Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc
Học sinh tiểu học dân tộc thiểu số là một đối tượng giáo dục đặc biệt, mang những đặc điểm riêng
về học tập, tâm lý và giao tiếp. Để việc thực hiện giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống nói
riêng cho các em mang lại hiệu quả đòi hỏi những nhà nghiên cứu và giáo dục phải xuất phát từ
những cơ sở thực tiễn cơ bản. Bài viết này xin trình bày những nét cơ bản nhất về kĩ năng sống của
học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, với hy vọng nó sẽ phần nào chỉ ra được những nét cơ bản về
thực trạng làm cơ sở cho quá trình đề xuất và triển khai giáo dục kĩ năng sống cho đối tượng học
sinh này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 135 THỰC TRẠNG KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC Nguyễn Thị Thu Hằng* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Học sinh tiểu học dân tộc thiểu số là một đối tượng giáo dục đặc biệt, mang những đặc điểm riêng về học tập, tâm lý và giao tiếp. Để việc thực hiện giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống nói riêng cho các em mang lại hiệu quả đòi hỏi những nhà nghiên cứu và giáo dục phải xuất phát từ những cơ sở thực tiễn cơ bản. Bài viết này xin trình bày những nét cơ bản nhất về kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, với hy vọng nó sẽ phần nào chỉ ra được những nét cơ bản về thực trạng làm cơ sở cho quá trình đề xuất và triển khai giáo dục kĩ năng sống cho đối tượng học sinh này. Từ khóa: kĩ năng, kĩ năng sống, tiểu học, dân tộc thiểu số ĐẶT VẤN ĐỀ* Các dân tộc thiểu số (DTTS) ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam chủ yếu sinh sống ở những vùng núi cao, nơi có khí hậu khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn nên chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí còn rất thấp. Học sinh (HS) tiểu học ở vùng núi, ngoài việc đến trường thì các em còn phải phụ giúp gia đình để kiếm sống. Chính những yếu tố như: môi trường sinh sống, điều kiện kinh tế, phong tục tập quánđã và đang tạo ra những nguy cơ, thách thức đối với sự phát triển của các em nói chung và quá trình giáo dục kĩ năng sống (GDKNS) nói riêng. Vì vậy, việc trang bị và giáo dục cho các em những nhóm kĩ năng sống (KNS) đặc thù, phù hợp để các em có thể sống khoẻ mạnh là điều đặc biệt quan trọng và cần thiết. NỘI DUNG Để đánh giá thực trạng KNS của học sinh tiểu học DTTS chúng tôi đã thực hiện theo hai con đường: tham khảo, lấy ý kiến đánh giá của 589 giáo viên và cán bộ quản lý ở tiểu học đã và đang công tác tại 6 tỉnh: Yên Bái, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hoà Bình, nơi có nhiều học sinh tiểu học DTTS thông qua phiếu điều tra; quan sát và * Tel: 0912 869849, Email: hangsptn@yahoo.com phỏng vấn sâu trực tiếp học sinh tiểu học dân tộc thiểu số (HSTHDTTS). Chúng tôi phân chia KNS của HSTHDTTS gồm 3 nhóm KNS cơ bản với 24 kĩ năng thành phần và xây dựng tiêu chí đánh giá. Mỗi kĩ năng được đánh giá riêng theo 4 mức độ: Tốt, khá, trung bình, yếu. Các khách thể được yêu cầu đánh giá theo 4 mức điểm: Tốt- 4 điểm; Khá- 3 điểm; Trung bình- 2 điểm; Yếu- 1 điểm. Tiến hành tính điểm trung bình của từng kĩ năng thành phần và của mỗi nhóm kĩ năng. Sau đó phân chia mức độ KNS của HSTHDTTS thành 4 mức độ. Điểm chênh lệch của thang đo được tính như sau: Điểm chênh lệch của thang đo = (Điểm tối đa - điểm tối thiểu) : Số mức độ; Kết quả là: (4 - 1) : 4 = 0,75; Vậy điểm của 4 mức độ thang là: mức độ yếu (Từ 1 đến dưới 1,75); mức độ trung bình (từ 1,75 đến dưới 2,5); mức độ khá (Từ 2,5 đến dưới 3,25); mức độ tốt (Từ 3,25 đến 4). Kết quả khảo sát từng nhóm KNS được thể hiện như sau: Nhóm kĩ năng giao tiếp Để đánh giá kĩ năng giao tiếp của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, chúng tôi đã phân tích KN giao tiếp thành các KN thành phần và kết quả thực trạng KN giao tiếp của HSTHDTTS khu vực miền núi phía Bắc được thống kê và thể hiện trong bảng sau: Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 136 Bảng 1. Tổng hợp đánh giá nhóm KN giao tiếp STT Biểu hiện Điểm TB Thứ bậc 1 Chủ động xin trình bày, nêu vấn đề trong các hoạt động học tập. 1.6907 13 2 Trình bày vấn đề rõ ràng, không rụt rè. 1.9889 10 3 Nét mặt tự nhiên, mắt hướng về phía người nghe. 2.0796 8 4 Sử dụng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp để hỗ trợ cho việc trình bày được thuyết phục. 1.4630 15 5 Sẵn sàng hợp tác và làm việc nhóm khi GV yêu cầu. 2.0389 9 6 Nghiêm túc làm việc cùng nhóm. 2.1296 6 7 Chủ động đưa ra ý kiến đóng góp, thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm. 1.7259 12 8 Lắng nghe, tôn trọng ý kiến, hành động của các bạn khác trong nhóm. 2.7167 3 9 Tự điều chỉnh, chấp nhận thay đổi khi cần thiết 2.4796 4 10 Cởi mở, hòa nhập với bạn bè, thầy cô ở trường. 3.1556 1 11 Không trốn tránh, ngại ngùng khi gặp người lạ. 1.8667 11 12 Chủ động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ người quen. 3.0926 2 13 Chủ động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ người lạ. 1.5741 14 14 Biết kiềm chế cảm xúc, có thái độ và cách cư xử tích cực với người khác khi gặp mâu thuẫn. 2.0926 7 15 Biết cách thể hiện và đưa ra lời từ chối khi bị rủ rê, gạ gẫm làm những việc không thích. 2.4074 5 ĐTB 2,1668 TB Các số liệu trên cho thấy, các KN giao tiếp của HSTH DTTS chỉ ở mức độ trung bình (ĐTB = 2, 1668), mức độ thực hiện các KN thành phần được thể hiện không đồng đều. HS thực hiện khá tốt những KN giao tiếp với đối tượng giao tiếp quen thuộc, đặc biệt là thầy cô, bạn bè ở trường. Nhưng cũng có những kĩ năng được đánh giá ở mức độ yếu là: khả năng chủ động đưa ra ý kiến đóng góp, thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm; khả năng chủ động xin trình bày, nêu vấn đề trong các hoạt động học tập; khả năng chủ động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ người lạ và khả năng sử dụng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp để hỗ trợ cho việc trình bày được thuyết phục. Bên cạnh việc điều tra thực trạng thông qua bảng câu hỏi đối với giáo viên, chúng tôi quan sát và thực hiện giao tiếp trực tiếp với học sinh. Phần lớn những HSTHDTTS mà chúng tôi tiếp xúc lần đầu thường rất rụt rè và có thái độ ngại ngùng, muốn né tránh, nhưng sau 2, 3 lần tiếp xúc, làm quen và thể hiện những hành động hữu nghị (tặng quà, kể chuyện, cùng làm việc chung) thì thái độ của các em đã có những chuyển biến rõ rệt, các em có thái độ cởi mở, chủ động hơn khi giao tiếp, và khi trình bày vấn đề cũng thể hiện sự rõ ràng, thuyết phục hơn. Bên cạnh việc trò chuyện trực tiếp, chúng tôi còn tiến hành quan sát các hoạt động của học sinh trong giờ học, trong giờ ra chơi và trong các hoạt động sinh hoạt tại trường. Kết quả quan sát cho thấy: trong giờ học, học sinh thường rất trầm, không chú ý, tập trung vào bài giảng của cô giáo; sự chủ động, giơ tay xin phát biểu ý kiến rất ít và chỉ tập trung vào một số cá nhân nhất định, ngay cả khi làm việc nhóm, không khí giờ học cũng không sôi nổi, không có sự tranh luận, bàn bạc nhiều giữa các cá nhân học sinh. Trong giờ ra chơi và trong các hoạt động sinh hoạt chung ngoài giờ học, không khí giao tiếp khác hẳn với trong lớp, học sinh cởi mở, chủ động, sôi nổi và rất đoàn kết, sự tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn rất ít xảy ra và hầu như không có. Điều này thể hiện một kết quả khá tương đồng với ý kiến đánh giá của giáo viên về mức độ thực hiện các kĩ năng thành phần trong nhóm kĩ năng giao tiếp của của HSTHDTTS trong bảng câu hỏi. Như vậy, kết quả khảo sát ban đầu cho thấy: HSTHDTTS sống cởi mở, chủ động giao tiếp với người quen nhưng chưa chủ động, còn rụt rè trong giao tiếp với người lạ; bước đầu có ý thức làm việc nhóm khi GV yêu cầu nhưng còn bị động, chưa chủ động nêu ý kiến trong các hoạt động nhóm, tập thể nhưng biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác; khả năng thể hiện ngôn ngữ cơ thể không nhiều; khả năng giải quyết mâu thuẫn và nói lời từ chối còn ở mức độ thấp. Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 137 Nhóm kĩ năng tự nhận thức Kết quả đánh giá nhóm kĩ năng tự nhận thức của HSTHDTTS thông qua bảng câu hỏi được thể hiện trong bảng 2. Bảng 2. Tổng hợp đánh giá nhóm KN tự nhận thức STT Biểu hiện ĐiểmTB Thứ bậc 1 Tự nhận thức về vai trò quan trọng của bản thân đối với gia đình và xã hội. 2.0556 3 2 Hiểu rõ cơ thể mình, nhận biết được sự thay đổi của cơ thể về mặt thể chất và tinh thần, xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân 2.2778 2 3 Xác định và đánh giá những việc bản thân đã làm được. 2.3889 1 4 Xác định hướng phấn đấu, những hành động bản thân cần làm và sẽ làm trong tương lai. 1.7222 4 ĐTB 2,1111 TB Bảng 3. Tổng hợp đánh giá nhóm KN ra quyết định và GQVĐ STT Biểu hiện Điểm TB Thứ bậc 1 KN đối mặt với vấn đề một cách tích cực (kìm chế cảm xúc tiêu cực, tự tin, quyết tâm giải quyết vấn đề) 2.1111 2 2 KN tư duy, phân tích vấn đề để đưa ra các cách giải quyết 2.0741 4 3 KN chia sẻ, bày tỏ quan điểm để tìm kiếm sự giúp đỡ. 1.8889 5 4 KN tự tin, quyết tâm thực hiện theo cách giải quyết vấn đề đã chọn. 2.0926 3 5 KN đánh giá hiệu quả GQVĐ, chia sẻ, lắng nghe ý kiến của người khác. 2.1481 1 ĐTB 2,0630 TB Nhìn vào bảng 2, chúng ta có thể thấy rằng: nhóm kĩ năng tự nhận thức của HSTHDTTS được thể hiện ở mức độ trung bình với ĐTB là 2,1111. Trong đó, kĩ năng đặt mục tiêu để xác định được hướng phấn đấu cho bản thân được đánh giá ở mức độ thấp nhất. Kết quả phỏng vấn sâu trực tiếp trên 25 học sinh với các câu hỏi: ”Điểm mạnh của em là gì?” (6/25 HS chiếm 24% trả lời được nhưng chưa rõ ràng, 19/25 HS chỉ cười và không nói gì hoặc trả lời ”không biết”, chiếm 76%), ”Điểm yếu của em là gì?” (6/25 HS trả lời được nhưng câu trả lời còn đơn giản, chưa cụ thể, chiếm 24%, còn lại 76% không trả lời được); ”Em đến trường học để làm gì?” (7/25 HS trả lời là để lấy kiến thức, chiếm 28%, còn lại 72% HS trả lời đơn giản hoặc không trả lời được); ”Nếu được ước một điều gì đó, em sẽ ước điều gì?” (4/25 học sinh nói ra rõ ràng ước muốn của mình và giải thích lý do, chiếm 16%; 9/25 học sinh nói ra được mong ước của mình nhưng còn đơn giản và không có lý do rõ ràng, chiếm 36%; còn lại 12/25 học sinh chỉ cười và lắc đầu, chiếm 48%). Điều này cho thấy giữa ý kiến đánh giá của GV và kết quả quan sát, phỏng vấn sâu học sinh có sự tương đồng, nhìn chung nhóm kĩ năng tự nhận thức của HSTHDTTS được thể hiện ở mức độ trung bình. Ở mức độ này, HS đã nhận thức được mối quan hệ của bản thân trong gia đình và xã hội; bước đầu biết xác định vai trò và trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nhưng chưa xác định được vai trò của bản thân đối với xã hội; việc nhận biết và đánh giá được những thay đổi về mặt thể chất và tinh thần của bản thân còn chưa rõ ràng; chưa đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; chưa biết đặt ra mục tiêu phấn đấu cho bản thân. Nhóm kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề Kết quả khảo sát nhóm KN ra quyết định và giải quyết vấn đề thông qua bảng câu hỏi được thể hiện trên bảng 3. Kết quả thể hiện trong bảng 3 cho thấy, nhóm KN ra quyết định và GQVĐ của HSTHDTTS cũng chỉ ở mức độ trung bình. Kết quả quan sát và phỏng vấn sâu trên 25 học sinh thông qua tình huống cụ thể cũng cho thấy: có 5/25 học sinh (chiếm 20%) không phân tích và xác định được vấn đề cần giải quyết; 10/25 học sinh (chiếm 40 %) biết đưa ra 1 phương án Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 138 giải quyết vấn đề nhưng không biết phân tích vấn đề; 7/25 học sinh (chiếm 28%) biết đưa ra 1 phương án giải quyết vấn đề và biết phân tích nhưng chưa hoàn toàn chính xác; 3/25 học sinh (chiếm 12%) biết phân tích vấn đề tương đối rõ ràng và có thể đưa ra được ít nhất 2 cách giải quyết khác nhau cho vấn đề đó. Bên cạnh đó, phần lớn HS còn rụt rè, chưa tự tin khi nhận nhiệm vụ GQVĐ cũng như khi ra quyết định đưa ra phương án giải quyết vấn đề của mình trong các tình huống chúng tôi phỏng vấn (chỉ có 4/25 học sinh có thái độ tự tin, sẵn sàng nhận nhiệm vụ phỏng vấn, chiếm 16%; 3/25 học sinh thể hiện sự tự tin, dứt khoát khi đưa ra câu trả lời về quyết định GQVĐ mà bản thân đã lựa chọn, chiếm (12%). Nhìn chung, đối với kĩ năng ra quyết định và GQVĐ, HSTHDTTS bước đầu đã chấp nhận giải quyết vấn đề nhưng còn miễn cưỡng, bắt buộc; chưa tự tin vào bản thân khi đưa ra cách GQVĐ; HS có thể đưa ra được 1 phương án GQVĐ nhưng không biết phân tích lý do đưa ra phương án đó nếu không có sự trợ giúp của GV hoặc người khác. Khi xem xét mối tương quan giữa các nhóm KNS của HSTHDTTS, chúng tôi thu được kết quả như ở sơ đồ 1. Sơ đồ 1 cho thấy, các nhóm KNS của HSTHDTTS đều có mối tương quan thuận, khá chặt chẽ với nhau, với hệ số tương quan (r) dao động từ 0,5 đến 0,6, xác suất xảy ra ngẫu nhiên nằm trong khoảng chênh lệch có ý nghĩa (p < 0,01). Điều đó chứng tỏ, việc hình thành, phát triển, thực hiện thành thạo nhóm KN này sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự hình thành, phát triển, thực hiện thành thạo nhóm KN khác. Ngược lại, việc phát triển, thực hiện kém thành thạo nhóm KN này sẽ cản trở sự phát triển, thực hiện của nhóm KN khác. Như vậy, KNS của HSTHDTTS là tổ hợp các nhóm KN thành phần. Chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách chặt chẽ, toàn diện. Trình độ phát triển của nhóm KN này là cơ sở hình thành, là yếu tố ảnh hưởng đến các nhóm KN khác và ngược lại. Chính vì vậy việc thực hiện GDKNS cho HSTHDTTS cần được quan tâm và chú trọng đến tất cả các nhóm KN, không nên chỉ coi trọng việc rèn luyện những nhóm KN này mà bỏ qua hoặc coi nhẹ các nhóm KN khác. KẾT LUẬN KNS có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của mỗi cá nhân. Chính vì vậy, GDKNS hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cần thiết không chỉ đối với HSTHDTTS nói riêng mà còn đối với tất cả sự phát triển của mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. KNS của HSTHDTTS là tổng hòa, gắn bó tương quan chặt chẽ của các nhóm kĩ năng thành phần, sự hình thành, phát triển của nhóm kĩ năng này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhóm kĩ năng khác. Tuy nhiên, hiện nay, KNS của HSTHDTTS ở miền núi phía Bắc chỉ đạt được ở mức độ trung bình. Một số kĩ năng của học sinh được giáo viên đánh giá ở mức độ khá chủ yếu được thực hiện trong môi trường giao tiếp xã hội quen thuộc, xoay quanh mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, những người cùng thôn bản. Điểm trung bình của 3 nhóm kĩ năng được đánh giá có độ xấp xỉ tương đương nhau, trong đó KN ra quyết định và GQVĐ được đánh giá thấp hơn so với nhóm KN tự nhận thức và KN giao tiếp. Sơ đồ 1. Mối tương quan về mức độ thực hiện các KNS của HSTHDTTS KN giao tiếp KN ra quyết định và GQVĐ KN tự nhận thức r = 0.606** p < 0,01 r = 0.506** p < 0,01 r = 0.614** p < 0,01 Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 139 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Thanh Bình, 2010, Giáo trình chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống, Nxb Đại học sư Phạm Hà Nội [2]. Phạm Hồng Quang, 2009, Tổ chức dạy học cho học sinh dân tộc miền núi, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên. [3]. Nguyễn Ngọc Thanh, Những đặc điểm tâm lý xã hội của một số dân tộc ít người phía Bắc và công tác vận động quần chúng, Tạp chí Tâm lý học, 1/1996, Tr. 18- 24. [4]. UNESCO Hà Nội và Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, 2006, Tài liệu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. SUMMARY SITUATION OF ETHNIC MINORITY PRIMARY SCHOOL STUDENTS’ LIFE SKILLS IN NORTHERN MOUNTAINOUS AREA Nguyen Thi Thu Hang* College of Education – TNU Elementary school students of ethnic minorities are an special educational object with specific characteristics of learning, psychology and communication. To gain certain achievements in life skill education for these students, researchers and educators should consider some factual bases. This article presents the definition for the most basic life skills of elementary school students of ethnic minorities in aim to indicate some actual features as a basis for proposing and implementing life skills education for those students. Key words: skill, life skills, primary, map, mind maps Ngày nhận bài: 18/9/2012, ngày phản biện:01/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012 * Tel: 0912 869849, Email: hangsptn@yahoo.com
File đính kèm:
- thuc_trang_ki_nang_song_cua_hoc_sinh_tieu_hoc_dan_toc_thieu.pdf