Tăng cường bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thông qua cải thiện nhận thức của chính người tiêu dùng thực phẩm
Bài viết phân tích làm rõ khái niệm người tiêu dùng thực phẩm cũng như làm
rõ thực trạng nhận thức của người tiêu dùng thực phẩm ở Việt Nam. Bài viết đồng thời đề
cập đến những hạn chế trong nhận thức của người tiêu dùng thực phẩm, từ đó kiến nghị một
số giải pháp tăng cường bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thông qua việc cải thiện chính
nhận thức của họ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tăng cường bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thông qua cải thiện nhận thức của chính người tiêu dùng thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng cường bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thông qua cải thiện nhận thức của chính người tiêu dùng thực phẩm
54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG THỰC PHẨM THÔNG QUA CẢI THIỆN NHẬN THỨC CỦA CHÍNH NGƯỜI TIÊU DÙNG THỰC PHẨM ENHANCING THE PROTECTION OF FOOD CONSUMERS BY IMPROVING THEIR OWN AWARENESS Trần Hữu Tráng* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/7/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 2/01/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/01/2020 Tóm tắt: Bài viết phân tích làm rõ khái niệm người tiêu dùng thực phẩm cũng như làm rõ thực trạng nhận thức của người tiêu dùng thực phẩm ở Việt Nam. Bài viết đồng thời đề cập đến những hạn chế trong nhận thức của người tiêu dùng thực phẩm, từ đó kiến nghị một số giải pháp tăng cường bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm thông qua việc cải thiện chính nhận thức của họ. Từ khóa: Bảo vệ, người tiêu dùng, thực phẩm, nhận thức, Việt Nam. Abstract: The article analyzes and clarifi es the concept of food consumers and clarifi es the real situation of food consumers’ awareness in Vietnam as well. It also addresses the limitations in food consumers’ perceptions, thereby suggesting some solutions to enhance the protection of food consumers through improving their own awareness. Keywords: Protection, consumers, food, awareness, Vietnam. *Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội 1. Khái niệm người tiêu dùng thực phẩm Người tiêu dùng thực phẩm chỉ được định nghĩa trong Luật An toàn thực phẩm của một số quốc gia. Một số quốc gia không định nghĩa “Người tiêu dùng thực phẩm” trong Luật An toàn thực phẩm nên khái niệm này phải dẫn chiếu từ định nghĩa “Người tiêu dùng” trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Khái niệm “Người tiêu dùng thực phẩm” ở các quốc gia khác nhau cũng có cách định nghĩa khác nhau. Quy định số 178/2002 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng Châu Âu ngày 28 tháng 1 năm 2002 (Bản cập nhật ngày 26/7/2019) định nghĩa: Người tiêu dùng cuối cùng là người cuối cùng tiêu thụ một loại thực phẩm mà không sử dụng thực phẩm đó như là một Tạp chí Khoa học - Viện Đại học Mở Hà Nội 63 (1/2020) 54-69 55Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion phần của bất kỳ hoạt động kinh doanh thực phẩm nào.† Theo quy định này thì người tiêu dùng thực phẩm được xác định bởi hai dấu hiệu đặc trưng: (1) Người tiêu dùng thực phẩm là các cá nhân, và (2) Người tiêu dùng thực phẩm là người trực tiếp tiêu thụ một loại thực phẩm nào đó. Như vậy, theo định nghĩa này, những người mua sản phẩm thực phẩm mà không trực tiếp sử dụng (ví dụ người mẹ mua sữa cho trẻ nhỏ, người giúp việc mua thức ăn cho gia chủ, ) thì không phải là người tiêu dùng thực phẩm. Đồng quan điểm này, Luật an toàn thực phẩm (Food safety law) của Cộng hòa Serbia quy định: Người tiêu dùng cuối cùng là người tiêu thụ thực phẩm mà không sử dụng nó trong bất kỳ hoạt động kinh doanh thực phẩm nào (sau đây gọi là người tiêu dùng).‡ Định nghĩa này cũng nêu rõ hai đặc điểm cơ bản của người tiêu dùng thực phẩm: Người tiêu dùng thực phẩm là cá nhân và người tiêu dùng thực phẩm là người cuối cùng tiêu thụ thực phẩm đó mà không sử dụng chúng cho bất kỳ hoạt động kinh doanh thực phẩm nào. † Regulation (EC) No 178/2002 of the European Parliament and of the Council of 28 January 2002 lay- ing down the general principles and requirements of food law, establishing the European Food Safety Authority and laying down procedures in matters of food safety. Nguồn: https://eur-lex.europa.eu/le- gal-content/EN/TXT/?uri=CELEX:02002R0178-20190726. Latest consolidated version: 26/07/2019 ‡ Article 4 Food safety law of Republic of Serbia. Nguồn: dokumenta/food.pdf. § Điều 3 Food Safety Regulations Fiji Islands 2009. Nguồn: https://www.health.gov.fj/wp-content/ uploads/2014/09/33_The-Food-Safety-Regulations-2009.pdf. ¶ Điểm f Điều 3 The Food safety and Standards Act India, 2006. Nguồn: https://indiacode.nic.in/ bitstream/123456789/7800/1/200634_food_safety_and_standards_act%2C_2006.pdf. ** Article 2 Federal comsumer protection law. Nguồn: https://www.profeco.gob.mx/juridico/pdf/l_ lfpc_06062006_ingles.pdf. Khác với hai quan điểm trên, Luật An toàn thực phẩm của Quần đảo Fi Ji lại định nghĩa: Người tiêu dùng thực phẩm là các cá nhân và gia đình đã mua thực phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân của họ.§ Định nghĩa này đã mở rộng phạm vi của người tiêu dùng thực phẩm. Theo đó, người tiêu dùng thực phẩm không chỉ bao gồm những người tiêu dùng thực phẩm cuối cùng (người trực tiếp tiêu thụ thực phẩm) mà còn bao gồm cả những người mua thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân hoặc gia đình của họ. Định nghĩa này khá tương đồng với định nghĩa trong Luật Tiêu chuẩn và An toàn thực phẩm năm 2006 của Ấn độ: Người tiêu dùng thực phẩm là những người và các gia đình đã mua thực phẩm đáp ứng nhu cầu cá nhân của họ.¶ Quan điểm của Luật bảo vệ người tiêu dùng của Mexico cũng mở rộng nội hàm của khái niệm người tiêu dùng, nhưng lại mở rộng theo hướng công nhận người tiêu dùng không chỉ là cá nhân mà cả tổ chức. Luật bảo vệ người tiêu dùng Mexico quy định: Người tiêu dùng là cá nhân, hoặc pháp nhân mua hoặc sử dụng hàng hóa, sản phẩm hoặc dịch vụ như người được thụ hưởng cuối cùng.** 56 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Các nhà lập pháp Hàn Quốc không chỉ công nhận pháp nhân là người tiêu dùng mà còn công nhận một số trường hợp đặc biệt mua hàng hóa không nhằm mục đích tiêu dùng cũng được coi là người tiêu dùng. Khoản 1 Điều 2 Luật khung về người tiêu dùng của Hàn Quốc quy định: Người tiêu dùng là những người sử dụng (bao gồm cả việc sử dụng) hàng hóa và dịch vụ (bao gồm cả các cơ sở) được cung cấp bởi các doanh nghiệp cho cuộc sống hàng ngày của họ như người tiêu dùng hoặc cho các hoạt động sản xuất của họ như người tiêu dùng, những người được quy định bằng các Nghị định của Tổng thống.†† Nghị định Presidential Decree No. 19958, Mar. 27, 2007 của Tổng thống Hàn Quốc triển kha ... ry and Conceptual Relationships Between Food Safety and International Trade, International Trade and Food Safety / AER-828, p..10, 11. sự tự giác của người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Trong chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hóa thực phẩm, chỉ có Nhà nước, với đầy đủ sức mạnh và nguồn lực của mình, mới có thể bảo đảm nguồn thực phẩm hàng hóa đưa ra thị trường an toàn cho người tiêu dùng. Chỉ có Nhà nước mới có thể bảo đảm quyền được sử dụng thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng thực phẩm. Đây cũng chính là thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với vấn đề an toàn thực phẩm. - Thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong bảo vệ quyền lợi của mình Sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của người tiêu dùng thực phẩm thể hiện trước hết ở việc gần như rất ít người tiêu dùng biết địa chỉ hay số điện thoại của một cơ quan, tổ chức nào có thể bảo vệ quyền lợi cho mình khi tham gia các quan hệ tiêu dùng thực phẩm. Khảo sát của chúng tôi cho thấy, có đến 354/385 (91,9%) người tiêu dùng thuộc 5 tỉnh, thành phố không biết bất kỳ địa chỉ hay số điện thoại của cơ quan, tổ chức nào có thể bảo vệ quyền lợi cho mình khi bị xâm phạm trong quan hệ tiêu dùng thực phẩm. Số liệu này trong nhóm sinh viên của Khoa Luật là 746/910 (82%) sinh viên. Chỉ có 8,1% số người tiêu dùng tại 5 tỉnh, thành và 18% sinh viên trả lời có biết địa chỉ hoặc số điện thoại của cơ quan hay tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, 66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tuy nhiên những người này lại không đưa ra được địa chỉ hay số điện thoại cụ thể nào, mặc dù trong phiếu khảo sát có yêu cầu. Điều này cho thấy phần lớn người tiêu dùng thực phẩm không có thông tin cụ thể, cần thiết về cơ quan, tổ chức có thể bảo vệ quyền lợi cho họ. Đây vừa cho thấy hạn chế trong công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, vừa thể hiện sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của người tiêu dùng thực phẩm trong bảo vệ quyền lợi của chính mình, bởi chỉ cần gõ từ khóa «Cách thức khiếu nại của người tiêu dùng» trong google là xuất hiện ngay địa chỉ website của Cục Quản lý cạnh tranh, trong đó có thông tin hướng dẫn cách thức khiếu nại và Danh bạ sở công thương và Danh bạ Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên toàn quốc với đầy đủ thông tin về số điện thoại và địa chỉ. Sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của người tiêu dùng còn thể hiện ở chỗ không dám đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm quyền lợi của mình. Như trên đã đề cập, có đến 79,4% số người tiêu dùng thực phẩm ở 5 tỉnh được khảo sát, khi bị xâm phạm quyền lợi (mua phải thực phẩm hỏng hoặc bị cân, đong, đo, đếm sai) đã lựa chọn hình thức im lặng, vứt bỏ thực phẩm hỏng và coi đó là rủi ro trong cuộc sống. Con số này ở nhóm sinh viên được khảo sát là 69,4%. Số liệu công bố tại Hội nghị tổng kết công tác bảo vệ người tiêu dùng khu vực miền Trung, cho thấy có đến 40% người tiêu dùng tại Việt Nam đã §§§§ Nghi Lộc, Khi thượng đế chọn cách im lặng, đăng ngày 26/3/2018 trên Thời báo Ngân hàng online. Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/khi-thuong-de-chon-cach-im-lang-74152.html. lựa chọn sự im lặng khi xảy ra các tranh chấp.§§§§ Chính sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của người tiêu dùng thực phẩm trong việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật đã vô tình làm cho những người vi phạm tiếp tục coi thường pháp luật. Những người có các hành vi vi phạm pháp luật không bị phát hiện, không bị xử lý, họ sẽ lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm với tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn, nghiêm trọng hơn. Sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của những người tiêu dùng thực phẩm khi đó vô tình tạo động lực cho các hành vi vi phạm tiếp tục gia tăng, biến nhiều người tiêu dùng thực phẩm khác trở thành nạn nhân của các hành vi vi phạm, làm cho thiệt hại không ngừng gia tăng, gây ra những hậu quả khôn lường cho người tiêu dùng thực phẩm và cho xã hội. - Chưa thành lập được các tổ chức phù hợp đủ mạnh để bảo vệ người tiêu dùng Đặc thù của quan hệ tiêu dùng thực phẩm là các thiệt hại gây ra cho người tiêu dùng về kinh tế là không đáng kể, nhưng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe lại rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, không phải người tiêu dùng nào cũng nhận thức rõ điều đó. Vì vậy, khi bị xâm phạm, người tiêu dùng thực phẩm thường có tâm lý bỏ qua vì cho rằng thiệt hại gây ra cho mình là không đáng kể. Trong khi người tiêu dùng thực phẩm lại có số lượng nhiều nhất trong các nhóm người tiêu dùng. Có thể nói, số lượng người tiêu dùng thực phẩm chiếm gần như chiếm số lượng tuyệt đối trong dân số. Vì vậy, ngay cả dưới góc độ kinh tế, thiệt hại mà hành vi vi phạm 67Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion quyền lợi đối với từng người tiêu dùng có thể không đáng kể, nhưng thiệt hại gây ra cho cho toàn bộ người tiêu dùng thực phẩm là rất lớn. Vì vậy, bên cạnh các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng nói chung, như Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam, người tiêu dùng thực phẩm cần phải có thêm các tổ chức tự nguyện của mình, để có thể bảo vệ tốt hơn các quyền lợi của họ. 4. Giải pháp tăng cường hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm Như trên đã nói, chính sự thiếu hiểu biết về quyền hạn về cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm và các thói quen, tâm lý coi thiệt hại là rủi ro trong cuộc sống, ngại mất thời gian, ngại va chạm, ngại tiếp xúc với các cơ quan bảo vệ pháp luật đã làm hạn chế rất nhiều vai trò của người tiêu dùng thực phẩm trong tự bảo vệ quyền lợi của mình. Vì vậy nâng cao hiểu biết của người tiêu dùng về các quyền của mình, hiểu biết về cơ chế bảo vệ quyền sẽ giúp người tiêu dùng thực phẩm tự tin, chủ động, tích cực trong bảo vệ quyền lợi của mình. Cần giáo dục cho người tiêu dùng thực phẩm hiểu rõ, việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật không những để bảo vệ quyền lợi của mình mà chính là đã góp phần làm cho các hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý, đem lại công bằng cho xã hội. Từ đó, góp phần triệt tiêu động lực của những người thực hiện các hành vi vi phạm, góp phần ngăn chặn nguy cơ trở thành nạn nhân của nhiều người tiêu dùng khác. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm xã hội của người tiêu dùng thực phẩm. Trước hết cần tăng cường truyền thông để bảo đảm 100% người tiêu dùng phải hiểu rõ các quyền cơ bản của mình, bao gồm quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản khi tiêu dùng thực phẩm;quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm để có được sự lựa chọn đúng đắn khi tham gia quan hệ tiêu dùng thực phẩm; quyền được lựa chọn thực phẩm theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyền được góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm để bảo đảm lợi ích tối đa cho mình; quyền được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật; quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại; quyền được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình và quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng thực phẩm. Đây là những quyền tối quan trọng không chỉ góp phần bảo vệ tốt nhất cho người tiêu dùng mà còn góp phần bảo đảm một môi trường kinh doanh lành mạnh. Cần khuyến khích người tiêu dùng sử dụng tốt nhất các cơ chế hiện có trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, nhất là thông qua các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam và Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp tỉnh, huyện; UBND các cấp; Sở Công thương; Phòng Công thương huyện, Cần tạo thói quen giúp người tiêu dùng thực phẩm thường xuyên sử dụng các quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, quyền được yêu cầu bồi thường để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi tham gia các quan hệ tiêu dùng thực phẩm. Cần khuyến khích người tiêu dùng thực phẩm thành lập được các tổ chức 68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion với các mô hình hoạt động phù hợp, có mạng lưới kết nối để tạo được sức mạnh nhằm ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm thông qua hình thức tẩy chay hàng thực phẩm kém chất lượng hoặc tẩy chay các cơ sở nuôi trồng, chế biến, kinh doanh vi phạm pháp luật. Quyền tẩy chay của người tiêu dùng được thừa nhận và bảo hộ thông qua quyền được tự do lựa chọn loại thực phẩm phù hợp nhất cho sức khỏe của mình. Lịch sử đã có những cuộc tẩy chay của người tiêu dùng đối với hàng hóa thực phẩm không bảo đảm chất lượng hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm, như “chiến dịch” tẩy chay bột ngọt Vedan do Công ty Vedan trong quá trình sản xuất đã không tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm trầm trọng sông Thị Vải, triệt nguồn sinh kế của hàng nghìn hộ nông dân diễn ra năm 2010. Tháng 5 năm 2013, người tiêu dùng lại phát động chiến dịch tẩy chay Coca-Cola với nghi án chuyển giá, trốn thuế. Rõ ràng tẩy chay hàng hóa thực phẩm là một vũ khí lợi hại của người tiêu dùng thực phẩm bởi sự đông đảo và vai trò to lớn của người tiêu dùng đối với thị trường hàng thực phẩm. Tuy nhiên, để sử dụng được vũ khí này một cách hiệu quả, cần phải có cơ chế điều hành thật hiệu quả. Một trong những khó khăn, vướng mắc lớn nhất trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực phẩm khi quyền lợi bị vi phạm là vấn đề chứng minh hành vi vi phạm, trong đó có việc giữ lại minh chứng về giao dịch. Hầu hết người tiêu dùng thực phẩm khi mua thực phẩm thường ít khi giữ lại các minh chứng về giao dịch, nhất là hóa đơn mua hàng. Khảo sát mối quan tâm của người tiêu dùng khi mua thực phẩm cho thấy, chỉ có 39,9 người tiêu dùng thực phẩm ở 5 tỉnh thành phố và 25,3% số sinh viên được khảo sát quan tâm đến việc giữ lại hóa đơn mua thực phẩm. Điều này cho thấy ý thức của người tiêu dùng thực phẩm trong việc tự bảo vệ mình là chưa cao. Vì vậy, ngoài việc sử dụng vũ khí tẩy chay hàng hóa, người tiêu dùng thực phẩm cũng cần phải tích cực, chủ động hơn nữa trong bảo vệ quyền lợi của mình, từ đó mới góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng thực phẩm. Thay đổi nhận thức của người tiêu dùng thực phầm là một quá trình không dễ, xuất phát từ những tâm lý như ngại mất thời gian, ngại va chạm, ngại tiếp xúc với các cơ quan nhà nước, tâm lý coi thiệt hại là những rủi ro trong cuộc sống, tâm lý cam chịu, mà người tiêu dùng thực phẩm thường xuyên bỏ qua các vi phạm của người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Chính điều này lại là động lực kích thích làm cho các hành vi vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ngày càng trở nên lớn hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Đã đến lúc toàn xã hội phải vào cuộc tạo nên những đổi mới căn bản trong ý thức, tư tưởng của người tiêu dùng thực phẩm. Có như vậy, người tiêu dùng thực phẩm mới ngày càng được bảo vệ một cách tốt hơn. Tài liệu tham khảo: [1]. Cục quản lý Cạnh tranh, Bộ Công thương, Báo cáo kết quả khảo sát người tiêu dùng năm 2016. [2]. Elizabeth C. Redmond and Christopher J. Griffi th, Home Food Safety and Consumer Responsibility, MEDICAL SCIENCES - Vol.II 69Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion [3]. Federal comsumer protection law. Nguồn: https://www.profeco.gob.mx/juridico/pdf/l_ lfpc_06062006_ingles.pdf. [4]. Food and Agriculture Organization of the United Nations, Food safety, everyone’s business, A Guide to World Food Safety Day 2019, s.2. Nguồn: ca4449en/ca4449en.pdf. [5]. Food safety law of Republic of Serbia. Nguồn: download/dokumenta/food.pdf. [6]. Food Safety Regulations Fiji Islands 2009. Nguồn: https://www.health.gov.fj/ wp-content/uploads/2014/09/33_The-Food- Safety-Regulations-2009.pdf. [7]. Framework Act on Consumers South Korea. Nguồn: laws/Framework_Act_on_Consumers.pdf. [8]. Lê Hồng Hạnh, Trần Thị Quang Hồng, Có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng? Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (181) tháng 10/2010, tr.24-28. [9]. Lorraine Mitchell, Economic Theory and Conceptual Relationships Between Food Safety and International Trade, International Trade and Food Safety / AER-828. [10]. Nghi Lộc, Khi thượng đế chọn cách im lặng, đăng ngày 26/3/2018 trên Thời báo Ngân hàng online. Nguồn: https:// thoibaonganhang.vn/khi-thuong-de-chon- cach-im-lang-74152.html. [11]. Nguyễn Thanh Lý, Bàn về khái niệm người tiêu dùng và cơ sở phát sinh quyền được bảo vệ của người tiêu dùng. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2019 tr. 70-79. [12]. Nguyễn Thị Thư, Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật, Bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm 2014. [13]. Presidential Decree No. 19958, Mar. 27, 2007 của Tổng thống Hàn Quốc triển khai thực hiện Luật khung về người tiêu dùng (được sửa đổi nhiều lần mà lần sửa đổi gần nhất là Nghị định Presidential Decree No. 28211, Jul. 26, 2017). [14]. Regulation (EC) No 178/2002 of the European Parliament and of the Council of 28 January 2002 laying down the general principles and requirements of food law, establishing the European Food Safety Authority and laying down procedures in matters of food safety. Nguồn: https://eur-lex. europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CE LEX:02002R0178-20190726. Latest consolidated version: 26/07/2019 [15]. The Food safety and Standards Act India, 2006. Nguồn: https://indiacode.nic.in/ bitstream/123456789/7800/1/200634_food_ safety_and_standards_act%2C_2006.pdf. [16]. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb. Công an nhân dân, năm 2012. Địa chỉ: Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội Email: huutrangstran@gmail.com
File đính kèm:
- tang_cuong_bao_ve_nguoi_tieu_dung_thuc_pham_thong_qua_cai_th.pdf