“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách chuẩn mực, truyền thống và hiện đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một điển hình, chuẩn mực về đạo đức cách mạng mà còn là một tấm gương sáng về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. “Tuyên ngôn độc lập” của Người mang phong cách ngôn ngữ vừa truyền thống, vừa hiện đại, đã kế thừa và phát huy tinh thần của ba bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách chuẩn mực, truyền thống và hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách chuẩn mực, truyền thống và hiện đại
71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 VĂN HÓA - VĂN HỌC v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã kề vai sát cánh, kiên cường, bất khuất trải qua biết bao cuộc chiến tranh trường kỳ, gian khổ, đầy hy sinh để bảo toàn bờ cõi và nền độc lập của dân tộc. Từ “Quốc tộ” của nhà sư Đỗ Pháp Thuận, “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đến “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh – đó là những thiên anh hùng ca tái hiện lịch sử giữ nước của dân tộc. PHẠM NGỌC HÀM* *Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ phamngocham.nnvhtq@gmail.com Ngày nhận: 20/4/2017; Ngày hoàn thiện: 03/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017 “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH MỘT PHONG CÁCH CHUẨN MỰC, TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI Những bản tuyên ngôn đanh thép ấy về độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam cũng là những mốc son chói sáng về chiến công lẫy lừng của một dân tộc mà sức mạnh được nhân lên vạn lần từ khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống nhân nghĩa, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nhờ sức mạnh tổng hợp đó mà dân tộc ta “gậy tầm vông cũng đánh tan quân bạo tàn.” Nhìn lại lịch sử, tuy bốn bản tuyên ngôn độc lập với những hình thức ngôn ngữ và thể tài khác nhau, nhưng cùng toát lên một chân lý “đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” và chủ quyền của TÓM TẮT Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một điển hình, chuẩn mực về đạo đức cách mạng mà còn là một tấm gương sáng về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. “Tuyên ngôn độc lập” của Người mang phong cách ngôn ngữ vừa truyền thống, vừa hiện đại, đã kế thừa và phát huy tinh thần của ba bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với lập luận chặt chẽ, tình tiết mạch lạc, câu từ độc đáo, bản tuyên ngôn đó vừa là sự khẳng định đanh thép chủ quyền dân tộc, vừa là lời kêu gọi hùng hồn, xứng đáng là một viên ngọc mãi lấp lánh trong Bảo tàng Lịch sử và Ngôn ngữ Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tiến hành phân tích “Tuyên ngôn độc lập” dưới góc nhìn ngôn ngữ học trong sự liên hệ với “Quốc tộ”, “Nam quốc sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”, nhằm góp phần làm rõ tính chuẩn mực trong văn phong của Người. Từ khóa: hiện đại, ngôn từ, phong cách, Tuyên ngôn độc lập, truyền thống. 72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 v VĂN HÓA - VĂN HỌC dân tộc Việt Nam là bất khả xâm phạm. Trong bốn bản tuyên ngôn độc lập đó, “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt đến mẫu mực, hoàn hảo cả về phương diện chính trị lẫn phương diện văn chương, phương diện ngôn ngữ, vừa có sự kế thừa truyền thống, vừa có tính hiện đại, là kết tinh tinh hoa từ các bản tuyên ngôn trong lịch sử, đồng thời đưa việc sử dụng “hành động ngôn ngữ” tuyên ngôn trong giao tiếp chính trị đạt đến mức nghệ thuật. Từ khi lời “Tuyên ngôn Độc lập” âm vang giữa Ba Đình lịch sử và truyền đi khắp năm châu bốn biển đến nay, hơn 70 năm đã trôi qua, tuyệt tác này đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo học giả. Tuy nhiên, phần lớn các các bài viết đều nghiêng về góc độ lý luận chính trị, chẳng hạn như Nguyễn Thường Lạng với bài viết nhan đề Bản Tuyên ngôn độc lập và trí tuệ lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Ngọc Am với Thêm hiểu biết về Bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, Phùng Văn Thiết với Tuyên ngôn độc lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại, Nghiên cứu dưới góc độ phê bình văn học và ngôn ngữ học có thể kể đến tác giả Đinh Văn Đức với bài Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc lập” – Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt, Yến Thanh với bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh từ góc độ tu từ học và nguyên lý đối thoại, đặc biệt là Hoàng Tuệ với bài viết Phân tích văn bản “Tuyên ngôn độc lập” đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ số 1 năm 1990, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Trong bài viết của mình, Hoàng Tuệ đã sử dụng lí thuyết ngữ pháp văn bản để tiến hành phân tích nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ngôn của văn bản lịch sử này để từ đó làm nổi bật ý nghĩa sâu sắc của hành động chính trị của tác giả bản Tuyên ngôn – Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như sự đóng góp to lớn của Người đối với sự phát triển và cách tân tiếng nói dân tộc. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích văn bản “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh (gọi tắt là “Tuyên ngôn độc lập”) dưới góc nhìn ngôn ngữ học trong mối liên hệ với các bản Tuyên ngôn Độc lập trước đó, nhằm góp phần khẳng định tính chuẩn mực, vừa truyền thống, vừa hiện đại của bản “Tuyên ngôn độc lập” này và thiên tài sử dụng ngôn từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như sức chuyển tải phi thường của tiếng Việt. 2. TÍNH TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ TRONG “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” Từ “Quốc tộ” (vận nước) đến “Tuyên ngôn Độc lập” là cả một quá trình tiến triển và hoàn thiện về mặt nội dung cũng như hình thức các bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta. “Quốc tộ” của nhà sư Đỗ Pháp Thuận được coi là Tuyên ngôn hòa bình đầu tiên của dân tộc Việt Nam, ra đời trong bối cảnh Lê Hoàn hỏi về vận nước. Tuyên ngôn hòa bình này vẻn vẹn trong khuôn khổ một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán: 國祚如藤絡, Quốc tộ như đằng lạc, 南天裏太平。Nam thiên lý thái bình. 無為居殿閣,Vô vi cư điện các, 處處息刀兵。Xứ xứ tức đao binh. (Vận nước như dây mây quấn quýt, Trong cõi trời Nam là cả một khung cảnh thái bình. Sống vô vi trong cung điện. Muôn nơi đều hết nạn binh đao.) Tiếp đến bản Tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” vốn hết sức gần gũi với mọi người dân Việt Nam vì đã được đưa vào chương trình văn học trường phổ thông nguyên dạng bản gốc tiếng Hán và bản dịch tiếng Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, dưới hình thức là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cả hai bản trong chừng mực nhất định còn mang dấu ấn của tư tưởng vô vi hay thiên mệnh. Về mặt nội dung tư tưởng, “Nam quốc sơn hà” đã được nâng lên một ... húc, cùng với lời dẫn từ “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Ngay từ lời mở đầu bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định những câu chữ được chọn lọc, trích dẫn từ hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc là Mỹ và Pháp ấy là những Lời bất hủ - không bao giờ cũ, không bao giờ mất giá trị, và là Lẽ phải không ai chối cãi được. Từ “Nam quốc sơn hà” đến “Tuyên ngôn Độc lập” là sự chuyển mình từ tư tưởng dựa vào thế lực huyền bí đến sự dựa trên cơ sở thực tế khách quan, từ “thần” đến “dân”, từ “thiên” đến “nhân”. Tính chất “kê cổ” ấy càng khẳng định chân lý về quyền con người, quyền được hưởng tự do độc lập đã được thế giới, cổ kim, đông tây đều thừa nhận, trong đó tất nhiên có quyền độc lập tự do bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam. 74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 v VĂN HÓA - VĂN HỌC Từ sự khẳng định chân lý độc lập chủ quyền dân tộc, soi vào thực tiễn lịch sử, “Tuyên ngôn Độc lập” cũng như “Bình Ngô đại cáo” đã tiến tới tố cáo tội ác tày trời với những hành vi bạo lực phi nhân tính, những tham vọng hay đúng hơn là cuồng vọng cướp nước của kẻ xâm lược. Bằng việc lặp lại đến 17 lần đại từ xưng hô “chúng” và 4 lần từ xưng hô “bọn”, tác giả “Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện rõ thái độ khinh miệt, căm phẫn đối với kẻ cướp nước nhằm vạch trần âm mưu, thủ đoạn mị dân của thực dân Pháp hòng cướp nước ta. Đối với nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng đại từ đơn âm tiết ta trong các kết hợp: dân ta, nước ta, đất nước ta, nhân dân ta, đồng bào ta, nòi giống ta, thể hiện niềm kiêu hãnh và tình cảm hết sức gần gũi, gắn bó, hòa đồng, không hề có khoảng cách giữa người nói – vị lãnh tụ tối cao của dân tộc với người nghe là toàn thể nhân dân. Đồng hành với mỗi đại từ “chúng” hầu hết là những vị từ mạnh như “trái hẳn”, “tuyệt đối”, “thẳng tay”, “cướp”, “bóc lột”, “đặt ra”, “nhẫn tâm”, “tắm (trong những bể máu)”, tạo thành những câu văn liên hoàn, dồn dập. Mỗi câu là lời tố cáo đanh thép một tội ác, một âm mưu, một thủ đoạn hết sức tinh vi của quân xâm lược. Ngoài những từ ngữ xưng hô, trong “Tuyên ngôn Độc lập” còn xuất hiện khá nhiều các điệp từ và điệp ngữ khác, như sự thật là, tự do độc lập, xóa bỏ, tuyên bố, nhất là sự xuất hiện nhiều lần danh từ quyền xuyên suốt toàn văn. Chính các điệp từ, điệp ngữ ấy vừa làm sáng tỏ nội dung, vừa thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ quyền tự do độc lập của dân tộc, vì chúng ta có chính nghĩa dựa trên cơ sở sự thật khách quan không thể phủ nhận. Cũng chính các điệp từ, điệp ngữ ấy đã tạo cho lời lẽ trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh một âm hưởng ngân vang mãi trong lòng mỗi người dân, đồng thời góp phần làm nên một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, súc tích, sắc bén, đầy sức thuyết phục. Cứ thế, chân lý về độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam mãi thấm sâu vào lòng người như một lẽ tự nhiên. Nếu như “Bình Ngô đại cáo” đã toát lên một tinh thần nhân nghĩa, lòng khoan dung rộng lớn của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn lấy chí nhân để thay cường bạo và mở đường hiếu sinh, thì “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn phát huy truyền thống nhân nghĩa rạng ngời đó, thái độ khoan hồng và nhân đạo vẫn được nhân dân Việt Nam sẵn lòng dành cho người Pháp chứ không phải dành cho bọn thực dân cướp nước. “Bình Ngô đại cáo” dành một nội dung khá lớn cho việc tổng kết những chiến thắng vang dội của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những tên đất oai hùng Bồ Đằng, Trà Lân, Ninh Kiều, Đông Đô, Chi Lăng, Mã Yên, Lạng Giang, Lạng Sơn, Xương Giang, Bình Than, Lãnh Câu, Đan Xá, Mỗi tên đất ấy gắn liền với một chiến công, mỗi chiến công được tái hiện bằng một hình ảnh gợi tả với những cụm động từ mạnh như sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, máu trôi đỏ nước, nước chảy trôi chày, xéo lên nhau, khiếp vía, vỡ mật, thây chất đầy núi, đầm đìa máu đen, Và những ngày mười tám, ngày hai mươi, ngày hai lăm, ngày hai tám, dồn dập những chiến công nối tiếp chiến công. Tất cả khiến cho người đọc ngập chìm trong khúc khải hoàn ca chiến thắng. Đến “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết chiến thắng của dân tộc ta bằng vẻn vẹn chỉ một câu 9 chữ với 3 cụm chủ vị Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Chỉ có mấy chữ đó thôi, thật là giản dị, nhưng cũng thật rõ ràng, mà lại tổng kết được một cách hết sức bao quát, đầy đủ thắng lợi của cả cuộc cách mạng lâu dài “phản đế phản phong” của toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo, đó chính là cơ sở cho chúng ta có quyền Tuyên ngôn Độc lập để mang lại tự do và hạnh phúc cho toàn dân tộc. Cách tổng kết chiến thắng độc đáo đó đã thể hiện một phong cách Hồ Chí Minh trong chiến lược tiết kiệm ngôn từ, lời ít, ý nhiều. Kiểu câu phức ngắn gọn, nối kết 75KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 VĂN HÓA - VĂN HỌC v ba sự kiện liền mạch, liên hoàn, mang tính mở ấy đã khiến cho người đọc hình dung ra một sự sụp đổ, tan rã của cả một hệ thống chính quyền đế quốc thực dân phong kiến theo kiểu phản ứng dây chuyền không thế lực nào có thể cứu vãn, cuối cùng phải nhường chỗ cho một Chính phủ lâm thời, khởi đầu một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. “Tuyên ngôn Độc lập” còn sử dụng những câu hoặc cấu trúc sóng đôi, phảng phất sắc màu của văn biền ngẫu, gây ấn tượng mạnh và sâu cho người đọc và người nghe, như (1) Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập; (2) dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều; (3) Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn; (4) đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật; (5) xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam; (6) tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, Song, tính chất biền ngẫu của những cặp câu này không hoàn toàn chặt chẽ, trong đó chỉ gồm những từ ngữ hết sức dễ hiểu như các từ gạch dưới đối với toàn thể mọi người dân. Nhờ vậy, các câu và từ ấy đã bổ sung cho nhau, tương tác lẫn nhau, thu hút sự chú ý của người đọc và người nghe, làm cho nội dung thông tin cần truyền tải trở nên sinh động hơn, nổi bật và cũng dễ đi sâu vào lòng người hơn. Có thể nói, đó là sự “phá cách” của dạng biền văn truyền thống. Sự hiện diện của những câu văn này còn góp phần làm cho bản Tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang sắc thái truyền thống, cổ điển và hướng tới tính hiện đại của văn chương tiếng Việt. Một điểm nổi bật nữa về mặt cấu trúc văn bản của “Tuyên ngôn Độc lập” là sự hiện diện của các từ ngữ đóng vai trò làm thành phần nối các đoạn mà ngôn ngữ học gọi là các kết tử, như thế mà, tuy vậy, bởi thế cho nên nối kết giữa các nội dung, hợp thành một văn bản chính luận có lập luận chặt chẽ, đầy đủ, hùng hồn. Tính mạch lạc và logic đã được nổi rõ qua dấu hiệu kết nối nội dung của các kết tử này. Trong đó, thế mà, tuy vậy đóng vai trò nối kết hai nội dung trên dưới có ý nghĩa trái ngược nhau. Sau khi dẫn ra những Lời bất hủ để khẳng định chân lý không ai chối cãi được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng thế mà để vạch trần tội ác đi ngược lại công lý của thực dân Pháp nhằm cướp đi quyền tự do của dân tộc Việt Nam. Sau khi tố cáo tội ác trời không dung, đất không tha của bọn thực dân Pháp nhẫn tâm, Người lại dùng tuy vậy để dẫn nêu thái độ khoan dung của một dân tộc yêu chuộng hòa bình sẵn lòng tha thứ cho chính kẻ thù của mình khi chúng đã rũ bỏ thú tính, trở về với nhân tính và làm người Pháp chứ không phải giặc Pháp. Và kết tử bởi thế cho nên lại phát huy vai trò nối kết hai nội dung có quan hệ nhân quả. Một lần nữa, Người khẳng định, việc xóa bỏ mọi hiệp ước, đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam và tuyên bố với thế giới về quyền tự do, độc lập của Việt Nam là một tất yếu khách quan của một dân tộc có sức mạnh chính nghĩa. “Bình Ngô đại cáo” với một quy mô đồ sộ hơn cũng đã sử dụng lối liên kết này, nhưng bằng một lượng kết tử lớn gấp ba lần. Đó là cái văn (từng nghe), cố (cho nên), khoảnh (vừa rồi), nại dĩ (lại ngặt vì), nhiên kỳ (thế mà), tốt năng (trọn hay), toại (bởi thế)... Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình sáng tác thơ văn cũng như sử dụng ngôn ngữ thường nhật, luôn nêu cao tấm gương về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khiến cho tiếng Việt trong các bài viết chính luận, bài phát biểu hay lời nói thường ngày của Người trở nên giản 76 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 v VĂN HÓA - VĂN HỌC dị, dễ hiểu và gần gũi hơn với đông đảo quần chúng nhân dân. Khi nói về các tầng lớp nhân dân trong xã hội, Người không dùng nông dân, thương nhân mà dùng dân cày, dân buôn. Người dùng ra khỏi nhà giam, gan góc chống lại, mà không dùng xuất ngục, vượt ngục, kiên cường phản kháng, dùng quyền sung sướng để giải nghĩa cho quyền mưu cầu hạnh phúc. Ngay từ tiếng gọi thân thương, tha thiết “Hỡi” cất lên từ đầu bản Tuyên ngôn đến những câu hết sức đời thường như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Việt Nam cũng được Người vận dụng vào Tuyên ngôn, như đã trở thành, chứ không phải. Đó là bản sắc của tiếng nói Việt Nam, là những lời bình dị dùng để khẳng định chân lý hiển nhiên mà cao cả về quyền được hưởng tự do độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Kể cả khi phải chuyển dịch từ những văn bản tiếng nước ngoài, Người vẫn luôn cân nhắc, trau chuốt từng từ, từng chữ. Đinh Văn Đức trong bài viết “Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc lập” – Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt ” đã khẳng định, Hồ Chủ Tịch đã dịch từ “ GOD” thành hai chữ “Tạo hoá” cực hay và thâm thuý. Thay vì dịch “Chúa Trời” hay “Thượng Đế”, hai chữ “Tạo Hoá” vừa gần gũi tâm lý người Việt, vừa thể hiện chỗ đứng của người viết, vốn theo triết học của Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng. Điều đó thêm một lần giúp ta khẳng định, “Tuyên ngôn Độc lập” đã kế thừa và phát huy tinh thần của “Nam quốc sơn hà”, từ “thiên thư” sang “tạo hóa”, đều và càng thể hiện được tính khách quan về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, “Tuyên ngôn Độc lập” đã khép lại bằng lời khẳng định đanh thép về quyền được hưởng độc lập, lòng quyết tâm, ý chí sắt đá cũng như lời tuyên thệ, niềm tin tưởng tuyệt đối của cả dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ độc lập chủ quyền. Đồng thời, đó cũng là lời kêu gọi các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới đứng về phía chính nghĩa, đấu tranh cho chính nghĩa – dân tộc Việt Nam. 3. KẾT LUẬN “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa tinh hoa của các bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử, đồng thời đưa giá trị nội dung và nghệ thuật của tuyệt tác này lên tới đỉnh cao, hoàn mỹ về cấu trúc, tinh luyện về ngôn từ, sâu sắc về ý nghĩa và đặc biệt là một phong cách vừa truyền thống, vừa hiện đại, gần gũi với ngôn ngữ toàn dân, bình dị, dễ hiểu mà vẫn đầy sức thuyết phục với những lý lẽ sắc sảo và thực tế rõ rành. “Tuyên ngôn độc lập” của Người còn là sự tái hiện chân thực lịch sử và là lời kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới ủng hộ Việt Nam, ủng hộ cho chính nghĩa, cho quyền sống, quyền được hưởng tự do của nhân dân thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Đó cũng là quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. “Tuyên ngôn độc lập” cũng là một minh chứng về tài năng, về một mẫu mực sử dụng ngôn từ, khiến cho tiếng Việt từ đây xứng tầm là tiếng nói của một dân tộc đã chính thức gỡ bỏ xiềng xích, giành quyền tự do, độc lập và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Chính Ngôn ngữ được sử dụng trong “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 là bằng chứng hùng hồn, chứng minh cho tiếng Việt từ địa vị tiếng nói của một dân tộc nô lệ đã chính thức trở thành ngôn ngữ quốc gia của một Nhà nước của dân, do dân và vì dân – những người dân đã thực sự làm chủ đất nước, thực sự được hưởng Tự do và Độc lập đúng như Lời Tuyên ngôn Độc lập bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh./. Tài liệu tham khảo: 1. Trần Cư (2005), Bác Hồ viết tuyên ngôn độc lập, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 77KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 VĂN HÓA - VĂN HỌC v PRESIDENT HO CHI MINH’S INDEPENDENCE DECLARATION - A MODERN AND TRADITIONAL STANDARD STYLE OF WRITING PHAM NGOC HAM Abstract: President Ho Chi Minh is not only a symbol of morality but also a leader in maintaining the beauty of Vietnamese language. The Declaration of independence is written in both traditional and morden style and it absorbs the spirit of three previous declarations of independence in the course of Vietnamese history. The declaration does not only claim the sovereignty of Vietnam but also contribute as a valuable material in Vietnamese language. In this article, we analyze the declaration of independence of Vietnam in terms of linguistics and in relation to other three previous declarations of independence. Keywords: modern, language, style, The Declaration of independence of Vietnam, tradition. 2. Hoàng Tuệ (2000), Phân tích văn bản “Tuyên ngôn độc lập”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số Tháng 9. 3. Phùng Văn Thiết (2015), “Tuyên ngôn độc lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số Tháng 8. 4.Tim Hindle (2004), Nghệ thuật thuyết trình, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 5. < p0/c7/n20823/Tuyen-ngon-doc-lap-cua-Ho- Chi-Minh-tu-goc-do-tu-tu-hoc-va-nguyen-ly- doi-thoai.html>, truy cập ngày 25/2/2017. 6. < ngon-ngu-ban-tuyen-ngon-doc-lap-mot-hinh- anh-doc-lap-cua-tieng-viet.html>, truy cập ngày 25/2/2017.
File đính kèm:
- tuyen_ngon_doc_lap_cua_chu_tich_ho_chi_minh_mot_phong_cach_c.pdf