Tiểu văn hóa đô thị: Khái niệm và lý thuyết
Không có định nghĩa thống nhất về “tiểu văn hóa”. Tuy
nhiên, đa số học giả đều nhất trí tiểu văn hóa là những nhóm
người với những mối quan tâm chung và thực hành chung. Các
tiểu văn hóa có những mức độ khác nhau so với văn hóa chủ đạo.
Nghiên cứu về tiểu văn hóa đô thị tập trung vào 3 lối tiếp
cận/lý thuyết chính: lối tiếp cận sinh thái học của Trường phái
Chicago về những “khu vực tự nhiên/natural areas”; lý thuyết
thành phần/nhấn mạnh các yếu tố như giai cấp, nghề nghiệp, họ
tộc, dân tộc ; “Lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị” của Claude
Fischer nhấn mạnh môi trường đô thị thúc đẩy sự cố kết, sự sáng
tạo thể hiện ở các tiểu văn hóa nhờ khối lượng tới hạn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu văn hóa đô thị: Khái niệm và lý thuyết
36 Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 Tiểu văn hóa đô thị: Khái niệm và lý thuyết Urban subculture: Concept and theory Lâm Thị Ánh Quyên1* 1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: quyen.lta@ou.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS. soci.vi.15.1.594.2020 Ngày nhận: 26/04/2020 Ngày nhận lại: 18/05/2020 Duyệt đăng: 07/07/2020 Từ khóa: đô thị, tiểu văn hóa, tính đô thị Keywords: urban, subculture, urbanism Không có định nghĩa thống nhất về “tiểu văn hóa”. Tuy nhiên, đa số học giả đều nhất trí tiểu văn hóa là những nhóm người với những mối quan tâm chung và thực hành chung. Các tiểu văn hóa có những mức độ khác nhau so với văn hóa chủ đạo. Nghiên cứu về tiểu văn hóa đô thị tập trung vào 3 lối tiếp cận/lý thuyết chính: lối tiếp cận sinh thái học của Trường phái Chicago về những “khu vực tự nhiên/natural areas”; lý thuyết thành phần/nhấn mạnh các yếu tố như giai cấp, nghề nghiệp, họ tộc, dân tộc; “Lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị” của Claude Fischer nhấn mạnh môi trường đô thị thúc đẩy sự cố kết, sự sáng tạo thể hiện ở các tiểu văn hóa nhờ khối lượng tới hạn. ABSTRACT There is no unified definition of subculture. However, most scholars agree that subcultures are groups of people that have something in common with common interests and common practices. The subcultures have different levels compared to the mainstream culture. The study of urban subculture focuses on three main theories: the ecological approach of Chicago School about “natural area”; the Compositional Theory which emphasizes factors such as class, occupation, clan, ethnicity, etc; the Subcultural Theory of Urbanism by Claude Fischer with an emphasis on the urban environment that promotes cohesion and creativity in subcultures thanks to the critical mass. 1. Dẫn nhập Văn hóa là tổng hợp tri thức, giá trị, chuẩn mực và lối sống được con người tiếp thu qua học hỏi. Trong một nền văn hóa chủ đạo, có nhiều tiểu văn hóa tồn tại, ví dụ tiểu văn hóa nghề nghiệp, tiểu văn hóa tiêu dùng, tiểu văn hóa nghiện, tiểu văn hóa Internet hay tiểu văn hóa tội phạm công nghệ cao Đa số các tiểu văn hóa được hình thành ở đô thị, bởi vì đô thị với số Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 37 lượng người đông, mật độ dày đặc và cư dân khác biệt nhau về mặt xã hội (Wirth, 1938) là những điều kiện tạo nên sự đa dạng của xã hội đô thị, trong đó có sự đa dạng các tiểu văn hóa. Tác giả sẽ điểm lại các định nghĩa về tiểu văn hóa, lịch sử nghiên cứu các tiểu văn hóa dưới lối tiếp cận xã hội học và trình bày ba lối tiếp cận/lý thuyết giải thích hiện tượng đa dạng các tiểu văn hóa ở đô thị: lối tiếp cận sinh thái học của Trường phái Chicago; lý thuyết thành phần của Herbert Gans và tập trung vào lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị của Claude Fischer. 2. Tiểu văn hóa: Khái niệm và khái quát lịch sử nghiên cứu 2.1. Khái niệm Khái niệm “tiểu văn hóa/Subculture” bắt nguồn từ tiếng Latinh. Nói đến nghiên cứu tiểu văn hóa, đặc biệt ở đô thị, phải kể đến các nghiên cứu của các Nhà Nhân học văn hóa và Xã hội học tại Mỹ trong những năm 1920-1960 thuộc Trường phái Chicago. Milton Gordon (Trường phái Chicago), năm 1947, định nghĩa tiểu văn hóa/Sub-culture là sự phân chia/Sub-division trong văn hóa quốc gia. Khái niệm tiểu văn hóa cho phép chúng ta sử dụng khi cần đề cập đến những phân khúc dân cư bằng cách xác định những hệ thống tổ chức xã hội đóng hoặc tương đối gắn kết, dựa trên sự khác biệt cơ cấu (giai cấp, dân tộc, chủng tộc, liên kết tôn giáo) tạo nên chức năng hội nhập cho các cá nhân (Berzano & Genova, 2015). Arnold (as cited in Vascovics, 1989) đề cập 3 mô hình về tiểu văn hóa, trong đó mô hình thứ ba được ủng hộ nhiều nhất. Tiểu văn hóa có những giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu hành động mang tính phổ quát đối với tất cả các thành viên của một xã hội; một vài giá trị và chuẩn mực khác biệt nhưng vẫn được xem là phù hợp. Nhưng có những chuẩn mực và giá trị trong một xã hội chỉ có ý nghĩa đối với một số nhóm nhất định. Có những tiểu văn hóa có rất ít những thành tố của văn hóa chủ đạo; và có những tiểu văn hóa hầu như ít có sự khác biệt với văn hóa chủ đạo. Như vậy, giữa 2 cực này có rất nhiều biến thể tiểu văn hóa. Theo Bell (as cited in Vascovics, 1989) thanh niên có tiểu văn hóa của riêng mình, mang trong mình những thành tố quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và kinh tế của văn hóa chủ đạo, nhưng trong lĩnh vực thời gian nhàn rỗi lại có những biểu tượng văn hóa riêng (trang phục, âm nhạc, ngôn ngữ). Hartfiel và Hilmann (1982) cho rằng tiểu văn hóa là hệ thống các giá trị, chuẩn mực, biểu tượng và phương thức hành vi, được công nhận và chia sẻ (các thành viên có những đặc điểm tương đồng như giới tính, tuổi, nhóm nghề nghiệp hoặc tầng lớp xã hội). Hệ thống này nằm trong hệ thống của văn hóa chủ đạo, có một cuộc sống riêng và có thể có những vấn đề như hành vi lệch lạc, xung đột. Trong những xã hội đa dạng và nhiều khác biệt sẽ hình thành nhiều tiểu văn hóa hơn là những xã hội giản đơn. Tiểu văn hóa có những đặc điểm riêng để nhận dạng, đẩy mạnh sự đoàn kết của nhóm riêng, nhưng có nguy cơ hình thành xung đột giữa các nhóm. Phân tích tiểu văn hóa có ý nghĩa đặc biệt trong phạm vi thiểu số bị xã hội phân biệt đối xử và cô lập. Theo Hebdige (1979), tiểu văn hóa có thể nằm trong sự phát triển của văn hóa chủ đạo, có thể kháng cự lại văn hóa chủ đạo. 38 Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 Theo Haenfler (2014), tiểu văn hóa có những đặc điểm sau: (1) Mạng lưới khuếch tán (Diffuse Networks); (2) Chia sẻ những ý nghĩa khác biệt (Shared Distinct Meanings); (3) Bản sắc được chia sẻ (Shared Identity); (4) Kháng cự (Resistance); (5) Ngoài lề (Marginalization); (6) Phân tầng, các giá trị và các từ ngữ đặc biệt. Th ... ẫu nhiên, mà những nhóm lối sống đó - dân tộc thiểu số, nghệ sĩ - chọn để sống ở thành phố, và kết quả là, lối sống của họ mang đặc trưng thành phố. Liên quan đến lĩnh vực của niềm tin và hành vi, cư dân đô thị thường khác biệt đáng kể so với cư dân ở những nơi không phải là thành phố. So với cư dân nông thôn, họ thường cư xử theo kiểu tách rời khỏi quy tắc trung tâm và truyền thống của xã hội tổng thể. Một số hành vi mà người đô thị dễ được xã hội chấp nhận (e.g., đổi mới nghệ thuật). Fischer (1975, 1995) sử dụng thuật ngữ “độc đáo” để chỉ những dạng hành vi và niềm tin khác biệt này. Có mối quan hệ giữa cư dân đô thị và tính không theo qui ước/tính độc đáo, vốn xuất hiện trong nhiều nền văn hóa, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Lý thuyết tiểu văn hóa của Fischer ít liên quan đến bản sắc chính trị mà khá rộng, đề cập đến các nhóm - khác biệt cũng như lệch lạc, tội phạm, nghệ thuật, bohemians, các giáo phái tôn giáo mới, hippies, công nhân xây dựng Trong “Hướng đến lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị”/ “Toward a Subcultural Theory of Urbanism” (1975), Fischer đưa ra 7 mệnh đề (position). 1995, Fischer phát biểu lại trong 4 mệnh đề: 5 Fischer (1975, 1995) sử dụng khái niệm khối lượng tới hạn/critical mass (nghĩa là độ lớn và mật độ của cư dân đô thị cần phải đạt tới con số cần thiết để duy trì) nhằm nói đến điều kiện để hình thành tiểu văn hóa khi có đủ số lượng người với những mối quan tâm giống nhau nhưng khác lạ. Dân số của một tiểu văn hóa càng lớn, "sự hoàn thiện về thể chế" của nó càng lớn (Breton as cited in Fischer, 1975). Theo cơ chế thị trường, khi đạt đến kích thước nhất định sẽ cho phép hình thành một tiểu hệ thống xã hội và khuyến khích các thiết chế với cấu trúc, bao bọc, bảo vệ và nuôi dưỡng tiểu văn hóa. Những thiết chế này (e.g., phong cách ăn mặc, báo chí, hiệp hội) thiết lập các nguồn thẩm quyền và các điểm tập hợp và phân định ranh giới xã hội. Bên cạnh các con số, chúng còn khuyến khích và làm thành có thể những liên kết xã hội trong nhóm. Ví dụ các tiểu cộng đồng tội phạm, tiểu cộng đồng nghệ thuật, tiểu văn hóa sinh viên, nhóm những người “độc thân trẻ tuổi” (Fischer, 1975) 44 Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 Mệnh đề 1: Các địa điểm càng lớn càng phát triển nhiều tiểu văn hóa chuyên biệt hơn các địa điểm ít dân cư, và như vậy sẽ có nhiều sự không đồng nhất về văn hóa, bởi vì có 2 quá trình: (a) Các địa điểm lớn cuốn hút nhiều người nhập cư từ những vùng sâu - xa, họ mang theo văn hóa của họ; (b) Các địa điểm này có sự khác biệt thông qua chuyên môn hóa kinh tế, không gian, thiết chế và văn hóa. Mệnh đề 2: Các địa điểm càng có đông dân cư sẽ phát triển không chỉ các tiểu văn hóa khác biệt mà các tiểu văn hóa có cường độ mạnh hơn các địa điểm ít dân cư. Có 2 lý do: (a) Địa điểm càng lớn càng có xu hướng có những tiểu văn hóa lớn, kết quả là dễ dàng có các thiết chế, ngăn cản những ảnh hưởng từ bên ngoài và phát triển mạng lưới xã hội giữa các thành viên. Kích cỡ đặc biệt quan trọng để đạt được khối lượng tới hạn; (b) Bởi vì các thành phố tương đối khác biệt, cư dân sẽ chạm trán nhiều hơn với các thành viên của các tiểu văn hóa khác so với ở nông thôn. Những cuộc chạm trán như vậy thường dẫn đến căng thẳng và xung đột, kết quả là củng cố ranh giới nhóm. Mệnh đề 3: Trong cùng thời gian, các tiếp xúc giữa các nhóm dẫn đến tác động lẫn nhau. Khi các nhóm lớn hơn tác động đến nhóm nhỏ hơn (e.g., các giá trị gia đình Anglo truyền tải đến thanh niên nhập cư người Việt Nam), tính không theo qui ước/độc đáo giảm xuống. Khi các tiểu văn hóa nhỏ hơn tác động cái lớn hơn (e.g., các tư tưởng của bohemian lan truyền đến tầng lớp trung lưu), tính không theo qui ước/độc đáo sẽ tăng trưởng- cho đến khi cái khác thường tự nó trở thành chuẩn mực. Mệnh đề 4: Địa điểm càng đô thị, tỷ lệ không theo qui ước càng cao trong mối quan hệ với xã hội lớn, bởi vì: (a) Các địa điểm càng lớn càng khuyến khích nhiều tiểu văn hóa khác biệt và chuyên biệt; (b) Khối lượng tới hạn và tiếp xúc liên nhóm thường xuyên hơn ở những địa điểm lớn, nơi sản sinh ra các tiểu văn hóa cường độ mạnh, đặc biệt đối với những cư dân không điển hình (atypical); (c) Tiếp xúc liên nhóm càng rộng ở những địa điểm lớn sẽ khuếch tán các thành tố văn hóa của tiểu văn hóa không điển hình đến những tiểu văn hóa khác trong khu vực. Nói chung, tính đô thị có tương quan với tính không theo qui ước/độc đáo, một phần, bởi vì nó kích thích sự phát triển của các tiểu văn hóa. 3.3.2. Kiểm nghiệm lý thuyết Trong bài luận 20 năm sau để đánh giá lại lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị, Fischer chỉ ra sự mơ hồ trong các định nghĩa. Ví dụ, làm thế nào để một nhà nghiên cứu xác định một tiểu văn hóa hoặc thậm chí xác định khi nào một tiểu văn hóa xuất hiện? Làm thế nào một tiểu văn hóa phải đạt được khối lượng tới hạn?... Fischer đặt ra những vấn đề khó khăn để kiểm nghiệm lý thuyết tiểu văn hóa về tính đô thị về đối tượng nghiên cứu, cấp độ nghiên cứu, tiếp cận tiểu văn hóa và bối cảnh lịch sử và văn hóa (Fischer, 1995). 3.3.3. Kết luận của Fischer Tính đô thị và sự không đồng nhất tiểu văn hóa: Xét về mặt trung bình, các thành phố đa dạng hơn những địa điểm nhỏ. Càng đông dân, tỷ lệ dân tộc thiểu số và chủng tộc càng lớn. Các thành phố có xu hướng có sự khác biệt lớn về các nhóm nghề nghiệp, cấu trúc giai cấp Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 45 và một loạt các nhóm có mối quan tâm đặc biệt được tổ chức xung quanh các hoạt động như sở thích (Fischer, 1995). Tính đô thị và cường độ tiểu văn hóa/Subcultural Intensity: Cần chỉ ra được sự liên kết giữa tính đô thị với cấp độ mà các nhóm tập trung trong thành phố, nghĩa là cấp độ mà tính đô thị và sự không đồng nhất tương quan với nhau; cần quan tâm đến cường độ của các tiểu văn hóa, không phải cấp độ trung bình của sự tham gia của các cá nhân, mặt dù hai yếu tố này liên quan đến nhau (Fischer, 1995). Tiểu văn hóa dân tộc: Không giống như các tiểu văn hóa đô thị hình thành từ nghề nghiệp, lối sống, các tiểu văn hóa dân tộc thường hình thành từ cơ sở nông thôn. Nhân tố chìa khóa thúc đẩy đoàn kết dân tộc chính là sự tập trung nhóm, không phải tính đô thị. Môi trường đô thị vừa thúc đẩy vừa làm suy yếu văn hóa dân tộc, phụ thuộc vào các nhân tố chủ chốt (Fischer, 1995). Đối với các nhóm dân tộc nhỏ, kết hôn và đạo đức quan trọng hơn ngôn ngữ hoặc trang phục. Thành phố nuôi dưỡng các tiểu văn hóa mới - cạnh tranh với văn hóa dân tộc. Một vài thành tố văn hóa khuếch tán từ đa số đến thiểu số sẽ làm suy yếu văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu không khảo sát sự thiết chế hóa mà khảo sát sự cam kết của các cá nhân đối với nhóm dân tộc - cấp độ phân tích sai. Theo Fischer (1995), lý thuyết tiểu văn hóa bàn về các địa điểm, không phải về con người, nhưng phần lớn nghiên cứu thực nghiệm - của riêng Fischer cũng như của bất kỳ ai khác - là về các cá nhân, cách mọi người khác biệt nhau theo quy mô của địa điểm. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu thường đo lường các thuộc tính của các địa điểm được tổng hợp từ các thuộc tính của cư dân - e.g., đo lường sự độc đáo/không theo qui ước của địa phương bằng cách thu thập câu trả lời trung bình của cư dân đối với các câu hỏi khảo sát. Tuy nhiên, lý thuyết tiểu văn hóa, cốt lõi, là một lý thuyết sinh thái, không phải là lý thuyết về con người. Nghiên cứu về các nhóm dân tộc đưa ra những kết quả hỗn hợp và gây nhầm lẫn phụ thuộc vào cấp độ phân tích (địa điểm so với cá nhân) và chiều kích cụ thể của cường độ tiểu văn hóa (xã hội, tổ chức, ý thức hệ). Nói chung, tập trung dân số - tính đô thị - dường như duy trì các thiết chế dân tộc, nhưng không nhất thiết duy trì sự gắn bó dân tộc của các cá nhân. Dân tộc và tôn giáo, nền tảng truyền thống cho sự liên kết là những trường hợp khó đối với lý thuyết tiểu văn hóa. Điều này được thừa nhận trong việc xây dựng lý thuyết, bởi vì những sự liên kết như vậy bị thách thức ở các thành phố bởi sự xuất hiện của tiểu văn hóa cách tân. Tính đô thị và sự độc đáo: Ít có nghiên cứu hệ thống về lệch lạc phi tội phạm (noncriminal deviance) so với tội phạm. Dự đoán tốt nhất là các địa điểm đô thị thường là các địa điểm của sự độc đáo/không theo quy tắc. Theo Fischer (1995), lý thuyết của Louis Wirth “Tính đô thị như một lối sống”/ “Urbanism as a Way of Life” và lý thuyết của Claude Fischer “Hướng đến một lý thuyết Tiểu văn hóa về tính đô thị”/ “Toward a Subcultural Theory of Urbanism” được xếp hạng ngang nhau trong nhiều sách giáo khoa. Tính đô thị có thể thúc đẩy sự hình thành của nhiều tiểu văn hóa đa dạng và khác biệt trong cộng đồng. Liệu tính đô thị có thúc đẩy các tiểu văn hóa mạnh hơn hay không vẫn chưa có bằng chứng chắc chắn. Lý thuyết tiểu văn hóa của ông có lẽ là lý thuyết triển vọng về tính đô thị, nhưng vẫn chưa là lý thuyết về tính đô thị (vì thế ông gọi là “Hướng đến một lý thuyết Tiểu văn hóa về tính đô thị”). 46 Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 4. Kết luận Truyền thống nghiên cứu tiểu văn hóa thường tập trung vào giao tiếp mặt đối mặt trong cùng không gian địa lý. Tuy vậy, giao tiếp qua truyền thông/mediated communication đã hội nhập khá lâu vào nghiên cứu tiểu văn hóa. Cohen (2011) nghiên cứu sự quyết định của việc loan tin của báo chí đến sự hình thành bản sắc và các hoạt động của Mods và Rockers trong những năm 1960 ở Anh. Ngày nay, bên cạnh lối tiếp cận truyền thống, các nghiên cứu đã tập trung vào các tiểu văn hóa thông qua truyền thông và ảo/Mediated and virtual subcultures. Ví dụ nghiên cứu về Geek của McArthur (2009) và nghiên cứu của Blevins và Holt (2009) về tiểu văn hóa trực tuyến/online lệch chuẩn. Fischer (1995) đề nghị, đối với các nghiên cứu trong tương lai, để trả lời câu hỏi liệu lý thuyết này có hợp lý hơn các lý thuyết khác không, các nhà nghiên cứu phải cải tổ lý thuyết. Cần sử dụng các địa điểm làm đơn vị phân tích; trực tiếp đo lường các quá trình tiểu văn hóa, chẳng hạn như sự tập trung của nhóm, quyền tiếp cận, khối lượng tới hạn, sự liên kết giữa các nhóm và tự lựa chọn; kiểm tra một loạt các tiểu văn hóa (không chỉ các nhóm dân tộc) và một loạt các độc đáo (không chỉ tội phạm); và mở rộng các địa điểm nghiên cứu sang các quốc gia và thời đại khác. Mặc dù sự phát triển của công nghệ đã xóa bỏ khoảng cách không gian, nhưng Fischer khẳng định “những công nghệ này không phổ biến hay hiệu quả như chúng ta tưởng; bởi vì con người vẫn có nhu cầu gặp gỡ mặt đối mặt”. Hiểu các tiểu văn hóa ở đô thị sẽ kết nối với mối quan tâm ngày càng tăng về đời sống văn hóa và sáng tạo của các thành phố. Chúng ta tiếp tục nghiên cứu các tiểu văn hóa để khám phá tại sao các tiểu văn hóa hình thành, các hoạt động của tiểu văn hóa có thể nói gì về xã hội. Tài liệu tham khảo Berzano, L., & Genova, C. (2015). Lifestyle and subcultures. New York, NY: Routledge. Blevins, K. R., & Holt, T. J. (2009). Examining the virtual subculture of Johns. Journal of Contemporary Ethnography, 38(5), 619-648. doi:10.1177/0891241609342239 Cohen, S. (2011). Folk devils and moral panics: The creation of the Mods and Rockers. London, UK: Routledge. Fischer, C. (1975). Toward a subcultural theory of urbanism. American Journal of Sociology, 80(6), 1319-1341. doi:10.1086/225993 Fischer, C. (1995). The subcultural theory of urbanism: A twentieth-year assessment. American Journal of Sociology, 101(3), 543-577. doi:10.1086/230753 Gans, J. H. (1962). The urban villagers: Group and class in the life of Italian-Americans. New York, NY: Free Press. Gelder, K., & Thornton, S. (1997). The subculture reader. London, UK: Routledge. Haenfler, R. (2014). Subcultures: The basics. London, UK: Routledge. Lâm Thị Ánh Quyên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 36-47 47 Hartfiel, G., & Hillmann, K.-H. (1982). Subkultur [Subculture]. In G. Endruweit, G. Trommsdorff, & N. Burzan, Wörterbuch der soziologie [Dictionary of sociology]. Stuttgart, Germany: völlig überarbeitete Auflage. Hebdige, D. (1979). Subculture: The meaning of style. New York, NY: Routledge. Lin, J., & Mele, C. (2005). The urban sociology reader. New York, NY: Routledge. Lüdtke, H. (1989). Expressive ungleichheit [Expressive inequality]. Opladen, Germany: Leske+Budrich. McArthur, J. A. (2009). Digital subculture: A geek meaning of style. Journal of Communication Inquiry, 33(1), 58-70. doi:10.1177/0196859908325676 Park, R. E., Burgess, E. W., & McKenzie, R. D. (1925). The city. Chicago, US and London, UK: The University of Chicago Press. Schwendter, R. (1993). Theorie der subkultur [Theory of subculture]. Hamburg, Germany: Europäische Verlags Anstalt, Taschenbuch Nr. 210. Vascovics, L. A. (1989). Subkulturen-ein überholtes analytisches Konzept? [Sub-cultures - an outdated analytical concept?]. In M. Haller, N. Hoffmann, Hans-Joachim, W. Zapf, & Deutsche Gesellschaft für Soziologie (DGS) (Eds.), Kultur und gesellschaft: Verhandlungen des 24. Deutschen soziologentags, des 11. Österreichischen soziologentags und des 8. Kongresses der schweizerischen gesellschaft für soziologie in Zürich 1988 [Culture and society: Negotiations of the 24th German sociological conference, the 11th AustHrian sociological conference and the 8th congress of the Swiss society for sociology in Zurich in 1988]. Frankfurt am Main, Germany: Campus Verl. Wirth, L. (1928). The ghetho. Chicago, IL: The University of Chicago Press. Wirth, L. (1938). Urbanism as a way of life. The American Journal of Sociology, 44(1), 1-24. doi:10.1086/217913 Wuggenig, U. (2003). Subkultur [Subculture]. In H.-O. Hügel (Ed.), Handbuch populäre kultur: Begriffe, theorien und diskussionen [Popular culture handbook: terms, theories, and discussions]. Verlag, Germany: J.B. Metzle.
File đính kèm:
- tieu_van_hoa_do_thi_khai_niem_va_ly_thuyet.pdf