Thực trạng điều kiện vệ sinh cơ sở và trang thiết bị dụng cụ chế biến của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội năm 2013
Nghiên cứu được tiến hành năm 2013, tại 596 cơ sở kinh
doanh dịch vụ ăn uống trên địa bàn Hà Nội sử dụng kỹ thuật
quan sát thông qua bảng kiểm. Các cơ sở nghiên cứu đã thực
hiện yêu cầu quy định về điều kiện vệ sinh cơ sở và trang
thiết bị, dụng cụ tương đối tốt. Trên 90% cơ sở có công trình
vệ sinh đạt yêu cầu. Trên 90% các cơ sở kinh doanh dịch vụ
ăn uống đạt yêu cầu về kết cấu khu chế biến và khu vực ăn
uống; điều kiện về tường, sàn nhà; khu vực chế biến thực
phẩm sống, chín riêng biệt; cống thoát nước không ứ đọng
và vệ sinh rác thải. Đa số các cơ sở nghiên cứu đã thực hiện
tốt các quy định về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ với tỷ lệ
đạt yêu cầu trên 79,5%
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng điều kiện vệ sinh cơ sở và trang thiết bị dụng cụ chế biến của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng điều kiện vệ sinh cơ sở và trang thiết bị dụng cụ chế biến của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội năm 2013
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 55 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE THỰC TRẠNG ĐIỀU KIỆN VỆ SINH CƠ SỞ VÀ TRANG THIẾT BỊ DỤNG CỤ CHẾ BIẾN CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ KINH DOANH DỊCH VỤ ĂN UỐNG TẠI HÀ NỘI NĂM 2013 Nguyễn Thị Thùy Dương1, Cao Thị Hoa2, Trần Văn Hưởng3, Nguyễn Hùng Long4 TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành năm 2013, tại 596 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống trên địa bàn Hà Nội sử dụng kỹ thuật quan sát thông qua bảng kiểm. Các cơ sở nghiên cứu đã thực hiện yêu cầu quy định về điều kiện vệ sinh cơ sở và trang thiết bị, dụng cụ tương đối tốt. Trên 90% cơ sở có công trình vệ sinh đạt yêu cầu. Trên 90% các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống đạt yêu cầu về kết cấu khu chế biến và khu vực ăn uống; điều kiện về tường, sàn nhà; khu vực chế biến thực phẩm sống, chín riêng biệt; cống thoát nước không ứ đọng và vệ sinh rác thải. Đa số các cơ sở nghiên cứu đã thực hiện tốt các quy định về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ với tỷ lệ đạt yêu cầu trên 79,5%. Từ khoá: Luật An toàn thực phẩm; Cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống; Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm. ABSTRACT SANITARY CONDITIONS AT SOME CATERING BUSINESS FACILITIES IN HA NOI, 2013 The study was conducted with total 596 restaurants located in Ha Noi during the year of 2013. The research used cross-sectional survey with prepared checklist. The result showed that the sanitary condition of several restaurant was relatively good. More than 90% restaurants has achieved the sanitation requirement; most of restaurants reached the requirement on structural condition such as dining areas, floors, walls, separated processing area, stagnant sewerage and waste sanitation. The 95% of investigated restaurants have bên achieved good hygiene regulations in restaurant utensils with 79,5% satisfactory rate. Keywords: Food Safety Law; restaurant; conditions for ensuring food safety. I. ĐẶT VẤN ĐỀ An toàn thực phẩm (ATTP) thu hút rất nhiều sự quan tâm của cộng đồng và người tiêu dùng. Lương thực, thực phẩm không an toàn ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Theo báo cáo kiểm tra của chi cục ATTP thành phố Hà Nội năm 2011, cơ sở đạt các tiêu chí về Vệ sinh ATTP là 998/1239 (tỷ lệ 80,5%), các mẫu xét nghiệm vi sinh vật, hóa chất có tỉ lệ đạt yêu cầu lần lượt là 94,3% và 91% [1]. Điều này phản ánh mặc dù có nhiều kết quả đáng khích lệ trong ATTP nhưng vẫn còn tiềm ẩn các nguy cơ gây mất ATTP. Một trong những nguyên nhân của mất ATTP là điều kiện vệ sinh cơ sở và vệ sinh trang thiết bị dụng cụ không đảm bảo quy định. Chỉ tiêu mật độ côn trùng là một yếu tố quan trọng nhằm đánh giá nhanh vệ sinh an toàn của các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Côn trùng trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống như ruồi, nhặng là những vật chủ trung gian mang mầm bệnh nguy hiểm. Tỷ lệ quan sát mật độ côn trùng trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Ba và cộng sự nghiên cứu tại các cơ sở kinh doanh thực phẩm tại 10 tỉnh thành. Tỷ lệ quan sát có nhiều ruồi là 12% ở khu vực nông thôn và 17,3% ở thành thị [2]. Trong nghiên cứu của Hoàng Cao Sạ: 12,2% cơ sở chế biến có nhiều ruồi và 16,7% tại các cơ sở kinh doanh thực phẩm chín [3]. Trong điều kiện đa số các cơ sở chế biến thực phẩm ở quy mô nhỏ (khoảng 70,0%) và kinh doanh dịch vụ ăn uống ở Hà Nội tương đối phổ biến, vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm của loại hình kinh doanh này có tính thời sự cao. Nghiên cứu thực trạng chấp hành điều kiện vệ sinh cơ sở, vệ sinh trang thiết bị dụng cụ chế biến là hết sức cần thiết để đề xuất các giải pháp can thiệp nhằm làm giảm nguy cơ ngộ độc thực phẩm. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Có 596 cơ sở tham gia 1. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội 2. Phòng Y tế quận Hai Bà Trưng, Hà Nội 3. Trường Đại học Thăng Long, Hà Nội 4. Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế Ngày nhận bài: 01/02/2017 Ngày phản biện: 10/02/2017 Ngày duyệt đăng: 15/02/2017 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn56 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC nghiên cứu đóng tại địa bàn quận Hai Bà Trưng, quận Hà Đông và huyện Gia Lâm. 2.2. Thiết kế nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6/2013 đến 12/2013 tại 596 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại quận Hai Bà Trưng, Hà Đông và huyện Gia Lâm. 2.4. Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin Bảng kiểm thu thập các thông tin chính về điều kiện bảo quản thực phẩm; bảo quản nguyên vật liệu thực phẩm. Bảng kiểm được xây dựng dựa vào Thông tư 15/2012/TT-BYT của Bộ Y tế quy định về điều kiện chung bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và Thông tư 30/2012/TT-BYT của Bộ Y tế quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố. 2.5. Xử lí và phân tích số liệu Số liệu được nhập hai lần trên phần mềm Epi Data 3.1. Sau đó được lọc sạch và phân tích trên phần mềm Stata 12. Sử dụng các thống kê mô tả (tần số, phần trăm). 2.6. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu được Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cho phép triển khai. Thông tin của các cơ sở được hoàn toàn giữ bí mật và sự tham gia là hoàn toàn tự nguyện. III. KẾT QUẢ 3.1. Điều kiện vệ sinh cơ sở Bảng 1. Điều kiện nhà vệ sinh của các cơ sở nghiên cứu Tình trạng nhà vệ sinh Đạt SL (n=596) TL (%) Đủ nước, sạch 591 99,1 Bảng chỉ dẫn “Rửa tay sau khi đi vệ sinh” 366 61,4 Khu rửa tay có xà phòng và khăn lau tay sạch 473 79,3 Chất tẩy rửa đủ nhãn mác theo quy định 567 95,1 Nhà vệ sinh cách biệt, cửa không quay ra khu chế biến 555 93,1 Ít nhất có một nhà vệ sinh cho 25 người sử dụng 531 89,0 Cơ sở có ít nhất một nhà vệ sinh đủ cho 25 người sử dụng là 531 (89%) cơ sở, 65 (10,9%) không có một nhà vệ sinh cho 25 người sử dụng, 591/596 (99,1%) cơ sở có nhà vệ sinh đủ nước, sạch; 366/596 (61,4%) cơ sở có bảng chỉ dẫn “Rửa tay sau khi đi vệ sinh”, 473/596 (79,3%) cơ sở tại khu ... ư nhiều thứ quá. Thôi thì hoàn thiện dần dần”. Một ý kiến của chủ cơ sở khác: “Cũng biết là nhà xuống cấp phải cải tạo lại nhiều chỗ nhưng nhà đi thuê bây giờ mình sửa tháng sau họ không cho thuê nữa thì mình lại mất công, nên cứ để thế để kinh doanh”. Có 5/50 người thảo luận đồng tình với ý kiến trên; 40/50 người còn lại cho rằng cần phải tìm cách cải tạo để đáp ứng theo quy định; có 5 người trong nhóm thảo luận không có ý kiến gì. SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 57 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Biểu đồ 1. Thực trạng vệ sinh rác thải của các cơ sở (n=596) Series1, Đủ dụng cụ thu gom rác, chất thải, 98.7 Series1, Dụng cụ chứa rác thải, chất thải kín, không dễ vỡ và sạch, 96.5 Series1, Thu dọn rác hàng ngày, 99.3 Series1, Đủ nước sạch để chế biến và vệ sinh trang thiết bị, 99 Series1, Đạt tất cả các tiêu chí , 95.5 Tỷ lệ (%) Trên 95% cơ sở có đủ dụng cụ thu gom rác thải, chất; sử dụng dụng cụ chứa rác, chất thải kín, không dễ vỡ và sạch; thu dọn rác hàng ngày; có đủ nước sạch để chế biến và vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ; đạt đủ các tiêu chí về vệ sinh rác thải. 3.2. Thực trạng điều kiện trang thiết bị, dụng cụ Bảng 3. Điều kiện về trang thiết bị, dụng cụ Điều kiện trang thiết bị, dụng cụ Đạt SL (n=596) TL (%) Trang thiết bị, dụng cụ bằng vật liệu an toàn 583 97,8 Dụng cụ chế biến sống, chín riêng biệt, có ký hiệu riêng 562 94,4 Trang thiết bị, dụng cụ chế biến, bảo quản thực phẩm đủ, sạch 583 97,8 Bát, đĩa, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ ăn uống sạch 584 98,1 Bàn sơ, chế biến thực phẩm cao từ 60cm trở lên 583 97,8 Giá, kệ bát đĩa lắp lưới chống côn trùng xâm nhập, sạch 515 86,4 Đủ cặp gắp chia đồ ăn chín 579 97,1 Dụng cụ ống đũa khô, sạch 591 99,1 Tủ bảo quản thực phẩm sạch 583 97,8 Không sử dụng hóa chất độc hại trong khu chế biến, bảo quản thực phẩm 592 99,3 Sử dụng các hóa chất tẩy rửa theo quy định 592 99,3 Đạt cả 11 tiêu chí 474 79,5 583/596 (97,8%) cơ sở sử dụng trang thiết bị, dụng cụ được chế tạo bằng vật liệu an toàn; 562/596 ( 94,4%) sử dụng dụng cụ chế biến sống, chín riêng biệt, còn 33 cơ sở sử dụng chung hoặc chưa có ký hiệu riêng dụng cụ chế biến sống và chín; 583/596 ( 97,8%) cơ sở có bàn sơ, chế biến cao trên 60cm. 515/596 (86,4%) có giá, kệ bát đĩa lắp lưới; 592/596 (99,3%) cơ sở không sử dụng hóa chất độc hại khu chế biến, bảo quản thực phẩm và sử dụng các hóa chất tẩy rửa theo quy định. Có 474/596 (79,5%) cơ sở đạt tất cả các tiêu chí về trang thiết bị, dụng cụ. Hộp 2. Thảo luận nhóm trọng tâm về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ Chủ một cơ sở cho biết: “Mở cửa hàng là em đã trang bị đầy đủ các thiết bị, dụng cụ chuyên dụng, nhưng có một số cái em chưa bíết như tủ đựng bát có lưới chống côn trùng, bàn sơ chế cao từ 60cm trở lên. Cái này thì em sẽ khắc phục sau”. Có một vài chủ cơ sở khác cho biết: “Được các anh chị phường hướng dẫn nên em đã thực hiện đầy đủ. Từ khi em đầu tư trang thiết bị mới, khách hàng ăn đông lên”. Một người dân có ý kiến: “Ở phường, tổ trưởng tổ dân phố đến từng nhà, từng khu dân cư nhắc nhở, phát tờ rơi cho mọi người cách sử dụng ATTP, chẳng hạn mua những đồ ăn tươi sống ở ngoài chợ là phải chọn như thế nào cho đảm bảo an toàn. Hơn nữa là nhìn chung các cơ sở ăn uống thì tôi thấy chắc là do các cán bộ đi tuyên truyền nhiều cho nên nhìn chung các cửa hàng bán đồ ăn chín đã có tủ để thức ăn rất đảm bảo vệ sinh, không dùng tay trực tiếp bốc thức ăn. Bản thân tôi đi mua ở trên địa bàn quận thì tôi thấy rất là yên tâm”. Có 50/50 người tham gia thảo luận đồng tình ý kiến cần đầu tư trang thiết bị, dụng cụ theo quy định và đảm bảo vệ sinh, phòng tránh ô nhiễm thực phẩm. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn58 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC IV. BÀN LUẬN Số cơ sở không có chứng nhận ATTP hoặc đã hết hạn chiếm tới 20,2% tổng số cơ sở tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu ở Bình Dương năm 2011, Kon Tum năm 2013, Nam Định năm 2013 - 2014, Ấn Độ năm 2013 [4-7]. Mặc dù có nhiều nỗ lực, song việc cấp giấy chứng nhận ATTP cho các cơ sở vẫn chưa được hoàn thiện vì còn nhiều lý do chủ quan và khách quan. Về lý do khách quan, do số lượng cơ sở kinh doanh, chế biến thực phẩm có sự tăng mạnh về số lượng, thậm chí không đăng ký kinh doanh. Về lý do chủ quan, còn rất nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống không đăng ký kinh doanh và nhiều cơ sở kinh doanh sau một thời gian không hiệu quả tự đóng cửa, không hoạt động. Trong nghiên cứu định tính, đa phần thành viên ban chỉ đạo quận, phường cho rằng việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP trong năm 2013 và 2014 còn gặp nhiều khó khăn. Khó khăn ở đây là do chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP, chỉ có hướng dẫn tạm thời của Sở Y tế Hà Nội và lệ phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP còn cao, tăng từ 250.000 đồng lên 1.150.000 đồng, do đó nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống không đi làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP. Tuy nhiên, với sự vào cuộc quyết liệt của ban chỉ đạo quận, phường nên công tác cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về ATTP của quận Hai Bà Trưng vẫn đạt kết quả cao. Đây là một tín hiệu tốt vì qua các nghiên cứu trước đã chỉ ra những cơ sở có giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP có xu hướng ít xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm cũng như ít mắc các vi phạm nghiêm trọng về ATTP hơn [8-9]. Việc xử lý rác thải là một khâu quan trọng trong vệ sinh cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Nhìn chung điều kiện quản lý rác thải đã được thực hiện tốt tại các cơ sở nghiên cứu. Chỉ số này đạt cao hơn so với nghiên cứu tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2011 và nghiên cứu tại Ấn Độ năm 2013 [10-11]. Còn 3,52% cơ sở có dụng cụ chứa rác tạm thời, rách, vỡ có thể gây ô nhiễm môi trường không khí, nước tại cơ sở. Tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Hoàng Thị Chuyển năm 2013 tại thành phố Hà Giang, tỷ lệ thùng rác đạt yêu cầu là 54,3%. Ô nhiễm rác thải là điều kiện thuận lợi để mầm bệnh sinh học và côn trùng phát triển làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm thực phẩm [12]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Hùng Long và của Trần Đáng tại các cơ sở chế biến thực phẩm ở một số tỉnh miền Bắc, hầu hết các mẫu rác xét nghiệm đều chứa Salmonella, E.Coli, Coliforms, Pseudomonas với lượng rất cao Việc thu dọn rác hàng ngày giúp loại trừ các nguy cơ tiềm ẩn về ô nhiễm từ rác thải, bảo đảm vệ sinh cho khu vực ăn uống. Kết quả khảo sát cho thấy, về cơ bản các cơ sở có kết cấu khu chế biến và khu ăn uống khá tốt. Qua đánh giá các tiêu chí này đều đạt trên 90%. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu tại thành phố Hà Giang năm 2013, Thái Bình năm 2012 và Đắc Lắc năm 2013. Các tiêu chí khác cũng có kết quả tốt, như điều kiện “Cống thoát không ứ đọng nước và rác thải” đạt 95,5% và “Khu vực chế biến thực phẩm sống, chín riêng biệt” đạt 93,8%. Tỷ lệ cống rãnh đạt yêu cầu trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Hoàng Thị Chuyển năm 2013 tại thành phố Hà Giang, tỷ lệ có hệ thống cống rãnh không đạt yêu cầu chiếm 54,3% [12]. Lý do cơ bản được các chủ/quản lý cơ sở nêu ra trong thảo luận định tính là do cơ sở hạ tầng của một số cơ sở kinh doanh còn hạn chế, diện tích còn nhỏ trong khi lượng khách hàng trong những giờ cao điểm lớn. Cũng có lý do là kinh doanh khó khăn, ít khách, giá thuê nhà tăng nên chưa có kinh phí để sửa chữa ngay lập tức. Có chủ cơ sở còn cho biết là thuê nhà khó khăn và thuê không ổn định nên biết là nhà xuống cấp phải cải tạo lại nhiều chỗ nhưng sợ tháng sau họ không cho thuê nữa nên cứ để thế kinh doanh. Do đó cũng là khó khăn ảnh hưởng đến việc chấp hành của các cơ sở về điều kiện khu vực chế biến, khu vực ăn uống. Do đó cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, tư vấn, hướng dẫn để chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống nâng cao kiến thức và bắt buộc phải thực hiện các quy định của pháp luật về ATTP. 4.1.2. Thực trạng vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm thực phẩm là do các điều kiện về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ. Qua quan sát khu vực chế biến thực phẩm, có 97,8% cơ sở sử dụng trang thiết bị, dụng cụ được chế tạo bằng vật liệu không độc, không thôi nhiễm các chất độc hại vào thực phẩm, không gây mùi lạ, dễ vệ sinh; có bàn sơ, chế biến thực phẩm cao từ 60cm trở lên. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu thực trạng ATTP ở Đà Nẵng, Tây Ninh năm 2013 và Hà Tĩnh, Hưng Yên năm 2014. Nghiên cứu cho thấy 94,4% cơ sở sử dụng dụng cụ chế biến thực phẩm sống, chín riêng biệt, có ký hiệu riêng. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu tại tỉnh Bến Tre, tỉnh Thái Bình năm 2011 và thành phố Hà Nội năm 2010. Nhưng thấp hơn nghiên cứu của Lê Lợi và cộng sự tại các bếp ăn tập thể của trường học tại tỉnh Nam Định năm học 2013 - 2014 là 98,3% [13]. Các tiêu chí khác như “Sử dụng các hóa chất tẩy rửa theo quy định” và “Không sử dụng hóa chất độc hại trong khu vực chế biến, bảo quản thực phẩm” cũng được thực hiện tốt, đều đạt 99,3%. Tuy nhiên, mới có 86,4% có giá, kệ để bát đĩa lắp lưới (hoặc kính) chống côn trùng xâm nhập, sạch. Đây chỉ là một trong 11 điều kiện vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến VSATTP vì ảnh hưởng đến việc nhiễm khuẩn trực tiếp vào thức ăn, thực phẩm. Tỷ lệ các cơ sở đạt đủ 11 tiêu chí về trang thiết bị, dụng cụ là 79,5%. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 59 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE cứu các bếp ăn tập thể tại các trường Mầm non quận Ba Đình, Hà Nội năm 2013 của Trần Quang Trung và các cộng sự [14]. Kết quả định tính cho thấy: Một số chủ hoặc người người quản lý cơ sở mặc dù đã có ý thức trang bị đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ cần thiết nhưng chưa biết một số quy định cụ thể để thực hiện. Có ý kiến cho rằng sau khi được cán bộ quận, phường, tổ dân phố hướng dẫn thì các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống đã thay đổi rất nhiều về điều kiện trang thiết bị, dụng cụ. Nhiều cơ sở sau khi đầu tư trang thiết bị mới thì khách hàng ăn đông lên. Người dân tham gia thảo luận nhóm trọng tâm đã ghi nhận: Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ATTP đã triển khai tới khu dân cư, tổ dân phố và tại hộ gia đình; nhìn chung các cửa hàng bán đồ ăn chín đã có tủ bảo quản thức ăn, không dùng tay trực tiếp bốc thức ăn. Nhờ đó, người dân cũng yên tâm và tin tưởng hơn vào chất lượng ATTP của các quán ăn trên địa bàn quận. Do vậy, trong công tác truyền thông, giáo dục về ATTP thì việc nâng cao nhận thức cũng như thực hành của chủ/quản lý cơ sở và nhân viên trực tiếp chế biến thực phẩm về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm là rất cần thiết, cần tăng cường hơn nữa việc đôn đốc, nhắc nhở nhân viên vệ sinh trang thiết bị dụng cụ hàng ngày để tránh sự xâm nhập của côn trùng. V. KẾT LUẬN Hầu hết các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội thực hiện yêu cầu quy định về điều kiện vệ sinh cơ sở tương đối tốt, Trên 90% cơ sở có nhà vệ sinh đủ nước, sạch; chất tẩy rửa đủ nhãn mác; cửa nhà vệ sinh không quay ra khu chế biến; đạt từng tiêu chí về kết cấu khu chế biến và khu ăn uống. 78% cơ sở hệ thống chiếu sáng có lưới bảo vệ. 95,5% cơ sở đạt đủ tiêu chí về vệ sinh rác thải. Trên 79,5% cơ sở nghiên cứu đã thực hiện được các quy định về vệ sinh trang thiết bị, dụng cụ. Tuy nhiên vẫn còn 20,2% cơ sở chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Hà Nội. Báo cáo công tác đảm bảo an toàn thực phẩm năm 2011 2. Nguyễn Văn Ba (2011), "Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở chế biến thực phẩm ở một số tỉnh/thành phố, năm 2009 - 2010", Tạp chí Y dược học Quân sự 2011. 3. Hoàng Cao Sạ (2011), Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm và hiệu quả của mô hình can thiệp đưa vào cộng đồng tại một số xã phường tỉnh Nam Định, Luận án Tiến sĩ Y tế Công cộng. 4. Đào Thị Ngọc Yến (2011), "Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm các cửa hàng ăn trên địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương năm 2011", Tạp chí Y học Thực hành. 5. Hoàng Chí Trung (2013), "Thực trạng an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể trường học, nhóm lớp trên địa bàn thành phố Kon Tum năm 2013", Tạp chí Y học Thực hành, 933+934, tr. 44-47. 6. Lê Lợi và cs (2014), "Thực trạng an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể trường học tỉnh Nam Định năm học 2013-2014", Tạp chí Y học Thực hành. 7. Chander Pal Thakur Rakesh Mehra, Chahat Narula, Swati Mahapatra, et al. (2013), "Food safety and hygiene practices among street food vendors in Delhi, India", International Journal of Current Research, 5(11), pp. 3531-3534. 8. CDC (2011), "Estimates of Foodborne Illness in the United State", from: 9. Hedberg C.W., Smith, S.J., et al. (2006), "Systematic environmental evaluation to identify food safety differences between outbreak and nonoutbreak restaurants", Journal of Food protection, 69(11), pp. 2697-2702. 10. Đào Thị Hà (2012), "Khảo sát kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm của người chế biến thực phẩm tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, năm 2011", Tạp chí Y học Thực hành, 842, tr. 317-320. 11. Chander Pal Thakur Rakesh Mehra, Chahat Narula, Swati Mahapatra, et al. (2013), "Food safety and hygiene practices among street food vendors in Delhi, India", International Journal of Current Research, 5(11), pp. 3531-3534. 12. Hoàng Thị Chuyển (2013), "Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm bếp ăn tập thể ở thành phố Hà Giang năm 2013", Tạp chí y học Thực hành,, 5(1), tr. 24-33. 13. Lê Lợi và cs (2014), "Thực trạng an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể trường học tỉnh Nam Định năm học 2013-2014", Tạp chí Y học thực hành. 14. Trần Quang Trung (2014), "Đánh giá việc thực hiện các quy định về an toàn thực phẩm và kiến thức, thực hành của người chế biến thực phẩm tại bếp ăn tập thể các trường mầm non quận Ba Đình, Hà Nội năm 2013", Tạp chí Y học Thực hành.
File đính kèm:
- thuc_trang_dieu_kien_ve_sinh_co_so_va_trang_thiet_bi_dung_cu.pdf