Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ
Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 61 NINH THỊ SINH* VAI TRÒ “TIÊN PHONG” CỦA THIỀN SƯ KHÁNH HÒA TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1920-1945 QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ Tóm tắt: Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng. Từ khóa: Thiền sư Khánh Hòa, phong trào, chấn hưng, Phật giáo, lưu trữ, Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, dưới ảnh hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc, ở Việt Nam cũng xuất hiện cuộc vận động chấn hưng Phật giáo, mà nơi khởi đầu là Nam Kỳ. Trải qua gần 10 năm vận động sôi nổi, đến năm 1931, phong trào đạt được địa vị hợp pháp, đánh dấu bằng sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội. Tiếp sau Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, các hội Phật giáo lần lượt được thành lập ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù mỗi hội Phật học có một chương trình hoạt động riêng nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu phổ thông giáo lý Phật giáo bằng việc phiên dịch kinh điển Phật giáo ra chữ Quốc ngữ, chỉnh đốn thiền môn, thiết lập kỷ luật tăng già, đào tạo một thế hệ thanh niên tu sĩ chân chính và hữu học. Chấn hưng Phật giáo là một trong ba vấn đề quan trọng trong lịch sử tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX1, chính vì vậy đã thu hút sự quan tâm của các học giả ở cả trong và ngoài nước, ở nhiều * Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội 2; NCS Đại học Aix-Marseille và Viện Nghiên cứu Châu Á (Cộng hòa Pháp). 62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 mức độ và khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, chấn hưng Phật giáo được đề cập trước hết trong các tác phẩm về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Có thể kể tới các công trình của Mật Thể2, Mai Thọ Truyền3, Vân Thanh4, Nguyễn Lang5, Nguyễn Tài Thư6, Nguyễn Duy Hinh7 Một số khía cạnh của phong trào cũng là đối tượng nghiên cứu của các học giả trong nước, chẳng hạn như Trần Văn Giàu quan tâm đến vấn đề tư tưởng và triết học Phật giáo8, trong khi đó Thích Thiện Hoa9, Thích Đồng Bổn10 lại giới thiệu một số gương mặt tiêu biểu của phong trào. Báo chí Phật giáo thu hút sự quan tâm của Thích Thanh Đạt11, trong khi đó Nguyễn Thị Thảo12 lại tìm hiểu về vấn đề văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo giai đoạn trước năm 1945. Nguyễn Quốc Tuấn tập trung tìm hiểu về đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX13. Ở nước ngoài, phong trào chấn hưng Phật giáo được đề cập trong các nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh14, Trịnh Văn Thảo15 (Pháp). Trong những năm gần đây, cũng đã thấy xuất hiện hai luận án tiến sĩ ở Hoa Kỳ tìm hiểu về chấn hưng Phật giáo. Đó là luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Minh16 và Ngô Đức Hoàng17. Nếu như Nguyễn Thị Minh khai thác khía cạnh giáo dục tăng chúng trong phong trào chấn hưng ở cả ba kỳ, thì luận án của Ngô Đức Hoàng lại tìm hiểu về vấn đề “nhập gian Phật giáo”. Các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu hoặc là phong trào chung hoặc là các phương diện, khía cạnh khác nhau của phong trào chấn hưng Phật giáo. Bên cạnh đó, nhiều công trình cũng đã đề cập đến nhiều nhân vật quan trọng trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở cả ba Kỳ. Chẳng hạn, Lê Tâm Đắc trong tác phẩm Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam 1924-1954 đã giới thiệu 10 gương mặt tiêu biểu của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, Nguyễn Lang giới thiệu những đại diện tiêu biểu (tăng sĩ và cư sĩ) của cả ba Kỳ. Tuy nhiên, có một nhân vật rất quan trọng và là một trong hai nhân vật gắn liền với phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ - Thiền sư Khánh Hòa, nhưng các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tiểu sử, hoặc đưa ra nhận định hết sức khái quát về vai trò của Thiền sư trong phong trào chấn hưng. Ví dụ, Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, có nhận xét rằng: “Công đầu của Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 63 phong trào chấn hưng thuộc về Thiền sư Khánh Hòa”18 hay Trần Hồng Liên cũng khẳng định rằng “Hòa thượng Khánh Hòa là vị tổ mở đầu phong trào chấn hưng Phật giáo trong người Việt ở Nam Bộ”19. Vậy, vai trò ấy là gì ? Bài viết này, trên cơ sở khảo cứu các hồ sơ lưu trữ ở Pháp và Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ “công đầu” cũng như vai trò “tiên phong” của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945. 2. Vai trò của Thiền sư Khánh Hòa trong giai đoạn 1920-1945 Trước hết, Cần nhắc lại rằng, trong phong trào chấn hưng Phật giáo giai đoạn 1920-1945, trên cả ba Kỳ, có nhiều hội Phật giáo đã được thành lập. Theo Pascal Bourdeaux, đến năm 1935, ở Nam Kỳ có 6 hội, như Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, Lưỡng Xuyên Phật học Hội, Thiên thai Thiền giáo tông lương hữu Hội20, ở Trung Kỳ có hai hội là Annam Phật học Hội và Đà thành Phật học21, ở Bắc Kỳ có Hội Phật giáo Bắc Kỳ. Chính các hội Phật giáo, Phật học này giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động chấn hưng. Trong số các hội đó, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội ra đời sớm nhất. Sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội có một ý nghĩa quan trọng, không những đạt được địa vị hợp pháp mà còn có tác dụng cổ vũ đối với tăng sĩ, trí thức trong việc vận động thành lập các hội Phật học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù đến tháng 8 năm 1931, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội mới chính thức được thành lập, nhưng những ý tưởng về việc thành lập một hội Phật giáo đã xuất hiện từ cuối năm 1927 và tác giả của nó, không ai khác, chính là Thiền sư Khánh Hòa. Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877, tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị (Bến Tre). Vào thời điểm năm 1927, ngài trụ trì chùa Tiên Linh, ở Tân Hương (Bến Tre). Trên thực tế, liên quan đến v ... tiếng Pháp được đặt mua tại Paris. Thư viện bắt đầu mở cửa phục vụ công chúng (cả tăng và tục) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1930. Ông Trần Nguyên Chấn hy vọng sẽ xây dựng Pháp Bảo Phương thành hạt nhân cho Phật giáo ở Nam Kỳ. Cùng với việc thành lập Thư viện Phật học, những người chủ trương chấn hưng cũng quan tâm đến việc xin phép xuất bản tạp chí Phật học bằng chữ Quốc ngữ. Cụ thể tháng 9 năm 1929, ông Phạm Ngọc Vinh gửi đơn cho Thống đốc Nam Kỳ, xin phép xuất bản tạp chí Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ. Ông Phạm Ngọc Vinh sinh ngày 15 tháng 12 năm 1903 tại làng Phú Tài, tổng Đức Thắng (Phan Thiết), trong một gia đình quan lại. Cha là ông Phạm Ngọc Quát, Thượng thư triều đình Huế, mẹ là bà Trà Thị Thức. Bản thân Phạm Ngọc Vinh làm việc tại ngân hàng Đông Pháp từ năm 1923, và là con rể của ông Trần Nguyên Chấn. Ngày 30 tháng 4 năm 1931, nghị định số 2683 do Toàn quyền Đông Dương René Robin ký, cho phép ông Phạm Ngọc Vinh được phép xuất bản tạp chí Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ, mỗi tháng một kỳ32. Bước tiếp theo là việc xin phép thành lập hội Phật giáo. Ngày 28 tháng 12 năm 1929, ông Trần Nguyên Chấn thay mặt Ban Trị sự tạm thời đệ trình hồ sơ xin phép thành lập Association pour l’Etude et la Conservation du Bouddhisme en Cochinchine (tạm dịch: Hội Nghiên 72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 cứu và Bảo tồn Phật giáo Nam Kỳ) lên Thống đốc Nam Kỳ. Hồ sơ này gồm đơn, bản Dự thảo Điều lệ của Hội và danh sách Ban trị sự tạm thời. Ban trị sự tạm thời gồm có 8 vị, trong đó tăng sĩ chỉ có một người duy nhất là Thiền sư Khánh Hòa, 7 người còn lại đều là cư sĩ và đều giữ các chức vụ trong các cơ quan hành chính, hãng sở của chính quyền thuộc địa33. Chính quyền thuộc địa nghiên cứu rất tỉ mỉ hồ sơ xin phép lập hội, và để đạt được sự phê chuẩn của chính quyền, bản dự thảo điều lệ cũng trải qua nhiều lần bổ sung và chỉnh sửa. Lần cuối cùng là ngày 19 tháng 8 năm 1931. Ông Trần Nguyên Chấn, thay mặt Ban Trị sự tạm thời Association pour l’Etude et la Conservation du Bouddhisme en Cochinchine gửi lên Thống đốc Nam Kỳ bản Dự thảo Điều lệ được hoàn thiện theo sự hướng dẫn của bức thư số 7190 ngày 7 tháng 8 năm 1931. Đồng thời, ông cũng xin được bổ sung thêm hai chữ “Nam Kỳ” vào tên Hội bằng chữ Quốc ngữ, vừa để diễn tả nghĩa chữ “Cochinchine” sang tiếng Việt, vừa để phân biệt với Viện Phật học ở Phnom-Penh và Phật giáo Nam tông ở Campuchia và Lào. Sau gần hai năm kể từ ngày đệ trình hồ sơ xin phép thành lập, ngày 26 tháng 8 năm 1931, Thống Đốc Nam Kỳ, J. Krautheimer, đã phê chuẩn bản Điều lệ của Hội và cho phép Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội được thành lập, quyết định số 206234. Theo bản Điều lệ được phê chuẩn, hội quán của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội đặt tại chùa Linh Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn, do Hòa thượng Khánh Hòa làm Chánh Hội trưởng. Bản Điều lệ cũng cho biết, mục đích của Hội nhằm sùng thượng Phật giáo tại chùa Linh Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn và tu bổ chùa ấy; lo sự tu bổ và hành động ngôi Pháp Bảo Phương và ngôi Duyệt Kinh Thất lập tại chùa ấy, và mua kinh sách chữ Pháp và chữ Hán nói về Phật giáo trữ thêm trong ngôi Pháp Bảo Phương; dịch ra chữ Quốc ngữ những kinh sách bằng chữ Hán; lập tại chùa Linh Sơn một Thích học đường để dạy tăng đồ học đạo. Bốn tháng sau khi thành lập, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm làm cơ quan ngôn luận cũng như truyền bá Phật giáo. Số đầu tiên ra mắt bạn đọc ngày 1 tháng 1 năm 1932. Tòa soạn tạp chí đặt tại chùa Linh Sơn, do Hòa thượng Khánh Hòa làm chủ nhiệm. Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 73 So với mục đích và hoạt động của dự thảo điều lệ Hội Phật giáo năm 1927, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội đã giữ lại những “ý tưởng công trình” quan trọng như xuất bản tạp chí Từ Bi Âm, phiên dịch và xuất bản kinh sách bằng chữ Quốc ngữ. Tác giả của những công trình đó, không ai khác là Hòa thượng Khánh Hòa. Tuy nhiên, Hòa thượng Khánh Hòa cũng chỉ giữ những chức vụ này trong khoảng gần 2 năm. Sao đó, do “Hội đã bị một số cá nhân dùng địa vị xã hội của họ để khuynh loát và hướng dẫn về một nẻo khác”35 nên Hòa thượng Khánh Hòa từ chức trong Ban Trị sự cũng như Chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm. Cuối năm 1933, Ngài về chùa Long Hoa, tổ chức Phật học đường lưu động lấy tên là Liên đoàn Phật học xã, rồi lại chuyển sang thành lập Lưỡng Xuyên Phật học Hội vào năm 1934. 3. Kết luận Như vậy, qua sự trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng Hòa thượng Khánh Hòa chính là vị tiên phong và là tác giả của chủ trương thành lập Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội và tạp chí Từ Bi Âm. Bản thân Hòa thượng đã tích cực vận động thành lập Hội Phật giáo trong hai năm 1927-1928, tuy nhiên, cả hai lần xin phép đều không được chính quyền thuộc địa chấp nhận. Kinh nghiệm sau hai lần thất bại đã đưa đến sự hợp tác giữa Hòa thượng Khánh Hòa - là người có trình độ Phật học uyên bác, lại có sẵn chủ trương hành động về việc chấn hưng và ông Trần Nguyên Chấn - người có địa vị xã hội, có khả năng tài chính, nhiệt thành sùng Phật cùng với các viên chức trong các cơ quan hành chính của chính quyền thuộc địa. Sự hợp tác này đã đưa đến sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội vào năm 1931. Đây là hội Phật giáo đầu tiên trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam. Với sự xuất hiện của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, phong trào chấn hưng Phật giáo không những đạt được địa vị hợp pháp mà còn khuyến khích các nhà trí thức cùng các vị tăng sĩ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ tích cực vận động đưa đến sự ra đời của các hội Phật học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ trong các năm sau đó./. 74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 CHÚ THÍCH: 1 Nguyễn Thế Anh (2008), “Les principaux courants de pensée religieuse du Vietnam au XXe siècle”, in Nguyễn Thế Anh, Parcours d’un historien du Vietnam, Paris, Les Indes savantes: 623-633. 2 Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 232-234. 3 Mai Thọ Truyền (2007), Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 98-102. 4 Vân Thanh (1974), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam qua các thời đại và phát nguồn của các giáo phái Phật giáo, Sài Gòn: 185-227. 5 Nguyễn Lang (1985), Việt NamPhật giáo sử luận, Paris, Lá Bối; tái bản lần thứ 2, San Jose-USA, 1993, tr. 13-179. 6 Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 428-472. 7 Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội: 524-593. 8 Trần Văn Giàu (1971), “Phong trào chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng triết học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến tranh thế giới”, Nghiên cứu Lịch sử, số 139: 8-21, số 140: 7-19. 9 Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) Chấn hưng Phật giáo Việt Nam hay là "ghi ơn tiền bối", Sài Gòn. 10 Thích Đồng Bổn (chủ biên, 1996), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành: 79-220. 11 Thích Thanh Đạt (1994), Báo chí Phật giáo với phong trào chấn hưng Phật giáo 1930-1945, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội. 12 Nguyễn Thị Thảo (2014), Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm 1945, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 13 Nguyễn Quốc Tuấn (2013), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 14 Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris, Les Indes savantes, les chapitres "L’engagement politique du bouddhisme au sud du Vietnam dans les années soixante" et "Les principaux courants de pensée religieuse du Vietnam au XXe siècle", pp. 614-633. 15 Trịnh Văn Thảo (2007), Vietnam du Confucianisme au Communisme, Paris, L’Harmattan: 305-309. 16 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ Triết học, Université de Wisconsin, Madison. 17 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, Université de Washington, Washington. 18 Nguyễn Lang (1985), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất: 51. 19 Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 49. 20 Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études: 85. Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 75 21 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, Université de Washington, Washington: ii. 22 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 23 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993: 51. 24 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, Université de Wisconsin, Madison: 134-137. 25 Chương trình 10 điểm gồm: lập Phật giáo tổng hội, lập Phật gia công học hội, lập Phật học tu thư xã, lập giảng đàn, lập trường học cho các con cái thiện tín học, lập thư viện trong các chùa, lập ra cuộc y tế trong các chùa, lập nhà bảo cô, tức là nhà để nuôi trẻ mồ côi, lập nhà nuôi kẻ khó, dạy nữ công cho con cái thiện tín. 26 Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 81. 27 G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực đông sùng bái, Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. 28 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 29 Trung tâm Lưu tữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D.62/432. 30 Ông là người đã cổ động phong trào duy tân của Phan Châu Trinh cũng như hoạt động của Phan Bội Châu. Đồng thời ông còn thành lập Đảng Lập Hiến Đông Dương vận động đòi tự trị cho Việt Nam. Đảng này dùng ba tờ báo: La tribune indochinoise, L’Écho Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. 31 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, hồ sơ 227. 32 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, hồ sơ 227. 33 Ban Trị sự tạm thời gồm các vị sau: Chánh Hội trưởng: Lê Khánh Hòa, Hòa thượng chùa Linh Sơn Phó Hội trưởng: Trần Nguyên Chấn, Chánh Thừa Biện hạng nhất tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn Thủ quỹ: Trần Văn Khuê, Tri huyện tại phòng thứ sáu dinh Soái Phủ Nam Kỳ Phó Thủ quỹ: Lê Văn Phổ, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn Thư ký: Nguyễn Văn Nhơn, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn Phó thư ký: Phạm Ngọc Vinh, thư ký tại ngân hàng Đông Pháp, Sài Gòn Cố vấn: Huỳnh Văn Quyền, Thông phán thượng hạng tại dinh Đốc lý thành phố; Nguyễn Văn Cần, Thừa biện tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn. 34 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 35 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993, tr. 54. TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tài liệu lưu trữ 76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 1. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Toàn quyền Đông Dương, hồ sơ 65539. 2. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Thống sứ Cao Miên, hồ sơ 227. 3. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D.62/432. 4. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ D9.56/58. B. Báo chí giai đoạn thuộc địa 1. G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực Đông sùng bái”, Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. C. Sách tham khảo 1. Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris,Les Indes savantes. 2. Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, Université de Washington, Washington. 3. Nguyễn Lang (1985, 1993), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, Paris; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA. 4. Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ từ thế kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, Université de Wisconsin, Madison. 6. Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études. 7. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài Gòn- Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Abstract “PIONEER” ROLE OF MASTER KHÁNH HÒA IN THE BUDDHIST REVIVAL MOVEMENT IN VIETNAM FROM 1920 TO 1945 THROUGH THE ARCHIVES’ DOCUMENTS On the basis of analysing the archives’ data (in France and in Vietnam), the works in Vietnam and theses, the article clarifies the “pioneer” role of Master Khánh Hòa in the Buddhist revival movement in Vietnam during the years 1920-1945 in general and the birth of the Association of Buddhist Studies in the South (Nam Kỳ) in particular. Keywords: Master Khánh Hòa, movement, revival, Buddhism, archives, Vietnam.
File đính kèm:
- vai_tro_tien_phong_cua_thien_su_khanh_hoa_trong_phong_trao_c.pdf