Vấn đề cải cách ngành công nghiệp khí Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong giai đoạn giá dầu giảm, các quốc gia châu Á đang tận dụng thời cơ để tiến hành tái cấu trúc ngành công nghiệp khí hướng tới
thị trường tự do trong đó có Trung Quốc. Quá trình tái cấu trúc đánh dấu sự kết thúc của cơ chế định giá cộng chi phí (cost plus) tồn tại hơn
50 năm trong lịch sử ngành công nghiệp khí của Trung Quốc. Giá khí hiện tại được tham chiếu và so sánh với giá của năng lượng thay thế
và giá khí tự nhiên không chỉ được quyết định bởi Chính phủ mà còn tham chiếu theo thị trường cung - cầu năng lượng. Trong quá trình
tái cấu trúc, Trung Quốc đã có ưu điểm và hạn chế trong cách tiến hành về quản lý cũng như cơ chế giá. Đây cũng là bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong quá trình triển khai quy hoạch, xây dựng lộ trình thiết lập thị trường khí tự do.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề cải cách ngành công nghiệp khí Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
55DẦU KHÍ - SỐ 11/2018 PETROVIETNAM Quốc tập trung tại các khu vực có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, gồm 4 khu vực xung quanh Bắc Kinh và vịnh Bột Hải, Thượng Hải, đồng bằng sông Dương Ngày nhận bài: 3/10/2017. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 3/10 - 21/11/2017. Ngày bài báo được duyệt đăng: 4/10/2018. VẤN ĐỀ CẢI CÁCH NGÀNH CÔNG NGHIỆP KHÍ TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Hình 1. Cơ cấu tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Trung Quốc giai đoạn 2016 - 2035 (BP, 2017) TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 11 - 2018, trang 55 - 65 ISSN-0866-854X Nguyễn Thu Hà1, Ngô Mai Anh2 1Viện Dầu khí Việt Nam 2Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Email: hant@vpi.pvn.vn Tóm tắt Trong giai đoạn giá dầu giảm, các quốc gia châu Á đang tận dụng thời cơ để tiến hành tái cấu trúc ngành công nghiệp khí hướng tới thị trường tự do trong đó có Trung Quốc. Quá trình tái cấu trúc đánh dấu sự kết thúc của cơ chế định giá cộng chi phí (cost plus) tồn tại hơn 50 năm trong lịch sử ngành công nghiệp khí của Trung Quốc. Giá khí hiện tại được tham chiếu và so sánh với giá của năng lượng thay thế và giá khí tự nhiên không chỉ được quyết định bởi Chính phủ mà còn tham chiếu theo thị trường cung - cầu năng lượng. Trong quá trình tái cấu trúc, Trung Quốc đã có ưu điểm và hạn chế trong cách tiến hành về quản lý cũng như cơ chế giá. Đây cũng là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình triển khai quy hoạch, xây dựng lộ trình thiết lập thị trường khí tự do. Từ khóa: Công nghiệp khí, thị trường khí, định giá khí, Trung Quốc. 1. Giới thiệu 1.1. Cung - cầu khí tự nhiên Trung Quốc có diện tích lớn và dân số đông nhất thế giới, có vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng tiêu thụ năng lượng toàn cầu. Theo BP, than đá chiếm hơn 60% tổng tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2035, tỷ trọng than sẽ giảm đáng kể, chuyển sự phát triển sang khí, năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo nhằm thực hiện mục tiêu cắt giảm lượng khí thải. Năng lượng tái tạo được xác định là nguồn năng lượng thay thế chính cho dầu và than đá trong dài hạn. Khí và năng lượng tái tạo sẽ kết hợp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và môi trường cho Trung Quốc [1]. Trung Quốc đang có chiến lược mở rộng sử dụng khí ra nhiều lĩnh vực, giảm ô nhiễm môi trường do việc sử dụng than gây ra. Mặc dù vậy, đến năm 2016, khí chỉ chiếm 6% trong tổng tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc, chưa đạt mức chính phủ dự kiến là 8%. Theo dự báo của BP, cơ cấu tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc thay đổi đáng kể: than giảm từ 62% năm 2016 xuống còn 42% năm 2035, trong khi đó khí tự nhiên tăng từ 6% lên 11%; dầu tăng nhẹ từ 19% lên 20% [2]. Tiêu thụ khí giai đoạn 2000 - 2016 tăng trưởng trung bình 14%/năm, trong đó giai đoạn 2000 - 2010 là 16%/năm còn giai đoạn sau đó tốc độ tiêu thụ chậm lại [3]. Tiêu thụ khí của Trung 19% 6% 62% 1% 9% 3% 2016 Dầu Khí Than 20% 11% 42% 6% 8% 11% 2035 Hạt nhân Thủy năng Năng lượng tái tạo 19% 6% 62% 1% 9% 3% 2016 Dầu Khí Than 20% 11% 42% 6% 8% 11% 2035 Hạt nhân Thủy năng Năng lượng tái tạo 3053 triệu tấn dầu tương đương 4425 triệu tấn dầu tương đương 56 DẦU KHÍ - SỐ 11/2018 KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ Tử và trung tâm phía Tây Trùng Khánh. Các khu vực này trở thành các trung tâm công nghiệp, dẫn đầu về tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng dân số. Tuy nhiên, một số trung tâm tăng trưởng kinh tế khác lại không có cơ sở hạ tầng khí đốt phát triển, như khu vực phía Đông Nam Trung Quốc [3]. Tổng tiêu thụ khí tự nhiên của Trung Quốc năm 2016 đạt 208,7 tỷ m3. Cơ cấu tiêu thụ khí tự nhiên của Trung Quốc trong giai đoạn 2000 - 2016 chủ yếu cho ngành công nghiệp; điện và nhiệt (chiếm gần 70% tổng tiêu thụ, trong đó khí dành cho công nghiệp chiếm tới hơn 40%). Cơ cấu này vẫn giữ ổn định đến năm 2030 theo dự báo của SIA Energy [4]. Trung Quốc là quốc gia giàu tài nguyên khí tự nhiên với tổng tiềm năng khí khoảng 62 nghìn tỷ m3 [1]; trữ lượng khí có khả năng thu hồi khoảng 5,4 nghìn tỷ m3 [2] tính tại thời điểm 2016. Sản lượng khí tự nhiên của Trung Quốc trong giai đoạn 2000 - 2016 tăng trung bình 10%/năm, trong đó giai đoạn 2000 - 2010 tăng 14%/năm và giai đoạn 2010 - 2016, tốc độ khai thác có xu hướng giảm, còn 6%/năm [5]. Trước năm 2007, Trung Quốc là nước xuất khẩu ròng khí tự nhiên nhưng sau đó trở thành nước nhập khẩu khí tự nhiên do sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu [5]. Kể từ sau năm 2010, lượng khí tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc tăng mạnh cùng với sự tăng trưởng nhanh của cơ sở hạ tầng đường ống và chế biến khí. Lượng khí nhập khẩu chiếm 11% trong tổng lượng khí tiêu thụ năm 2010 và tăng lên 34% vào năm 2016. Trung Quốc nhập khẩu khí theo 2 hình thức: qua đường ống xuyên quốc gia và LNG (cơ cấu tương ứng 52% và 48% trong tổng lượng khí nhập khẩu). Các quốc gia cung cấp khí qua đường ống cho Trung Quốc gồm: Turkmenistan, Uzbekistan, Myanmar, Kazakhstan. Trung Quốc nhập khẩu LNG từ: Australia, Qatar, Indonesia, Malaysia, Papua New Guinea, Yemen, Equatorial Guinea, Nigeria, Trinidad & Tobago, Egypt và một số quốc gia khác. Các công ty dầu khí quốc gia giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển ngành công nghiệp khí Trung Quốc. Ngành công nghiệp khí tự nhiên được chi phối bởi 3 công ty dầu khí quốc gia gồm: CNPC, Sinopec và CNOOC. CNPC nắm giữ khoảng 75% tổng sản lượng khí tự nhiên của Trung Quốc, sở hữu và vận hành hệ thống đường ống. Sinopec khai thác mỏ khí tự nhiên Puguang tại tỉnh Tứ Xuyên. CNOOC phát triển 3 terminal nhập khẩu LNG đầu tiên ở Thâm Quyến, Phúc Kiến và Thượng Hải, đồng thời quản lý tài sản ngoài khơi. CNOOC sử dụng hợp đồng PSC với các công ty nước ngoài muốn tham gia các dự án phát triển thượng nguồn và được phép mua bán lại đến 51% tỷ lệ tham gia của tất cả phát hiện ngoài khơi nếu Công ty Dầu khí Quốc tế (IOC) thu hồi được chi phí phát triển. 1.2. Cơ sở hạ tầng khí tự nhiên Cùng với sự phát triển mạnh của cung - cầu, Trung Qu ... g (tỷ trọng nhập khẩu). + Tỷ trọng hộ tiêu thụ dân dụng và thương mại trong tổng tiêu thụ khí: Mạng lưới vận chuyển và sản lượng tiêu thụ cho dân dụng thương mại gia tăng đáng kể trong khi nhóm hộ này vẫn đang được hưởng cơ chế ưu đãi về giá rất lớn. + Mối tương quan giữa giá trị thực của khí và khả năng chi trả của khách hàng: Mỗi khu vực (phụ thuộc cơ cấu năng lượng tiêu thụ, nguồn tài nguyên và sự phát triển cơ sở hạ tầng) và mỗi khách hàng (phụ thuộc sự đa dạng hóa nguyên liệu đầu vào, công nghệ) sẽ có mức sẵn sàng chi trả mua khí khác nhau. Tương tự, mỗi nguồn khí khác nhau giá trị thực tế cũng khác nhau (phụ thuộc điều kiện địa chất, khai thác, địa lý, khoảng cách vận chuyển). + Sự tác động của yếu tố mùa vụ: Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi yếu tố mùa trên phần lớn lãnh thổ. Nhu cầu tiêu thụ đỉnh của Bắc Kinh trong mùa đông cao gấp 11 lần mùa hè trong khi tỷ lệ này là 3:1 ở Thượng Hải và 2:1 ở Trùng Khánh [12]. Việc chênh lệch này sẽ dẫn tới sự phụ thuộc lớn vào giá khí nhập khẩu. + Tác động từ môi trường chính sách: Trong năm 2013, Chính phủ Trung Quốc thiết lập mục tiêu cắt giảm ô nhiễm môi trường trong năm 2017. Đây là lần đầu tiên chính sách môi trường vượt chính sách kinh tế để định hướng chính sách năng lượng. Những động thái này sẽ tạo ra nhu cầu khí bổ sung và khuyến khích nhập khẩu LNG. 3.2. Khó khăn, hạn chế của cơ chế định giá khí mới tại Trung Quốc [1] - Thiếu tính thiết kế tổng thể: + Hiện Trung Quốc mới chỉ thông qua Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ Đường ống dẫn Dầu khí và một số quy định hành chính khác, chủ yếu liên quan đến thăm dò, khai thác và ít đề cập tới thị trường hóa và cạnh tranh. Trong khi đó tại Mỹ và châu Âu đã ban hành các luật và quy định liên quan trong ngành công nghiệp này tạo cơ sở đáng tin cậy cho các nhà đầu tư và những người tham gia thị trường. + Các chức năng quản lý ngành khí của Trung Quốc được phân cấp cho các cơ quan Chính phủ khác nhau và không có tổ chức hành chính tập trung, điều này không thuận lợi cho quá trình cải cách ngành công nghiệp khí. + Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một số chính sách liên quan đến ngành khí tự nhiên và không có mục tiêu phát triển rõ ràng, quy hoạch tổng thể, kế hoạch chi tiết, hoặc tiến độ cải cách ngành khí tự nhiên. - Trở ngại từ các nhóm lợi ích: Cải cách ngành khí tự nhiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tinh giản quản lý và phân quyền cho các cấp thấp hơn để cho phép thị trường đóng vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực. Điều này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm liên quan. - Thiếu giám sát thị trường: Đối với các ngành công nghiệp khí phát triển trên thế giới, việc thành lập các cơ quan quản lý có các tiêu chuẩn về độc lập, chuyên nghiệp, minh bạch, trách nhiệm giải trình và tính nhất quán thông qua luật nhằm bình thường hóa các hoạt động của doanh nghiệp, khắc phục sự thất bại của thị trường và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường khí tự nhiên. + Thứ nhất, Trung Quốc thiếu một cơ quan quản lý tập trung về năng lượng hoặc khí đốt tự nhiên. Các chức năng điều tiết thiếu sự phối hợp vì được phân chia giữa các cơ quan Chính phủ; + Thứ hai, các tổ chức quy định về khí tự nhiên của Trung Quốc thiếu sự độc lập vì liên quan đến Chính phủ Trung Quốc và được Chính phủ tài trợ; + Thứ ba, cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho quy định khí tự nhiên của Trung Quốc không tồn tại; do đó, sự công bằng, nhất quán và minh bạch của quy định không thể được đảm bảo. - Cơ chế định giá còn tồn tại vấn đề: 63DẦU KHÍ - SỐ 11/2018 PETROVIETNAM + Trợ cấp chéo của hộ tiêu thụ dân dụng và công nghiệp chưa phù hợp với logic kinh tế học. Thông thường nhóm hộ sử dụng lượng khí lớn (công nghiệp) với chi phí đơn vị sẽ thấp nên được hưởng giá khí thấp và hộ dân dụng sử dụng lượng khí thấp với chi phí đơn vị cao sẽ phải chịu giá khí cao. Tuy nhiên, hệ thống giá hiện tại chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; + Giá khí đốt cho công nghiệp tương đối cao dẫn tới hiện tượng “thay thế than cho khí tự nhiên” làm ảnh hưởng đến cấu trúc năng lượng; + Với các hộ tiêu thụ dân dụng do được hưởng giá ưu đãi dẫn tới việc sử dụng quá mức xung đột với mục tiêu phát triển bảo tồn tài nguyên; + Cơ chế định giá mới cũng không đánh giá chất lượng khí của các nguồn khí khác nhau do việc đo lường dựa trên khối lượng chứ không phải nhiệt trị; + Các chính sách định các mức giá khác nhau đối với khí chưa được đưa ra, do đó không có quy định cụ thể về chênh lệch giá khí theo mùa, giá khí bị gián đoạn, chênh lệch giá đỉnh và giá nhu cầu hiện tại. 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Ngành công nghiệp khí Việt Nam được điều hành và kiểm soát bởi Chính phủ và không có sự tham gia của tư nhân. Chính phủ kiểm soát toàn bộ hoạt động của ngành công nghiệp khí thông qua Bộ Công Thương (MOIT). Cơ quan dưới bộ điều hành dẫn dắt thị trường gồm: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); không có sự tham gia quản lý của chính quyền địa phương như Trung Quốc. Cơ cấu quản lý ngành công nghiệp khí Việt Nam hiện nay thể hiện được vai trò quản lý của nhà nước và có tính thống nhất trong xây dựng quy hoạch/chiến lược cho từng phân ngành năng lượng. 4.1. So sánh thị trường khí Trung Quốc và Việt Nam Quy mô thị trường Trung Quốc lớn hơn Việt Nam 19,5 lần, tuy nhiên lượng khí tiêu thụ trên đầu người không chênh nhau nhiều, Việt Nam là 110 m3/đầu người và và Trung Quốc 144 m3/đầu người; Thị trường mới chỉ tập trung tại các khu vực gần nguồn khí và có cơ sở hạ tầng phát triển. Về nhóm hộ tiêu thụ cuối cùng: khác với Việt Nam, nhóm hộ công nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường. Ngoài ra, nhóm hộ dịch vụ công cũng đóng góp một phần không nhỏ vào tiêu thụ khí cả nước; Danh mục nguồn cung cấp khí của Trung Quốc khá đa dạng qua cả đường ống và hợp đồng cung cấp LNG, trong khi Việt Nam mới chỉ sử dụng nguồn cung cấp trong nước, chưa có nhập khẩu; Dẫn dắt ngành công nghiệp khí là các doanh nghiệp nhà nước. Các công ty dầu khí độc quyền quản lý cơ sở hạ tầng trung nguồn về vận chuyển khí. 4.2. Cơ chế định giá khí tại thị trường Việt Nam Tại Việt Nam hiện nay, cơ chế giá khí đang được thực hiện theo nguyên tắc Cost plus: - Giá khí miệng giếng được thiết lập trên cơ sở đàm phán song phương giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với các chủ mỏ với cách định giá theo chi phí đầu tư và tỷ suất lợi nhuận cho phép (RCS) hoặc theo giá dầu thô/sản phẩm dầu (OPE) hoặc hỗn hợp [13]; Hình 6. Cách định giá trong chuỗi giá trị khí của Việt Nam hiện nay Sản xuất khí tự nhiên Khai thác khí Giá miệng giếng Vận chuyển Người sử dụng trực tiếp Phân phối khu vực Cước phí vận chuyển Các nhà vận hành Quy định/Điều tiết bởi Chính phủ Nhà điều hành phân phối Cước phí phân phối Công nghiệp Dân dụng Vận tải Giá bán lẻ 64 DẦU KHÍ - SỐ 11/2018 KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ - Cước phí vận chuyển đường ống khá giống của Trung Quốc được xác định trên cơ sở cộng các chi phí và đảm bảo mức lợi nhuận nhất định của các công ty đường ống; - Phí chế biến và phân phối được xác định bởi các nhà máy chế biến và công ty phân phối được MOIT chấp thuận; - Giá bán khí đến hộ tiêu thụ cuối cùng được xác định theo các nhóm hộ tiêu thụ khác nhau là khác nhau. Trong đó nguyên tắc xác định có thể dựa trên công thức Cost plus hoặc theo giá dầu thô/sản phẩm dầu (OPE) và có sự điều tiết của chính phủ. Như vậy, về cơ chế định giá khí trên thị trường tại Việt Nam cũng có khá nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc trong giai đoạn trước năm 2013. Chuỗi giá khí từ khâu vận chuyển trở đi được nhà nước quy định và điều tiết. Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác với Trung Quốc như sau: - Giá khí khâu sản xuất hoàn toàn trên cơ sở đàm phán song phương và không chịu định hướng của Chính phủ; - Sản phẩm khí một mặt được bán cho người sử dụng trực tiếp và một mặt được bán cho các công ty phân phối khu vực; không hình thành giá cổng thành phố; - Giá bán lẻ và vận chuyển đều được quy định và điều tiết bởi nhà nước. Căn cứ Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 (ban hành kèm theo Quyết định số 60/QĐ-TTg, ngày 16/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ), mô hình thị trường khí Việt Nam được đề xuất phát triển theo hướng thị trường tự do theo 2 giai đoạn [15]: - Giai đoạn đến năm 2025: Hoàn thành mở cửa một phần/thị trường đang phát triển; - Giai đoạn sau năm 2025: Thị trường đang phát triển hướng tới thị trường tự do. Hình 7. Sơ đồ mô hình thị trường khí Việt Nam Ở giai đoạn hiện tại, Việt Nam vẫn xác định giữ nguyên cơ cấu thị trường cũng như mô hình tổ chức quản lý, mặc dù các nhân tố bên ngoài đang tạo môi trường thuận lợi cho các quốc gia trong việc tái cấu trúc ngành khí nhưng các yếu tố nội tại chưa đủ tạo tiền đề cho sự chuyển đổi này: thị trường nguồn cung nội địa (chưa nhập khẩu LNG, chưa có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế hay chưa có sự cạnh tranh trong nguồn cung); cơ sở hạ tầng chưa phát triển để khuyến khích cũng như thúc đẩy nhu cầu khí; danh mục khách hàng tiêu thụ còn hạn chế (hộ điện khí, hộ sản xuất phân bón, hộ công nghiệp và một phần nhỏ giao thông vận tải). 5. Kết luận Việc đưa cơ chế định giá khí Net-back vào thị trường khí đã giúp Trung Quốc gỡ bỏ khó khăn và tạo môi trường đầu tư thu hút cho khâu thượng nguồn. Quá trình cải cách giá khí lần 3 của Trung Quốc đã thông qua 4 loại giá khí cổng nhà máy cho: (i) nguồn khí trên bờ; (ii) LNG nhập khẩu sau tái hóa khí; (iii) khí đá phiến, khí than và than hóa khí; (iv) giá khí cổng thành phố được thông qua theo cơ chế “market-net- back” - giá khí tham chiếu theo giá năng lượng thay thế và không tính với hộ dân dụng. Giá khí mới đã đảm bảo đủ chi phí cho nguồn khí nhập khẩu qua đường ống và nguồn cung nội địa trên bờ. Từ bài học kinh nghiệm của quá trình cải cách ngành khí Trung Quốc, Việt Nam cần quan tâm đến một số vấn đề sau: - Cần có thiết kế tổng thể: Hoàn thiện khung pháp lý song song kiện toàn cơ cấu tổ chức, trong đó quan tâm tới cơ quan chức năng giám sát thị trường; - Đa dạng hóa danh mục nguồn cung: Đa dạng cả về sản phẩm cung và nhà cung cấp; - Đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối các khu vực thị trường, thiết kế mở rộng thị trường tiêu thụ khí về cả quy mô và danh mục khách hàng; Cơ quan quản lý thị trường Chính phủ Đơn vị quản lý ngành khí Đa dạng hóa sản phẩm khí Xây dựng, hoàn thiện chính sách quản lý khâu trung nguồn Trước 2025 Thị trường bị kiểm soát Mở cửa 1 phần/ Thị trường đang phát triển Thị trường tự do Sau 2025 TTK Việt Nam hiện tại Cục quản lý cạnh tranh Tự do hóa giá bán buôn Các nhà cung cấp cạnh tranh (khí nội địa/LNG) Sự tham gia của bên thứ ba và giá thị trường 65DẦU KHÍ - SỐ 11/2018 PETROVIETNAM - Xây dựng cơ chế định giá khí phù hợp với điều kiện thị trường Việt Nam trong đó bảo đảm bao quát được các yếu tố cơ bản: công bằng giữa các nhóm khách hàng; đảm bảo logic kinh tế; lồng ghép chất lượng giá khí; quy định thời gian hiệu lực, biên độ giá và có xét tới yếu tố mùa vụ. Tài liệu tham khảo 1. Xiucheng Dong, Guanglin Pi, Zhengwei Ma, Cong Dong. The reform of the natural gas industry in the PR of China. Renewable and sustainable energy review. 2017; 73: p. 582 - 593. 2. BP. BP energy outlook 2035. 2017. 3. Miranda Wainberg, Michelle Michot Foss, Gürcan Gülen, Daniel Quijano. Current and future natural gas demand in China and India. 2017. 4. SIA Energy. China gas market outlook and opportunities for Japan. 2017. 5. BP. BP statistic review of world energy. 2017. 6. 7. Michael Ratner, Gabriel M.Nelson, Susan V.Lawrence. China’s natural gas: Uncertainty for markets. Congressional research service. May 2, 2016. 8. h t t p : / / w w w . m a r c o n . c o m / p r i n t _ i n d e x . cfm?SectionListsID=30&PageID=2803. 9. Xunpeng Shi, Hari Malamakkavu Padinjare Variam. China’s gas market liberalisation: The impact on China - Australia gas trade. 2015. 10. Aolin Hu, Qing Dong. On natural gas pricing reform in China. Natural gas industry B. 2015; 2(4): p. 374 - 382. 11. Konoplyanick. Formation of gas pricing system in North-East Asia: European & US influence. 2012. 12. Sergey Paltsev, Danwei Zhang. Natural gas pricing reform in China: Getting closer to a market system?. Energy policy. 2015; 86: p. 43 - 56. 13. Phan Ngọc Trung, Nguyễn Thị Thanh Lê. Định giá khí trên thế giới và xu hướng định giá khí tại Việt Nam. Tạp chí Dầu khí. 2017; 8: trang 41 - 50. 14. Michael Chen. The development of Chinese gas pricing: Drivers, challenges and implications for demand. The Oxford institute for energy studies. 2014. 15. PVN. Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035. 2017. Summary During the prolonged period of low oil prices, many countries in Asia, including China, are taking advantage of this opportunity to restructure their gas industry towards liberalisation of the gas market. In China, the restructuring marked the end of the "cost plus" pricing mechanism that lasted more than 50 years in the country’s gas industry. Current gas prices are indexed on the price of alternative energies and prices of natural gas are not only regulated by the government but also by supply-demand balance. However, the restructuring process has shown advantages and disadvantages in China’s management and pricing mechanism. These experiences could be lessons for Vietnam in the process of implementing plans and building a roadmap towards a liberalised gas market. Key words: Gas industry, gas market, gas pricing, China. REFORMATION OF THE GAS INDUSTRY IN CHINA AND LESSONS DRAWN FOR VIETNAM Nguyen Thu Ha1, Ngo Mai Anh2 1Vietnam Petroleum Institute 2Vietnam Oil and Gas Group Email: hant@vpi.pvn.vn
File đính kèm:
- van_de_cai_cach_nganh_cong_nghiep_khi_trung_quoc_va_bai_hoc.pdf