Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai

thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng

thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế,

giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình

này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù

riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng

kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và

dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và

xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau

về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành

thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D

và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có

thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có

các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông

thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các

khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã

nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là

một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ

phát triển của đô thị.

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 1

Trang 1

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 2

Trang 2

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 3

Trang 3

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 4

Trang 4

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 5

Trang 5

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 6

Trang 6

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 7

Trang 7

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 8

Trang 8

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 9

Trang 9

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang viethung 7280
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp

Xây dựng NTM khu vực ven đô vùng ĐNB: thực trạng, định hướng và giải pháp
87 
XÂY DỰNG NTM KHU VỰC VEN ĐÔ VÙNG ĐNB: THỰC TRẠNG, 
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP 
TS. Nguyễn Bạch Đằng; ThS. Trần Đức Luân37 
I. Đặt vấn đề 
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai 
thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng 
thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông 
nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế, 
giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình 
này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù 
riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng 
kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và 
dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và 
xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau 
về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành 
thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D 
và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có 
thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có 
các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông 
thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các 
khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã 
nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là 
một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ 
phát triển của đô thị. Đối với thị trấn nó là vùng ven khu vực đô thị; đối với thị xã, 
thành phố thuộc tỉnh, nó là các xã thuộc vùng ven khu vực nội thị; còn đối với thành 
phố trực thuộc trung ương, đó là các xã, huyện vùng ven khu vực nội thị. Trong quy 
hoạch xây dựng, vùng ven đô có thể được coi là khu vực mở rộng đô thị trong giai 
đoạn quy hoạch. Xu thế phát triển công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, 
việc phát triển mở rộng xây dựng ra vùng ven đô ngày càng lớn và với tốc độ khá 
nhanh. Nhiều dự án khu đô thị, khu dịch vụ và khu công nghiệp được hình thành tại 
khu vực ven đô này. Do đó, việc xây dựng nông thôn mới ở các xã thuộc vùng ven đô 
sẽ có những đặc trưng, khác với các xã thuộc vùng thuần nông. Bài tham luận này tập 
trung vào việc phân tích thực trạng xây dựng NTM, định hướng và giải pháp xây dựng 
NTM ở khu vực ven đô của vùng ĐNB nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng 
NTM trong tương lai. 
2. Tổng quan vùng Đông Nam Bộ và đặc trƣng của khu vực ven đô 
Vùng ĐNB có 6 đơn vị tỉnh thành, gồm tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình 
Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổng cục thống kê Việt 
Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn vùng Đông Nam Bộ có 5 thành phố trực thuộc 
tỉnh, 19 quận, 8 thị xã, 40 huyện, 374 phường, 33 thị trấn và 465 xã. ĐNB nằm trên vùng 
bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu 
37
 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh 
88 
Long. Địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp đô thị và giao thông 
vận tải. Về hiện trạng sử dụng đất, theo số liệu tổng hợp từ niên giám thống kê 2018 của 
các tỉnh, tính đến ngày 31/12/2017, vùng ĐNB có diện tích tự nhiên 2.394,68 nghìn ha 
chiếm gần 7% tổng diện tích đất cả nước. Trong phạm vi của vùng ĐNB, đất dành cho 
sản xuất nông nghiệp là 1.361,01 nghìn ha (chiếm 56,8%), đất lâm nghiệp là 506,59 
nghìn ha (chiếm 21,2%), đất chuyên dùng là 223,54 nghìn ha (chiếm 9,4%) và đất ở là 
82,12 nghìn ha (chiếm 3,4%).Trong vùng ĐNB, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai có diện 
tích đất tự nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên dùng lớn nhất 
vùng. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Mính là hai địa phương có 
diện tích đất tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp nhỏ nhất khu vực. Thành phố Hồ Chí 
Minh có diện tích đất ở là 28,17 nghìn ha, cao nhất vùng ĐNB. 
ĐNB có khí hậu cận xích đạo, tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ cao 
đều quanh năm với mức bình quân là 27,65oC, số giờ nắng là 2.311 giờ/năm, độ ẩm 
không khí là 80,31% và lượng mưa 2.312 mm/năm. Tính đến ngày 31/12/2017, dân số 
toàn vùng ĐNB gần 16,94 triệu người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đông 
dân nhất với số lượng là 8,64 triệu người, chiếm 51% tổng dân số cả vùng ĐNB. Tiếp 
theo, tỉnh Đồng Nai có dân số là 3,03 triệu người (chiếm 18% tổng dân số cả vùng), 
tỉnh Bình Dương là 2,07 triệu người (chiếm 12% tổng dân số cả vùng), riêng tỉnh Bình 
Phước thì có số lượng dân số ít nhất, chỉ chiếm khoảng 6% dân số cả vùng. Thành phố 
Hồ Chí Minh có mật độ dân số 4.126 người/km2, cao hơn lần lượt từ 5 - 8 lần so với 
tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai, cao hơn 15 lần so với Tây Ninh và 
cao hơn 29 lần so với tỉnh Bình Phước. Năm 2002, vùng ĐNB có thu nhập bình quân 
đầu người theo giá hiện hành là 667 nghìn đồng/người/năm. Đến năm 2012, chỉ tiêu 
này tăng gần 5 lần và đến năm 2016 thì tăng gấp 7 lần. Nhìn chung, giai đoạn 2002-
2016, thu nhập bình quân đầu người của vùng ĐNB cao hơn 1,6 lần nếu so với cả 
nước. Vùng ĐNB có tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2002 là 8,2%, 
năm 2012 là 1,3% và đến hết năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0,6% (so với cả nước 
thì thấp hơn 5 lần). Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cả năm 2017 của vùng ĐNB 
là 1.987.330 tỷ đồng. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, chiếm 54% tổng 
giá trị của cả vùng; thấp nhất là tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lần lượt chiếm tỷ lệ 
2,6% và 3,2% tổng giá trị vùng ĐNB. Xét về cơ cấu giá trị tổng sản phẩm, vùng ĐNB 
có sự đóng góp chủ yếu từ ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ, chiếm tỷ lệ trên 
83,5%. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đô thị nên 
đóng góp ... có 02 
huyện đạt chuẩn huyện NTM. 
Xây dựng NTM gắn với đô thị hóa 
có được tỉnh nhắc đến, hạ tầng giao 
thông xây dưng theo chuẩn NTM cấp 
xã nên chưa đáp ứng yêu cầu phát 
triển của đô thị. 
Báo cáo sơ kết xây dựng NTM, tỉnh 
Tây Ninh chưa có kế hoạch cụ thể xã 
nông thôn mới nào sẽ trở thành 
phường đô thị 
39 Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM tỉnh Bình Dương (2016-2018) và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020. 
40
 Khu Tam Giác Sắt, là căn cứ cách mạng của Huyện ủy Bến Cát, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Khu ủy Sài Gòn 
41 Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình xây dựng NTM TP.HCM (2016-2018) và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019-2020. 
96 
5. BRVT 
Duy trì và nâng cao chất lượng 
các tiêu chí của các xã đạt chuẩn 
NTM 
Phấn đấu đến năm 2000: đạt thêm 
14 xã NTM, nâng tổng số xã 
NTM lên 37 (đạt 82,2%). Triển 
khai thực hiện xã NTM theo Bộ 
tiêu chí TW. 
Xây dựng huyện Long Điền là 
huyện NTM trong quá trình đô thị 
hóa (theo quyết định 676/QĐ-TTg) 
để được Thủ tướng công nhận vào 
năm 2020. 
Báo cáo sơ kết NTM, tỉnh BRVT 
chưa có kế hoạch cụ thể xã nông 
thôn mới nào sẽ trở thành phường đô 
thị 
6.Bình Phước 
Năm 2019: tỉnh Bình Phước có 
thêm 9 xã đạt chuẩn NTM; Đến 
năm 2020: thêm 10 xã đạt chuẩn 
NTM (lũy kế 55 xã đạt, chiếm 
59,8% tổng số xã); Số tiêu chí đạt 
bình quân: 14,22. 
Cũng chưa có kế hoạch cụ thể về 
xây dựng NTM vùng ven đô, chưa 
có dự kiến xã NTM nào sẽ trở thành 
phường hoặc thị trấn 
Nguồn: Các báo cáo sơ kết 3 năm xây dựng NTM và tham vấn một số tỉnh ĐNB 
Từ năm 2019 trở đi, trong các báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện NTM 2016-2018 
của các tỉnh thành vùng ĐNB chỉ đề cập đến mục tiêu chung chung trong xây dựng 
NTM, tức là đến năm 2019 hoặc 2020 thì sẽ có thêm bao nhiêu xã được công nhận 
NTM hoặc bao nhiêu tiêu chí phải hoàn thành. Các báo cáo này chưa đề cập đến định 
hướng xây dựng NTM cho các xã ven đô. Phần thông tin khuyết này được đại diện 
VPĐPNTM các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Tp.HCM chia sẻ. Trước hết là tỉnh 
Đồng Nai, theo thông tin ước tính của VPĐPNTM tỉnh Đồng Nai, kế hoạch ngay trong 
năm 2019, toàn tỉnh sẽ có 11/34 xã trở thành phường và thị trấn (còn 23/34 xã ven đô 
còn lại thì chưa có kế hoạch cụ thể). Như vậy, nếu trở thành hiện thực thì tỉnh Đồng 
Nai sẽ giống như trường hợp của tỉnh Bình Dương vào năm 2011. Thứ hai là tỉnh Bình 
Dương, tỉnh này chưa có kế hoạch xã ven đô nào sẽ trở thành phường văn minh đô thị 
nhưng chủ trương sẽ giữ lại các xã nông thôn của vùng tam giác sắt42 (An Điền, An 
Tây và Phú An của thị xã Bến Cát), không định hướng xây dựng các xã này thành 
phường đô thị. Thứ ba là thành phố Hồ Chí Minh, ở nhiệm kỳ lãnh đạo của Bí thư 
thành ủy trước năm 2017 có nhắc đến việc xã ven đô nào sẽ trở thành phường đô thị. 
Tuy nhiên, theo thông tin từ VPĐPNTM thành phố HCM, đến nay kế hoạch này chưa 
được nhắc đến, điều này có nghĩa là các xã ven đô tiếp tục phấn đấu xây dựng NTM 
theo Bộ tiêu chí NTM nâng cao của thành phố. Các tỉnh còn lại như Tây Ninh, Bà Rịa 
Vũng Tàu và Bình Phước chưa thấy định hướng xây dựng NTM khu vực ven đô trong 
báo cáo sơ kết của chương trình này. 
5. Giải pháp xây dựng NTM khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ 
Thứ nhất, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hướng đồng bộ với phát triển 
đô thị. Trên thực tế, kết cấu hạ tầng theo yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp toàn 
diện theo hướng hiện đại còn yếu, nhất là hạ tầng đáp ứng sản xuất công nghệ cao, 
nước sạch, vệ sinh môi trường, phòng, chống thiên tai và biến đổi khí hậu. Hệ thống 
giao thông tuy đã được đầu tư nhưng còn một số nơi chưa đáp ứng được nhu cầu của 
người dân, các tuyến đường còn thiếu hệ thống thoát nước. Đặc biệt, tại một số vùng 
ven đô nằm trên các trục quốc lộ chính nối kết khu vực, lượng xe lưu thông đông, gần 
42
 Khu Tam Giác Sắt, là căn cứ cách mạng của Huyện ủy Bến Cát, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Khu ủy Sài Gòn 
97 
khu dân cư nên tình trạng tai nạn giao thông còn khá cao, ảnh hưởng đến tâm lý và 
cuộc sống người dân. Ngoài ra còn gặp khó khăn trong tiêu chí chợ, thông thường các 
xã có quy hoạch điểm chợ tập trung nhưng hiện tại người dân vẫn sinh hoạt ở chợ 
truyền thống, thuận tiện cho đi lại người dân hơn. Do đó một số nơi các chợ xây dựng 
xong nhưng hiệu quả hoạt động không cao. Công tác vận động người dân hiến đất làm 
đường, mở rộng đường gặp khó vì ảnh hưởng đến phần đất của dân, hoặc nhà cửa đã 
xây kiên cố. Xây dựng NTM ở khu vực ven đô cần có tầm nhìn, tránh tình trạng các cơ 
sở hạ tầng còn lạc hậu, không theo kịp sự phát triển của đô thị hiện đại. Để thực hiện 
giải pháp này, công tác quy hoạch và chất lượng quy hoạch cần được làm thật tốt, từ đó 
có thể định hướng xây dựng, tái cơ cấu ngành, đảm bảo tính nhất quán, sự ổn định 
trong phát triển. 
Thứ hai, tổ chức phát triển sản xuất nông nghiệp khu vực ven đô cần hướng đến 
nền nông nghiệp đô thị, chuyển đổi nghề nghiệp sang phi nông nghiệp. Quá trình đô thị 
hóa tại các vùng ven đô đã khiến diện tích đất nông nghiệp dần thu hẹp. Nhiều hộ có ý 
chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp nhằm mục đích chuyển nhượng 
bất động sản, ví dụ như ở thành phố HCM và Bình Dương. Đô thị hóa làm tác động 
đến tâm l đầu tư đối với hộ nông dân, tình trạng bỏ hoang, không chú tâm đầu tư nông 
nghiệp và gây lãng phí tài nguyên đất43. Các địa phương cần chú trọng hơn nữa công 
tác chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, giúp nông 
dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước đáp ứng với nhu cầu của thị 
trường. Các trại chăn nuôi khuyến khích áp dụng công nghệ làm mát chuồng trại, sử 
dụng chế phẩm vi sinh trong việc giảm mùi hôi để đảm bảo môi trường. Hoặc một số 
trại chăn nuôi cần được di dời ra khỏi các khu dân cư để tránh tình trạng ô nhiễm. 
Ngoài ra, chú trọng công tác dạy nghề, chuyển đổi hoạt động sản xuất sang hướng các 
nhóm ngành phi nông nghiệp cũng là giải pháp hữu ích, vừa giúp công ăn việc làm cho 
lao động, vừa giải quyết được bài toán thu hẹp của quỹ đất nông nghiệp. 
Thứ ba, chú trọng công tác đảm bảo an ninh trật tự và vệ sinh môi trường. Khu 
vực ven đô là nơi tập trung đông dân cư, nhiều thành phần kinh tế và ngành nghề. Mặc 
dù dân nhập cư giúp cung cấp lao động cho ngành công nghiệp dịch vụ nhưng lại tạo ra 
áp lực về nơi ở, cơ sở hạ tầng an sinh xã hội, nhu cầu điện, nước và an ninh trật tự. Dân 
nhập cư càng gia tăng thì công tác quản l an ninh trật tự càng gặp nhiều khó khăn, 
phức tạp ở các nhà trọ, áp lực giải quyết tạm trú cho công nhân, tệ nạn xã hội, trộm 
cắp, gây mất an ninh trật tự và mâu thuẫn giữa nhóm người nhập cư. Mặt khác, dân 
nhập cư gây quả tải về trường học trên địa bàn, một số xã lại thiếu quỹ đất xây dựng, 
khó khăn trong đảm bảo tiêu chí trường học. Ngoài ra, cảnh quan môi trường sống 
cũng bị ảnh hưởng, tình trạng vứt rác, chai lọ, bao bì từ công nhân, khách vãng lai, các 
khu nhà trọ. Bên cạnh đó, vùng ven đô cũng còn hoạt động xả thải của các doanh 
nghiệp, công ty tại địa bàn và vùng lân cận nên tiêu chí môi trường là vấn đề khó khăn. 
Để thực hiện giải pháp này, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các ban 
ngành đoàn thể địa phương, đặc biệt là Ban phát triển NTM cấp xã và ấp. Phát triển và 
nhân rộng các mô hình hay trong xây dựng NTM, ví dụ như mô hình câu lạc bộ chủ 
nhà trọ ở tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương, mô hình xã hội hóa trang thiết bị thu gom 
rác ở thành phố HCM, mô hình vận động di dời cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào vùng 
quy hoạch ở Đồng Nai và Bình Dương, mô hình Tổ chuyển hóa phụ trách an ninh trật 
tự ở Đồng Nai. Các địa phương cần tìm tòi và xây dựng thêm nhiều mô hình khác, 
thích hợp với điều kiện thực tế để làm tốt giải pháp này. Mặt khác, đẩy mạnh công tác 
43
 Tham vấn ý kiến của Ban lãnh đạo và Cán bộ phụ trách NTM các tỉnh thành vùng Đông Nam Bộ. 
98 
tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường 
và giữ gìn an ninh trật tự khu vực, đặc biệt là tại khu vực ven đô. 
Thứ tư, duy trì công tác tuyên truyền, vận động sự tham của người dân, nâng 
cao trình độ của cán bộ chuyên trách NTM. Công tác thông tin tuyên truyền xây dựng 
NTM ở một số địa phương vùng ĐNB đã được thực hiện nhưng cần thường xuyên và 
sâu sắc hơn. Xây dựng NTM là không có điểm kết thúc, các địa phương cần vận động 
người dân phấn đấu, đạt được NTM nâng cao và xã NTM kiểu mẫu. Nâng cao hơn nữa 
nhận thức của người dân, giúp họ thấy được lợi ích chung của cộng đồng trong đó có 
lợi ích của cá nhân. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc nâng cao trình độ cán bộ phụ trách 
NTM, nhất là công tác lập kế hoạch, thực hiện xây dựng NTM, nghiệp vụ thống kê và 
có chế độ phụ cấp xứng đáng với công việc. 
Thứ năm, giữ vững các tiêu chí đã đạt được và nâng cấp các tiêu chí để tiếp tục 
phấn đấu. Các tiêu chí về cơ sở hạ tầng khi đã thực hiện xong thì cần chú trọng việc 
quản lý, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, tránh xuống cấp và hư hỏng. Còn đối với 
những tiêu chí như thu nhập, tỷ lệ hộ nghèo, an ninh trật tự, môi trường thì rất dễ thay 
đổi, phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan cũng như thức của người dân. Vấn đề 
này, mặc dù các tỉnh thành vùng ĐNB đều nhận diện nhưng cũng là thách thức lớn. 
Bên cạnh đó, việc nâng cấp các tiêu chí là cần thiết, để các xã NTM tiếp tục phát huy, 
có cột mốc mới để phấn đấu, tránh tâm lý tự bằng lòng với thành quả hiện tại. 
Bên cạnh những giải pháp trên, các địa phương khu vực ven đô cần rà soát lại 
chất lượng quy hoạch, tương thích với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổng thể 
phát triển sản xuất ngành nông nghiệp; nông thôn mới và các quy hoạch theo hướng đô 
thị hiện đại khác. Khi thực hiện NTM sẽ cần lượng vốn lớn nên chú trọng việc huy 
động vốn từ các nguồn khác nhau, đặc biệt là huy động sự đóng góp tự nguyện của 
người dân và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Có chính sách ưu đãi 
về đất đai, hỗ trợ vốn cho các dự án khởi nghiệp nông nghiệp. 
Cuối cùng, việc xây dựng NTM ở các xã ven đô nên chăng cần được định hướng 
rõ ngay từ ban đầu. Chẳng hạn, một khi địa phương đã có dự kiến xã thuần nông nào sẽ 
trở thành xã ven đô, xã ven đô nào sẽ trở thành phường đô thị thì cần chuẩn bị kế hoạch 
thực hiện (tham khảo cách làm của tỉnh Đồng Nai). Việc quy hoạch khu dân cư, xây 
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thích hợp với xu hướng phát triển của đô thị, hiện đại 
hóa nông thôn và tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng đô thị. Nâng cao điều kiện 
sống người dân nông thôn gần với đời sống dân đô thị. Chuyển dịch dần cơ cấu lao 
động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, xây dựng nông thôn cần hướng tới đô thị 
xanh, có nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, chứ không thể hiểu đơn thuần là chỉ là xí 
nghiệp, nhà cửa và khu phố thương mại. Nguyên tắc thực hiện là theo thị trường, phát 
huy tính chủ động sáng tạo của địa phương và cũng có thể cần giữ lại nét riêng của 
nông thôn (tham khảo chủ trương của tỉnh Bình Dương, giữ lại ba xã thuần nông mà 
không quy hoạch thành phường đô thị). Xây dựng NTM cần chú trọng đến đối tượng 
thụ hưởng là người dân, lấy thước đo hài lòng và hạnh phúc để làm mục tiêu phấn đấu, 
gắn kết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa, xây dựng hình ảnh nông 
thôn đa dạng chứ không chỉ dựa trên một khuôn mẫu NTM duy nhất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục thống kê các tỉnh Đông Nam Bộ, 2018. Niên giám thống kê năm 2017. 
99 
2. McGranaham D., McGregor D. and Thompson D. (2004). Urban-rural change, boundary 
problems and environmental burdens. International Institute for Environment and 
Development. 
3. Nguyễn Duy Thắng, 2009. Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế xã hội của vùng 
ven đô và những vấn đề cần quan tâm. Tạp chí xã hội học, số 1 – 2009. 
4. Sở LĐ-TB và XH, 2018. Kết quả 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình mục tiêu 
quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và phương hướng, 
nhiệm vụ năm 2019-2020, 17 trang. 
5. Sở LĐ-TB&XH tỉnh Đồng Nai, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện 
chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn 
tỉnh Đồng Nai, 15 trang. 
6. Sở NN&PTNT tỉnh Bình Dương, 2019. Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình mục 
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới- phương hướng nhiệm vụ và giải pháp thực hiện 
giai đoạn 2019-2020, 14 trang. 
7. Sở NN&PTNT tỉnh Bình Phước, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện 
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới- phương hướng nhiệm vụ và giải 
pháp thực hiện giai đoạn 2019-2020, 28 trang. 
8. UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) giai đoạn 2016-
2020 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 16 trang. 
9. UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 2018. Báo cáo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia 
xây dựng nông thôn mới từ năm 2011-2017 và Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu 
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2018-2020 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 39 trang. 
10. UBND tỉnh Đồng Nai, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện chương trình 
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; phương hướng- nhiệm vụ và giải pháp thực 
hiện giai đoạn 2018-2020,31 trang. 
11. UBND tỉnh Tây Ninh, 2018. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện Chương trình 
MTQG xây dựng nông thôn mới- Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giai đoạn 
2018 - 2020, định hướng đến năm 2025, 28 trang. 
12. UBND TP.HCM (Ban chỉ đạo của Thành Ủy về Chương trình xây dựng NTM Thành 
Phố), 2019. Báo cáo sơ kết 3 năm (2016-2018) thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia 
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và phương hướng, nhiệm vụ 
năm 2019-2020, 86 trang. 
13. UBND TP.HCM, 2018. Báo cáo về tình hình kinh tế văn hóa xã hội TP năm 2018; Nhiệm 
vụ giải pháp trọng tâm năm 2019, 54 trang. 
14. Văn phòng điều phối nông thôn mới TW, 2019. Báo cáo tổng quan kết quả thực hiện 
chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2018 và định hướng nhiệm vụ. 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_ntm_khu_vuc_ven_do_vung_dnb_thuc_trang_dinh_huong_v.pdf