Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên môn Lịch sử cấp THCS
NỘI DUNG
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VÀ SỬ DỤNG DI SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN
1. Nhận dạng di sản
a. Khái niệm về di sản
Di sản văn hóa Việt nam bao gồm di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
(bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được truyền từ đời này sang đời khác.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên môn Lịch sử cấp THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên môn Lịch sử cấp THCS
1 ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày 16/1/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL về việc Hướng dẫn sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên. Văn bản nêu rõ: Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX được triển khai thực hiện hàng năm ở tất cả các cấp học giáo dục phổ thông và GDTX; đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả giữa các cơ sở giáo dục phổ thông, GDTX và các cơ quan liên quan thuộc ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên địa bàn. Cán bộ quản lý, giáo viên trường phổ thông, trung tâm GDTX chủ động lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với điều kiện của nhà trường, địa phương để nâng cao hiệu quả sử dụng di sản văn hóa trong dạy học. Di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX được quy định gồm: Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Phương thức tổ chức dạy học các nội dung di sản văn hóa trong trường phổ thông, trung tâm GDTX bao gồm: Lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa vào các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông (nội khóa hoặc ngoại khóa); Xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có chủ đề liên quan đến di sản có tính chất điển hình và hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, khai thác các nội dung khác của di sản văn hóa thông qua tư liệu, hiện vật. Tổ chức chăm sóc di tích, các hoạt động giáo dục tại di tích; Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp: Dạy học trên lớp hoặc tổ chức các hoạt động ngoại khóa tại nhà trường, dạy học tại nơi có di sản văn hóa, tổ chức 2 tham quan - trải nghiệm di sản văn hóa; dạy học thông qua các phương tiện truyền thông, đa phương tiện;. lựa chọn những phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu, khai thác các giá trị của di sản văn hóa. Tài liệu này sẽ góp phần hiện thực hóa văn bản này của 2 Bộ, tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình sau khi đã được tiếp thu trong các đợt tập huấn mà Sở tổ chức trước đó. 3 NỘI DUNG CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VÀ SỬ DỤNG DI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN 1. Nhận dạng di sản a. Khái niệm về di sản Di sản văn hóa Việt nam bao gồm di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được truyền từ đời này sang đời khác. b. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam - Di sản văn hóa Việt Nam là sự kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc anh em, trải qua 1 quá trình lịch sử lâu đời, kế thừa và tái tạo qua nhiều thế hệ. - Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa văn minh nhân loại. - Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy. c. Phân loại di sản - Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể: Là sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di sản văn hóa phi vật thể: là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng cá nhân, vật thể và không gian có liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc cộng đồng và truyền từ thế hệ này sang thế hệ sang thế hệ khác. Di sản văn hóa vật thể bao gồm: - Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, và các giá di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. 4 - Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học. - Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. - Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên. - Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: - Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam. - Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, câu đố, truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép chữ viết. - Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác. - Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác. - Lễ hội truyền thống - Nghề thủ công truyền thống. - Tri thức dân gian. 2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng. - Góp phần đẩy mạnh hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh. - Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức. 5 - Kích thích hứng thú học tập của học sinh. - Phát triển trí tuệ của ... mái và có hiên lồi bao quanh. Sau một thế kỷ tồn tại (lấy mốc dựng lại đình đầu thế kỷ XIX) tới đầu thế kỷ XX, đình bị xuống cấp hoàn toàn, không còn giá trị sử dụng. Đến năm 1914, người có công lớn trong việc xây dựng lại ngôi đình là Quan cố Tham tri Đinh Xuân Trạc, làm Quan Án sát ở Thanh Hóa. Ông trực tiếp gửi thư về đề nghị với làng cho bán số ruộng dư nằm ngoài rìa làng mà lâu nay các phú gia tự tiện thuê nhân công với giá rẻ mạt để cấy trồng nhằm thu lợi bất chính. Số tiền bán đất được dùng để tôn tạo miếu mạo, đình chùa và dựng trường học cho dân làng. Nhờ thế đình làng Thọ Linh mới được khởi tạo lại, vì kinh phí eo hẹp nên lúc đó chỉ dựng lại được đình hậu theo kiểu mái vòm cổ điển. Quan cố Tham tri Đinh Xuân Trạc về nghỉ hưu tại quê nhà khi tuổi đã già, vẫn tiếp tục đôn đốc dân làng góp công tích của để xây nốt đình tiền. Đình làng Thọ Linh là địa điểm mà cụ Lãnh binh Mai Lượng, người con ưu tú của đất Quảng Sơn phò vua Hàm Nghi trong phong trào Cần Vương (1885-1896) để kháng Pháp và tay sai. Ông đã tụ họp dân làng và nghĩa quân để truyền đạt chiếu Cần Vương nhằm quyên góp lương thực, tiền bạc, vũ khí ủng hộ các nghĩa sĩ Cần Vương. Không lâu sau, thực dân Pháp cho quân lùng quét xóm Đình hòng lấy đình làng làm đồn bốt 37 để ngăn chặn các con đường giao thông huyết mạch từ Ba Đồn lên Cao Mại, Tuyên Hóa, vào Bố Trạch, ra Hà Tĩnh và đi các tỉnh từ Bắc chí Nam. Đình làng Thọ Linh sau đó được lệnh phá theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đình Thọ Linh tiếp tục đồng hành cùng công cuộc thống nhất dân tộc. Đình được dùng làm kho dự trữ quốc gia chứa quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm nuôi quân; là nơi dừng chân của nhiều cán bộ chiến sĩ quân đội hành quân ngày đêm vào Nam chiến đấu. Hòa bình lập lại, để phục vụ đời sống tín ngưỡng và nhu cầu thưởng thức văn hóa của người dân, chính quyền xã Quảng Sơn được nhân dân đồng sức, đồng lòng đã tôn tạo lại nguyên mẫu ngôi đình làng. Chi tiết đặc biệt có ở đình làng Thọ Linh là dân làng thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong đình, với ý niệm hướng thiện. Với bề dày truyền thống xuyên suốt tiến trình lịch sử, đình làng Thọ Linh đã được UBND tỉnh Quảng Bình xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 1573/QĐ-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2014. 15. Di tích lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh Lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng trên ngọn đồi rộng của núi An Mã, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy, cách trung tâm huyện lị 25km về phía Nam. Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh tại Thác Ro, Lệ Thủy, Quảng Bình Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là bậc công thần tướng quốc đời chúa Nguyễn Phúc Chu (Hiến Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691-1725 ). Ông sinh quán Quảng Bình, nhưng quê gốc từ Tiền tổ ở Gia Viễn Ninh Bình. Ông nội của Lễ Thành 38 Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là quan tham chiến Triều Văn Hầu Nguyễn Triều Văn, vì bất mãn với chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, nên theo phò chúa Nguyễn vào Đàng trong. Bước dừng chân đầu tiên của dòng Nguyễn Hữu vào năm 1609 do Triều Văn Hầu định hướng là đất Quảng Bình. Khi ấy người con trai thứ năm của Triều Văn Hầu là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật mới được 6 tuổi. Ông Dật sau này là cha của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Đến lượt Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được sinh vào năm 1650 tại Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Sinh ra trong gia đình võ tướng, am tường quốc sự, lại chứng kiến bao cảnh truân chuyên của xã hội thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, ông đã sớm dấn thân vào cuộc chiến. Nguyễn Hữu Cảnh đã cầm quân “Thống binh” xông pha trận mạc khi tuổi đời chưa quá 22 để phò chúa an dân, giữ yên bờ cõi. Với tài thao lược, trí tuệ thông minh và bản lĩnh hơn người, ông đã lập nhiều chiến công hiển hách, được chúa Nguyễn Phúc Chu tin cẩn trọng dụng ban tước Lễ Thành Hầu và cử giữ chức Cai Cơ. Năm 1692, trước việc vua Chăm Pa là Kế Bà Tranh từ bỏ bang giao với chúa Nguyễn, có ý muốn giành đất ở phủ Diên Ninh (Diên Khánh), chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân đi bình định biên cương. Xuân 1693, bờ cõi được dẹp yên, các phần đất của Chăm pa sát nhập vào Đàng Trong. Nguyễn Hữu Cảnh y lệnh chúa lập ra Thuận Thành trấn, tháng 8 năm ấy đổi thành phủ Bình Thuận. Tháng 7/1693, Nguyễn Hữu Cảnh trở về Phú Xuân xin chúa Nguyễn Phúc Chu chiêu mộ dân nghèo khắp xứ Thuận - Quảng đưa vào nam khẩn đất. Tháng 2 năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất kinh lược xứ Đồng Nai (gồm cả Sài Côn Bến Nghé). Thuở ấy Ông cho đóng đại bản doanh tại Cù Lao Phố còn gọi là Đông Phố (Đồng Nai). Ngoài mỏm đất này ra chung quanh toàn là rừng núi âm u: phần đất đai hoang hóa đầy hiểm trở, sông rạch thì chằng chịt, gai góc ngút ngàn, đầy rẫy hang ổ của các loài mãnh thú, ác ngư... "...Đồng Nai địa thế hãi hùng Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um...’’ Phần nhân chủng tuy gồm các sắc tộc: Khơme, Chăm, Việt, Hoa... nhưng lại quá ít ỏi vắng vẻ, đời sống sinh hoạt còn quá thô sơ nghèo nàn. Với ý chí quả cảm 39 và lòng yêu nước thương dân, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kiên quyết vượt gian nguy, vạch ra kế sách cấp thiết cùng quân dân gấp rút liên tiếp thi hành: - Khai hoang mở cõi - Dàn xếp biên cương - Bảo vệ chủng dân và vùng đất mới - Thiết lập cơ sở hành chính thôn xã có quy củ - Lập phủ Gia Định và chính thức cho sát nhập vào bản đồ Đại Việt - Đề xuất công trình chiêu mộ lưu dân và khuyến nông Tận tâm tận lực trong vòng chưa đầy một năm, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thành công rực rỡ trước mọi phương án do ông đề ra. Riêng công trình di dân đã được đa số dân chúng miền Phú Xuân - ngũ Quảng hưởng ứng, nhất là nhân dân vùng Bố Chánh (Quảng Bình) đã sốt sắng đáp lời kêu gọi của bậc lãnh tướng đồng hương mà họ hằng kính yêu, nên đã hăng hái rủ nhau vào Đồng Nai lập nghiệp rất đông - Điển hình bằng cả những câu ca dao thời ấy: "Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng" Chốn rừng rậm đầm lầy quanh vùng Đồng Nai Bến Nghé đã nhanh chóng trở thành phủ Gia Định rộng lớn, đầy sinh khí..., mà Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã là vị Thống suất kinh lược có công đầu trong lớp người khai sơn ra phủ Gia Định, là ân nhân mở đường đưa dân chúng đến cuộc sống hạnh phúc ấm no tại vùng đất mới này: "Nghĩa nhân chủng hằng tâm đắp xây Đại Việt, Ơn biển trời lao khó gầy dựng Đồng Nai" Không những ông là vị tướng khai biên xuất, nhà chính trị tài giỏi mà còn là người giàu đức tính, đầy lòng nhân hậu, và có một tâm hồn thuần phác “Uống nước nhớ nguồn", với lòng yêu, quê hương Tổ Quốc thiết tha. Đặc biệt, Ông đặt nặng tình lưu luyến chân thành với sinh quán Quảng Bình của ông. Như ta thấy, Ông đã chắt chiu đem từng tên của hai huyện Phước Long, Tân Bình ở tận Quảng 40 Bình vào đặt tên cho vùng đất mới khai hóa này, mà đến nay phần lớn vẫn còn. Trước hết là hai huyện Phước Long (vùng Đồng Nai) và Tân Bình (vùng Sài Côn - Bến Nghé). Rồi còn biết bao thôn xã khóm ấp được mang tên Bình hoặc Tân như: Bình Dương, Bình Đông, Bình Tây, Bình Tiên, Bình Trị, Bình Long, Bình Quới, Bình Hòa, Bình Điền, Bình Phước, ...Tân Định, Tân Hưng, Tân Khai, Tân Thuận, Tân Mỹ, Tân Phước, Tân Thạnh... Do công nghiệp ấy, ân đức ấy, Ông đã được nhân dân trong vùng kính trọng, họ tỏ lòng tôn kính uy danh ông, không dám gọi tên húy luôn cả hai tên Kính và Cảnh mà chỉ tôn xưng bằng chức tước của ông là Quan Chương Cơ, quan Thống Suất và tôn quý gọi là Lễ Công, Đức Ông. Sau hơn 8 năm quan hệ Việt - Miên yên ổn, triều đình Chân Lạp lại cho quân qua đốt phá nhà cửa của dân chúng, cướp phá các dinh của ta. Chúa Nguyễn lại lệnh cho Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lo liệu việc biên cương. Tháng 2 năm 1700, đại quân của Nguyễn Hữu Cảnh đóng quân ở Rạch Cá tức Long Hồ tỉnh Vĩnh Long ngày nay. Lần này, ông cũng dùng chính sách ôn hòa, đem nhân tâm thu phục lòng người là chính. Công cuộc an định biên cương mau chóng hoàn tất, ông hạ lệnh dong thuyền xuôi dòng Cửu Long về Dinh Trấn. Nhưng khi về đến ngã ba Tiền Giang - Rạch Gầm (tục còn gọi quãng này là Sầm Giang) thì bị bệnh mất đột ngột. Khi ấy nhằm ngày 9-5 Canh Thìn (1700). Quan quân bàng hoàng xao động, âm thầm đưa linh cữu của ông về đình cữu và huyền táng cạnh dinh Trấn Biên Đồng Nai, thuộc thôn Bình Hoành, Cù Lao Phố. Được tin dữ bất ngờ, Chúa Nguyễn Phúc Chu rất xót, ban sắc truy tặng Hiệp Tán Công Thần, đặc tấn Chưởng dinh Tráng Hoàn Hầu (Vĩnh An Hầu) thụy là Trung Cần. Truyền rằng sau đó linh hài của ông đã được cải về an táng tại Thác Ro thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Nơi này mới đây được hậu duệ 10 đời của ông đã tìm ra mộ và tấm bia khắc tên Ông bằng chữ Hán, được dịch là (mặt trước) Vĩnh An Hầu Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) chi mộ, (mặt sau) ghi: Bảo Đại năm thứ 5 ngày 16, hậu duệ là Viện trưởng Cơ mật Đại thần Thái tử Thái phó Hiển đại học sĩ Phước Môn Bá Nguyễn Hữu Bài cùng con Hữu Giải và nữ thị Dương cung kính dựng bia. Xét ra mộ 41 chí của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở Thác Ro, Quảng Bình đã rất đúng hướng địa lý đặt mộ của tiền nhân dòng Nguyễn Hữu đã chọn và truyền lại: - Thượng Yên Mã = phía trước giáp núi Yên Mã - Hạ Đùng Đùng = phía dưới gần phá Hạc Hải - Trung trung nhất huyệt = khoảng trung tâm là nơi an táng được Ở Cù Lao Phố xưa nay vẫn có lăng mộ của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Phải chăng tiền nhân khi xưa vừa làm công việc cải táng linh hài ông về Quảng Bình, vừa đắp lại như cũ mộ huyền táng của Ông ở Cù Lao Phố để trấn an lòng sùng kính của nhân dân vùng Đồng Nai. Ngoài ra, Thượng Đẳng Thần Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh còn có một ngôi mộ vọng nữa ở xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam. Thuở ấy, sau khi ông mất, nhân dân khắp nơi lập Đền, Miếu thờ phụng, cùng những liễn đối hoành phi..., ghi ơn Đức Ông Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Ngoài đền Vĩnh Yên ở Quảng Bình, đền Binh Kính ở Biên Hòa (Đồng Nai), còn suốt miền đồng bằng sông Cửu Long, nhưng địa phương nào trước đã từng được đón tiếp ông hay những nơi ông đóng doanh trại đều có đền thờ như: Cù Lao Tiêu Mộc (sau đổi là Cù Lao Ông Chưởng), Long Điền, Kiến An, Vĩnh Ngươn, Châu Đốc, Rạch Gầm, Thới An, Bình Mỹ, Mỹ Đức, Cù Lao Phố... Đâu đâu ông cũng được sắc phong Thượng đẳng thần. Không những người Việt tôn thờ ông, mà người Trung Hoa cũng tỏ lòng ngưỡng mộ đặt bài vị thờ Ông tại đền Minh Hương Chợ Lớn. Thậm chí người Chân Lạp cũng kính phục uy danh Ông, họ lập miếu thờ ở đầu chợ Nam Vinh (Nam Vang) thờ Đương Cảnh Thành Hoàng Nguyễn Hữu Cảnh. Phía triều đình các vua chúa nối ngôi sau này đều có ban sắc phong tước hiệu truy tặng cố công thần Nguyễn Hữu Cảnh. Dân ta vốn là một dân tộc có truyền thống uống nước nhớ nguồn, cho nên trải qua hàng bao thế hệ, cho dù các nhà cầm quyền thuộc thể chế nào, thời gian nào. và cho đến tận ngày nay cũng đều muốn tỏ lòng ghi khắc công ơn Nguyễn Hữu Cảnh bằng mọi hình thức và ở mọi địa phương. Theo Quảng Bình non nước huyền diệu - NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh - 2000 và Quảng Bình di tích và danh thắng - tập 2 năm 2002 42 KẾT LUẬN Theo các chuyên gia, di sản văn hóa là tài sản vô giá, góp phần làm nên bản sắc riêng của từng địa phương, từng nước; là chất liệu gắn kết cộng đồng, dân tộc; là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu, hội nhập giữa cộng đồng dân tộc và các quốc gia. Trước nguy cơ một số di sản bị mai một, mất đi; có trường hợp bị biến dạng, không giữ được các giá trị nguyên bản, đòi hỏi các nhà hoạt động giáo dục, văn hóa phải tìm cách tháo gỡ. Việc giáo dục di sản - đưa các loại hình di sản văn hóa vào giới thiệu, giảng dạy trong nhà trường là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thường được các nhà quản lý văn hóa đề cập đến trong nhiều năm qua. Trong dạy học, biết sử dụng di sản văn hóa để hướng đến những giá trị về chân - thiện - mỹ thì bài giảng của người thầy mang sức sống văn hiến và có thêm độ dày của lịch sử. Di sản văn hóa Việt Nam là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lâu bền về lịch sử, khoa học và được lưu truyền vĩnh cửu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể coi di sản văn hóa là một thứ của cải vô cùng quý báu mà ông cha ta đã để lại cho con cháu muôn đời sau. Vì vậy việc nghiên cứu cách thức sử dụng di sản trong dạy học tích cực ở bộ môn Lịch sử, trường Trung học cơ sở là rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học. 43 MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐÊ 1 NỘI DUNG 3 Chƣơng I. Những vấn đề chung về di sản và sử dụng di sản trong quá trình dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông 3 I Một số vấn đề chung về di sản 3 1 Nhận dạng di sản 3 2 Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học 4 3 Một số vấn đề khi khai thác, sử dụng giá trị các di sản trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông 5 II Sử dụng di sản trong dạy học tích cực 5 1 Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học tích cực 5 2 Một số phương pháp dạy học tích cực sử dụng di sản 6 3 Các hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục với di sản 6 4 Kiểm tra, đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học 7 5 Quy trình thực hiện một bài học tại di sản 8 Chƣơng II. Sử dụng tƣ liệu về các di sản ở Quảng Bình phục vụ giảng dạy lịch sử dân tộc 10 I Các di sản có thể đƣợc giới thiệu trong quá trình giảng dạy lịch sử dân tộc 10 II Tƣ liệu về các di sản 10 1 Di chỉ khảo cổ học Bàu Tró 10 2 Di chỉ khảo cổ học Cồn Nền 12 3 Di tích Thành Lồi Cao Lao Hạ 12 4 Di tích Thành nhà Ngo 14 5 Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng 15 6 Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh 16 7 Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc 20 8 Điện thờ Thượng thư Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn 20 9 Thành Đồng Hới 21 44 10 Lũy Trường Dục và Lũy Nhật Lệ 23 11 Di tích lò gốm Mĩ Cương 27 12 Đền Truy Viễn Đường 28 13 Di tích đền mẫu Liễu Hạnh 29 14 Di tích lịch sử đình làng Thuận Bài 31 15 Đình làng Thọ Linh 35 16 Di tích lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh 37 KẾT LUẬN 42
File đính kèm:
- tai_lieu_boi_duong_thuong_xuyen_danh_cho_giao_vien_mon_lich.pdf