phát triển sản xuất nông nghiệp khu vực ven đô cần hướng đến nền nông nghiệp đô thị, chuyển đổi nghề nghiệp sang phi nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa tại các vùng ven đô đã khiến diện tích đất nông nghiệp dần thu hẹp. Nhiều hộ có ý chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp nhằm mục đích chuyển nhượng bất động sản, ví dụ như ở thành phố HCM và Bình Dương. Đô thị hóa làm tác động đến tâm l đầu tư đối với hộ nông dân, tình trạng bỏ hoang, không chú tâm đầu tư nông nghiệp và gây lãng phí tài nguyên đất43. Các địa phương cần chú trọng hơn nữa công tác chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, giúp nông dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước đáp ứng với nhu cầu của thị trường. Các trại chăn nuôi khuyến khích áp dụng công nghệ làm mát chuồng trại, sử dụng chế phẩm vi sinh trong việc giảm mùi hôi để đảm bảo môi trường. Hoặc một số trại chăn nuôi cần được di dời ra khỏi các khu dân cư để tránh tình trạng ô nhiễm. Ngoài ra, chú trọng công tác dạy nghề, chuyển đổi hoạt động sản xuất sang hướng các nhóm ngành phi nông nghiệp cũng là giải pháp hữu ích, vừa giúp công ăn việc làm cho lao động, vừa giải quyết được bài toán thu hẹp của quỹ đất nông nghiệp. Thứ ba, chú trọng công tác đảm bảo an ninh trật tự và vệ sinh môi trường. Khu vực ven đô là nơi tập trung đông dân cư, nhiều thành phần kinh tế và ngành nghề. Mặc dù dân nhập cư giúp cung cấp lao động cho ngành công nghiệp dịch vụ nhưng lại tạo ra áp lực về nơi ở, cơ sở hạ tầng an sinh xã hội, nhu cầu điện, nước và an ninh trật tự. Dân nhập cư càng gia tăng thì công tác quản l an ninh trật tự càng gặp nhiều khó khăn, phức tạp ở các nhà trọ, áp lực giải quyết tạm trú cho công nhân, tệ nạn xã hội, trộm cắp, gây mất an ninh trật tự và mâu thuẫn giữa nhóm người nhập cư. Mặt khác, dân nhập cư gây quả tải về trường học trên địa bàn, một số xã lại thiếu quỹ đất xây dựng, khó khăn trong đảm bảo tiêu chí trường học. Ngoài ra, cảnh quan môi trường sống cũng bị ảnh hưởng, tình trạng vứt rác, chai lọ, bao bì từ công nhân, khách vãng lai, các khu nhà trọ. Bên cạnh đó, vùng ven đô cũng còn hoạt động xả thải của các doanh nghiệp, công ty tại địa bàn và vùng lân cận nên tiêu chí môi trường là vấn đề khó khăn. Để thực hiện giải pháp này, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các ban ngành đoàn thể địa phương, đặc biệt là Ban phát triển NTM cấp xã và ấp. Phát triển và nhân rộng các mô hình hay trong xây dựng NTM, ví dụ như mô hình câu lạc bộ chủ nhà trọ ở tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương, mô hình xã hội hóa trang thiết bị thu gom rác ở thành phố HCM, mô hình vận động di dời cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào vùng quy hoạch ở Đồng Nai và Bình Dương, mô hình Tổ chuyển hóa phụ trách an ninh trật tự ở Đồng Nai. Các địa phương cần tìm tòi và xây dựng thêm nhiều mô hình khác, thích hợp với điều kiện thực tế để làm tốt giải pháp này. Mặt khác, đẩy mạnh công tác 43 Tham vấn ý kiến của Ban lãnh đạo và Cán bộ phụ trách NTM các tỉnh thành vùng Đông Nam Bộ. 98 tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường và giữ gìn an ninh trật tự khu vực, đặc biệt là tại khu vực ven đô. Thứ tư, duy trì công tác tuyên truyền, vận động sự tham của người dân, nâng cao trình độ của cán bộ chuyên trách NTM. Công tác thông tin tuyên truyền xây dựng NTM ở một số địa phương vùng ĐNB đã được thực hiện nhưng cần thường xuyên và sâu sắc hơn. Xây dựng NTM là không có điểm kết thúc, các địa phương cần vận động người dân phấn đấu, đạt được NTM nâng cao và xã NTM kiểu mẫu. Nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân, giúp họ thấy được lợi ích chung của cộng đồng trong đó có lợi ích của cá nhân. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc nâng cao trình độ cán bộ phụ trách NTM, nhất là công tác lập kế hoạch, thực hiện xây dựng NTM, nghiệp vụ thống kê và có chế độ phụ cấp xứng đáng với công việc. Thứ năm, giữ vững các tiêu chí đã đạt được và nâng cấp các tiêu chí để tiếp tục phấn đấu. Các tiêu chí về cơ sở hạ tầng khi đã thực hiện xong thì cần chú trọng việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, tránh xuống cấp và hư hỏng. Còn đối với những tiêu chí như thu nhập, tỷ lệ hộ nghèo, an ninh trật tự, môi trường thì rất dễ thay đổi, phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan cũng như thức của người dân. Vấn đề này, mặc dù các tỉnh thành vùng ĐNB đều nhận diện nhưng cũng là thách thức lớn. Bên cạnh đó, việc nâng cấp các tiêu chí là cần thiết, để các xã NTM tiếp tục phát huy, có cột mốc mới để phấn đấu, tránh tâm lý tự bằng lòng với thành quả hiện tại. Bên cạnh những giải pháp trên, các địa phương khu vực ven đô cần rà soát lại chất lượng quy hoạch, tương thích với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp; nông thôn mới và các quy hoạch theo hướng đô thị hiện đại khác. Khi thực hiện NTM sẽ cần lượng vốn lớn nên chú trọng việc huy động vốn từ các nguồn khác nhau, đặc biệt là huy động sự đóng góp tự nguyện của người dân và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Có chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ vốn cho các dự án khởi nghiệp nông nghiệp. Cuối cùng, việc xây dựng NTM ở các xã ven đô nên chăng cần được định hướng rõ ngay từ ban đầu. Chẳng hạn, một khi địa phương đã có dự kiến xã thuần nông nào sẽ trở thành xã ven đô, xã ven đô nào sẽ trở thành phường đô thị thì cần chuẩn bị kế hoạch thực hiện (tham khảo cách làm của tỉnh Đồng Nai). Việc quy hoạch khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thích hợp với xu hướng phát triển của đô thị, hiện đại hóa nông thôn và tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng đô thị. Nâng cao điều kiện sống người dân nông thôn gần với đời sống dân đô thị. Chuyển dịch dần cơ cấu lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, xây dựng nông thôn cần hướng tới đô thị xanh, có nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, chứ không thể hiểu đơn thuần là chỉ là xí nghiệp, nhà cửa và khu phố thương mại. Nguyên tắc thực hiện là theo thị trường, phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương và cũng có thể cần giữ lại nét riêng của nông thôn (tham khảo chủ trương của tỉnh Bình Dương, giữ lại ba xã thuần nông mà không quy hoạch thành phường đô thị). Xây dựng NTM cần chú trọng đến đối tượng thụ hưởng là người dân, lấy thước đo hài lòng và hạnh phúc để làm mục tiêu phấn đấu, gắn kết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa, xây dựng hình ảnh nông thôn đa dạng chứ không chỉ dựa trên một khuôn mẫu NTM duy nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục thống kê các tỉnh Đông Nam Bộ, 2018. Niên giám thống kê năm 2017. 99 2. McGranaham D., McGregor D. and Thompson D. (2004). Urban-rural change, boundary problems and environmental burdens. International Institute for Environment and Development. 3. Nguyễn Duy Thắng, 2009. Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế xã hội của vùng ven đô và những vấn đề cần quan tâm. Tạp chí xã hội học, số 1 – 2009. 4. Sở LĐ-TB và XH, 2018. Kết quả 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020, 17 trang. 5. Sở LĐ-TB&XH tỉnh Đồng Nai, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, 15 trang. 6. Sở NN&PTNT tỉnh Bình Dương, 2019. Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới- phương hướng nhiệm vụ và giải pháp thực hiện giai đoạn 2019-2020, 14 trang. 7. Sở NN&PTNT tỉnh Bình Phước, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới- phương hướng nhiệm vụ và giải pháp thực hiện giai đoạn 2019-2020, 28 trang. 8. UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) giai đoạn 2016- 2020 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 16 trang. 9. UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 2018. Báo cáo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới từ năm 2011-2017 và Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2018-2020 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 39 trang. 10. UBND tỉnh Đồng Nai, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; phương hướng- nhiệm vụ và giải pháp thực hiện giai đoạn 2018-2020,31 trang. 11. UBND tỉnh Tây Ninh, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới- Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025, 28 trang. 12. UBND TP.HCM (Ban chỉ đạo của Thành Ủy về Chương trình xây dựng NTM Thành Phố), 2019. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020, 86 trang. 13. UBND TP.HCM, 2018. Báo cáo về tình hình kinh tế văn hóa xã hội TP năm 2018; Nhiệm vụ giải pháp trọng tâm năm 2019, 54 trang. 14. Văn phòng điều phối nông thôn mới TW, 2019. Báo cáo tổng quan kết quả thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2018 và định hướng nhiệm vụ.
File đính kèm:
- xay_dung_ntm_khu_vuc_ven_do_vung_dnb_thuc_trang_dinh_huong_v.pdf