Phát triển nguồn nhân lực ngành thiết kế nội thất đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Trước sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học công nghệ, các quốc gia đang
phải đối mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang lại. Nguồn nhân lực đã trở thành
nguồn tài sản quan trọng và quyết định cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngành Thiết kế Nội thất ở
Việt Nam hiện nay đang là ngành nghề còn non trẻ nhưng lại đóng vai trò quan trọng góp phần tô điểm
cho xã hội, đáp ứng đầy đủ công năng vật chất và công năng tinh thần cho người sử dụng. Cùng với quá
trình hội nhập và phát triển, nước ta đang và sẽ có nhu cầu về nhân lực có trình độ tay nghề cao nhưng
thực tế cho thấy lượng cung chưa đáp ứng được nhu cầu đó. Đặc biệt, với đặc thù chuyên ngành Thiết
kế Nội thất, ngoài các kiến thức học trên ghế nhà trường còn cần đến rất nhiều các kỹ năng thực hành
nghề nghiệp, kỹ năng marketing sản phẩm. Khi tri thức trở thành nguồn lực kinh tế chủ yếu thì việc đổi
mới hệ thống giáo dục và đào tạo là chiến lược quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học. Chính vì
vậy, việc đổi mới đào tạo ngành Thiết kế Nội thất cũng phải chú trọng đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nội
dung bài viết đề cập đến thực trạng đào tạo ngành Thiết kế Nội thất ở Việt Nam trước xu hướng hội
nhập quốc tế và đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới giáo dục theo định hướng hội nhập quốc tế
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nguồn nhân lực ngành thiết kế nội thất đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 57 (07/2019) 67-73 67 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH THIẾT KẾ NỘI THẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ HUMAN RESOURCES DEVELOPMENT OF THE INTERIOR DESIGN SECTOR TO MEETS THE REQUIREMENTS FOR INTERNATIONAL INTEGRATION Bùi Thị Thanh Hoa *1 Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/01/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/7/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/7/2019 Tóm tắt : Trước sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học công nghệ, các quốc gia đang phải đối mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang lại. Nguồn nhân lực đã trở thành nguồn tài sản quan trọng và quyết định cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngành Thiết kế Nội thất ở Việt Nam hiện nay đang là ngành nghề còn non trẻ nhưng lại đóng vai trò quan trọng góp phần tô điểm cho xã hội, đáp ứng đầy đủ công năng vật chất và công năng tinh thần cho người sử dụng. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, nước ta đang và sẽ có nhu cầu về nhân lực có trình độ tay nghề cao nhưng thực tế cho thấy lượng cung chưa đáp ứng được nhu cầu đó. Đặc biệt, với đặc thù chuyên ngành Thiết kế Nội thất, ngoài các kiến thức học trên ghế nhà trường còn cần đến rất nhiều các kỹ năng thực hành nghề nghiệp, kỹ năng marketing sản phẩm... Khi tri thức trở thành nguồn lực kinh tế chủ yếu thì việc đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo là chiến lược quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học. Chính vì vậy, việc đổi mới đào tạo ngành Thiết kế Nội thất cũng phải chú trọng đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nội dung bài viết đề cập đến thực trạng đào tạo ngành Thiết kế Nội thất ở Việt Nam trước xu hướng hội nhập quốc tế và đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới giáo dục theo định hướng hội nhập quốc tế. Từ khóa: thiết kế Nội thất, đào tạo đại học, hội nhập quốc tế, nhân lực, nhu cầu. Abstract: Facing the rapid development of science and technology revolution, many countries are faced with opportunities and challenges brought about by globalization. Human resources have become an important and decisive asset for the development of each nation. Interior Design sector in Vietnam is currently a young sector but plays an important role in contributing to the society, fully meeting the material and spiritual performance for users. Along with the process of integration and development, our country is and will be in need of highly skilled human resources but in reality, the supply has not met that demand. In particular, with the specialization in Interior Design, in addition to the knowledge of learning at school, there is also a lot of needed professional practice skills, product marketing skills ... When knowledge becomes the main economic resource, the 1 * Trường Đại học Mở Hà Nội 68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion renewal of the education and training system is an important strategy in the higher education system. Therefore, the renovation of Interior Design training must also focus on international integration. This article addresses the reality of Interior Design training in Vietnam before the trend of international integration and proposes some solutions to innovate education according to international integration orientation. Keywords: Interior design, higher education, international integration, human resources requiremen 1. Đặt vấn đề Cùng với sự phát triển của xã hội ngành Mỹ thuật công nghiệp ngày càng trở nên gắn bó với mọi mặt của đời sống xã hội con người. Trong đó ngành Thiết kế Nội thất hiện nay được đánh giá như một ngành “hot” trong các nghề nghiệp mà giới trẻ chọn lựa. Trong nhiều năm qua, việc phát triển đào tạo chuyên môn ngành Mỹ thuật công nghiệp nói chung và ngành Thiết kế Nội thất nói riêng ở Việt Nam đã có những bước cải thiện, tuy nhiên sự mất cân đối trong cung cầu giáo dục đào tạo hiện vẫn đang là một trong những vấn đề lớn cần được quan tâm. Thực trạng nguồn nhân lực trong xã hội hiện nay đang đặt ra sự mất cân bằng giữa cung và cầu về lao động có trình độ tay nghề cao. Thực tế hiện nay cho thấy, có sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo ngành Thiết kế Nội thất chưa có sự gắn kết giữa đào tạo với doanh nghiệp và xã hội, tình trạng này gây lãng phí nguồn lực cho cả người học và người sử dụng lao động. Chính vì vậy, cần có các giải pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng mất cân đối trong đào tạo hiện nay, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhân lực của xã hội trong thời gian tới. 2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Thiết kế Nội thất đáp ứng nhu cầu xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, đội ngũ họa sĩ Thiết kế Nội thất được đào tạo lên đến hàng ngàn người nhưng vẫn thiếu vắng họa sĩ giỏi chuyên môn, có năng lực về tổ chức không gian, hiểu biết về khoa học kỹ thuật hiện đại, có khả năng định hình phong cách và có tầm ảnh hưởng. Trong xu thế hội nhập quốc tế, đội ngũ họa sĩ Thiết kế Nội thất hiện nay thiếu sự chuẩn bị đầy đủ về hành trang để có thể hòa nhập với đồng nghiệp và trên thế giới. Đây là một hạn chế rất lớn mà các cơ sở đào tạo cần tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục từ việc xây dựng định hướng, xác định quan điểm, mục tiêu đào tạo để từ đó xây dựng nội dung chương trình và phương pháp đào tạo phù hợp để sinh viên ngành Thiết kế Nội thất có thể đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp sau khi ra trường. Về chương trình đào tạo của các trường đào tạo ngành Thiết kế Nội thất được xây dựng trên cơ sở kế thừa và có hiệu chỉnh, tham khảo chương trình đào tạo của các trường có chuyên ngành tương ứng của các nước khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên do sự phát triển của xã hội, đặc biệt là những thành tựu về khoa học kỹ thuật của cuộc cách mạng 4.0 nên nhiều khi các chương trình đào tạo này đã không nắm bắt kịp với yêu cầu thực tế. Cùng với sự thay đổi của các hình thức xã hội, sự phát triển về công nghệ, quá trình đô thị hóa toàn cầu, tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trư ... ế Nội thất lại được tham gia vào các lĩnh vực khác nhau hoặc đảm nhiệm những phần việc ở các cấp độ cũng như yêu cầu công việc khác nhau. Điều này cũng đặt ra công tác đào tạo cần phải làm gì để sinh viên ra trường sẽ có thể đáp ứng được yêu cầu rất đa dạng của thị trường và bước đầu biết cách nghiên cứu, có khả năng phân tích, nhận biết các vấn đề cần giải quyết Phải nhìn nhận một thực tế là khoảng cách giữa đào tạo và nhà tuyển dụng còn quá lớn. Vì vậy, để khắc phục những bất cập trên, vai trò của nhà trường trong công tác đào tạo nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng cho người học, đẩy mạnh sự gắn kết giữa lý luận với thực tiễn, trang bị cho họ sự nhạy bén và kỹ năng để giải quyết các vấn đề theo phương pháp tư duy sáng tạo đang là một đòi hỏi cấp bách, cần có sự đổi mới trong giáo dục đào tạo nói chung và lĩnh vực Thiết kế Nội thất nói riêng. 3. Giáo dục theo hướng phát triển năng lực người học - xu thế mới trong đào tạo trước yêu cầu hội nhập quốc tế * Nhu cầu xã hội xác định năng lực cần đào tạo Từ những thực trạng đã phân tích nêu trên đặt ta câu hỏi giáo dục nên tiếp cận theo hướng nào? Với phương pháp giáo dục truyền thống (hiện nay đa số các trường đào tạo ngành Thiết kế Nội thất vẫn thực hiện) là theo hướng tiếp cận nội dung. Tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học cần biết cái gì? Với cách tiếp cận này, hiện nay các trường đào tạo ngành Thiết kế Nội thất chủ yếu vẫn dựa vào yêu cầu nội dung kiến thức mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học. Bên cạnh đó, chương trình truyền thống có thể hoặc không thể xác định cụ thể các mục đích đào tạo. Mặc dù hiện nay các chương trình đào tạo ngày càng tập trung nhiều hơn vào mục tiêu, kết quả học tập trong lĩnh vực đào tạo cụ thể là Thiết kế Nội thất, chú ý đến khả năng đáp ứng nhu cầu công việc của sinh viên sau khi ra trường. Tiếp cận năng lực đầu ra là cách tiếp cận nêu rõ kết quả - những khả năng hoặc kĩ năng mà người học mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học 70 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion biết và có thể làm được những gì? Đây là phương pháp đào tạo phù hợp với xu thế của xã hội. Việc thiết kế một chương trình dựa vào năng lực đòi hỏi phải mang đến sự tương thích lớn hơn với nhu cầu xã hội. Các nhu cầu của cộng đồng xã hội liên quan đến ngành nghề đào tạo sẽ định hướng việc xây dựng các chuẩn đào tạo hoặc những năng lực cần có phù hợp với ngành nghề. Hiểu theo nghĩa so sánh, mục tiêu học tập “định hướng” chương trình giáo dục dựa vào năng lực, trong khi ở mô hình đào tạo truyền thống thì chương trình lại “định hướng” mục tiêu học tập. Sơ đồ dưới đây thể hiện sự khác biệt giữa chương trình giáo dục dựa vào mục tiêu truyền thống với chương trình giáo dục dựa vào năng lực. Sơ đồ so sánh chương trình đào tạo dựa vào năng lực với một số chương trình đào tạo truyền thống có thể thấy rõ 3 ưu điểm. Một là chương trình đào tạo dựa vào năng lực sắp xếp, kết nối các nhu cầu cụ thể của ngành học với các năng lực hành nghề cần được huấn luyện. Nói cách khác, nhu cầu này hướng dẫn việc đưa ra các quyết định về những điều mà sinh viên tốt nghiệp của các chương trình giáo dục phải có khả năng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và xã hội. Hai là giáo dục dựa vào năng lực sử dụng những năng lực này để phát triển và thực hiện chương trình dạy học nhằm tạo ra các giá trị kiến thức bắt buộc và các kỹ năng của người học để họ đạt được những năng lực ấy. Cuối cùng, giáo dục dựa vào năng lực sử dụng chính tập hợp các năng lực này để phát triển các chương trình đánh giá nhằm xác định mức độ mà các năng lực đạt tới được. * Giáo dục dựa vào năng lực Giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước chuyển từ giáo dục theo tiếp cận nội dung sang giáo dục tiếp cận năng lực (Competency- Based Training-CBT). Bước chuyển đổi này là phù hợp với tình hình thị trường lao động hiện nay khi mà năng suất lao động của Việt Nam luôn ở mức thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế rất yếu. Để người học có thể nhanh chóng hòa nhập thực tế công việc, có năng lực đáp ứng với các tiêu chuẩn của doanh nghiệp/công ty, rút ngắn thời gian đào tạo .v.v. đa phần các hệ thống dạy nghề nói riêng và đào tạo đại học nói chung trên thế giới hiện nay chuyển sang tiếp cận theo năng lực thực hiện.Với tiếp cận đào tạo theo năng lực thực hiện (tiếp cận CBT), nội dung đào tạo là năng lực giải quyết các tình huống nghề nghiệp tại một vị trí làm việc trong doanh nghiệp/công ty. Đơn vị của năng lực thực hiện là các thành tố năng lực, mà các thành tố này xác định bởi công việc (task) mà người lao động phải thực hiện. Để thực hiện một công việc, người lao động cần phải có: - Kiến thức (Knowlegde): Biết tại sao phải làm như thế cũng như tại sao làm khác sẽ hư hỏng. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 71 - Kỹ năng (Skills): Khả năng sử dụng các công cụ lao động và tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm/bán thành phẩm theo các tiêu chuẩn kỹ thuật qui định. - Thái độ (Attitude): Làm việc với đầy đủ ý thức, tinh thần trách nhiệm trong sự liên đới xã hội. Như vậy, nội dung đào tạo theo năng lực thực hiện không phải là hệ thống khái niệm, hệ thống kỹ năng, mà là hệ thống năng lực thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Địa điểm đào tạo theo năng lực thực hiện có thể là trong nhà trường hay tại nơi làm việc. Tiêu chuẩn đánh giá đào tạo theo năng lực thực hiện được xác định từ năng lực của người lao động lành nghề trong công việc, nên sau khi kết thúc đào tạo người học có thể đảm đương luôn vị trí lao động tương ứng. Năng lực có thể được phân thành năng lực thực hiện và năng lực thực hiện hoạt động chuyên môn. Trong đó năng lực thực hiện thể hiện qua bốn loại chủ yếu, gồm có: Kỹ năng thực hiện công việc cụ thể, riêng biệt; kỹ năng quản lý các công việc; kỹ năng quản lý các sự cố; và kỹ năng hoạt động trong môi trường làm việc. Năng lực thực hiện hoạt động chuyên môn (Professional Action Competency) được xem là tích hợp của bốn loại năng lực sau: - Năng lực cá nhân (Individual competency) - Năng lực chuyên môn/kỹ thuật (Professional/Technical competency) - Năng lực phương pháp luận (Methodical competency) - Năng lực xã hội (Social competency). 4. Phát triển chương trình đào tạo ngành Thiết kế Nội thất dựa trên năng lực * Mục tiêu hình thành năng lực lấy sinh viên làm trung tâm Vấn đề mấu chốt trong việc giáo dục dựa trên năng lực là cần phải quan tâm tới việc sinh viên được phát triển những năng lực gì, tham gia những hoạt động gì... thay vì cách giáo dục truyền thống chỉ quan tâm khi học xong sinh viên đạt được gì. Để làm được điều này giảng viên cần tổ chức các hoạt động đa dạng nhằm giúp sinh viên lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng thông qua việc giải quyết các tình huống thực hành nghề nghiệp. Ngoài ra, cần hướng dẫn sinh viên tìm kiếm và thu thập thông tin, gợi ý cách giải quyết vấn đề, tạo cơ hội để tiếp xúc nhiều với thực tế, có cơ hội thực hành và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Đối với sinh viên chuyên ngành Thiết kế Nội thất năng lực cần hình thành là năng lực cá nhân (khả năng làm việc độc lập, xác định mục tiêu, giải quyết vấn đề, kĩ năng mềm tin học - ngoại ngữ), năng lực chuyên môn (có hiểu biết về chuyên ngành được đào tạo, hiểu biết liên ngành, khả năng vận dụng nghề nghiệp vào cuộc sống...), năng lực phương pháp (khả năng phát triển, sáng tạo, nghiên cứu, tự học...), năng lực xã hội (giao tiếp, ứng xử, lãnh đạo, hợp tác, hoạt động xã hội) * Thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động Thực tiễn giáo dục đại học trên thế giới hiện nay (nhất là tại các quốc gia có nền giáo dục phát triển) đã khẳng định tính ưu việt của cách tiếp cận năng lực đầu ra trong việc thiết kế, phát triển chương trình và tổ chức, quản lí quá trình đào tạo. Cách tiếp cận này tạo ra tiền đề cốt lõi trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục hiệu quả trên cơ sở hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa năng lực nghề nghiệp và năng lực thích ứng của người tốt nghiệp trước sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện nay. Thiết kế chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực đầu ra, đồng thời, cũng tạo cơ hội gắn kết giữa các bên liên quan (cơ sở đào tạo, nhà tuyển dụng, nhà đầu tư v.v.), tăng cơ hội dạy học phân hóa, linh hoạt, mềm dẻo của quá trình đào tạo. Để thực thi chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực đầu ra, mang tính thích ứng phát triển nghề nghiệp và dự báo đón đầu những thay đổi về 72 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion yêu cầu năng lực nghề nghiệp trong xã hội, thiết nghĩ, mỗi cơ sở đào tạo cần chuyển đổi cơ cấu các khoa đào tạo theo chuyên ngành hẹp, khép kín sang mô hình khoa theo lĩnh vực và loại hình đào tạo. Xuất phát từ cách tiếp cận năng lực, nội dung dạy học, nội dung các môn học cần được thiết kế, xây dựng hướng đến đến việc hình thành những năng lực vừa cụ thể, vừa khái quát cho một ngành nghề đào tạo. Kết quả mong đợi cuối cùng đặt ra mức độ tối thiểu mà người học cần phải thực hiện được về mặt kiến thức và các năng lực hoạt động nghề nghiệp chuyên môn được đào tạo. Danh mục các kết quả mong đợi chính là một “nhóm” các năng lực mà người học tối thiểu phải thực hiện được sau khi kết thúc một chương trình đào tạo. Từ cách tiếp cận dựa trên hệ thống các kết quả mong đợi (hệ thống này luôn được cập nhật hàng năm, định kì trên cơ sở phân tích nhu cầu lao động, sự thay đổi của bối cảnh xã hội và nghề nghiệp) có thể phân chia năng lực ra làm 3 nhóm chính: Nhóm năng lực Cốt lõi: chung cho một ngành nghề đào tạo (ví dụ: Mỹ thuật công nghiệp) Nhóm năng lực Cơ bản: chung cho một chuyên ngành đào tạo (ví dụ: Thiết kế Nội thất, Thiết kế Thời trang, Thiết kế Đồ họa...) Nhóm năng lực Chuyên biệt: chuyên cho một hoạt động, lĩnh vực cụ thể (ví dụ: chuyên viên diễn họa, thiết kế kỹ thuật, thiết kế concept...) - Xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tích hợp: Trong đào tạo sinh viên các ngành mỹ thuật nói chung và chuyên ngành Thiết kế Nội thất nói riêng với đặc thù có nhiều môn học thực hành nên cần xây dựng CTĐT theo hướng tích hợp. Trong đó đảm bảo có một môn học được đào tạo chuyên sâu, mang tính chủ đạo. Bên cạnh đó, cần đào tạo chuyên sâu cả về tin học và ngoại ngữ, bởi lẽ đây là hai công cụ trọng yếu để giúp sinh viên nâng cao trình độ chuyên môn- nghiệp vụ và đảm bảo cho hoạt động thực hành nghề nghiệp có hiệu quả. Có như vậy, sinh viên mới thích ứng được công việc của mình sau khi ra trường. Cần có hình thức tổ chức dạy học trong môi trường mở nghĩa là không chỉ đóng khung trong học đường mà còn tiếp cận với cuộc sống đa dạng, phong phú với nhiều hoạt động tích hợp (thực tế và tự học, tự rèn luyện). Các hình thức tổ chức dạy học đa dạng như: cá nhân, nhóm, toàn lớp được thực hiện trong lớp học, vườn trường, xưởng trường, trải nghiệm thực tế, tham quan học tập. Các hoạt động học tập được thực hiện thông qua các phương pháp khác nhau như: học theo dự án, thực hành, workshop, trực quan, hợp đồng, tự học, tự nghiên cứu. Chính vì vậy, hoạt động quản lý giáo dục cần được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo thiên về chất lượng công việc hơn là việc quản lý về thời gian. 5. Kết luận Việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học để đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ là đòi hỏi bức thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam. Chất lượng đào tạo chỉ có thể được nâng cao khi quá trình đào tạo có sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của người sử dụng lao động nói riêng và nhu cầu xã hội nói chung. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trên quan điểm của người sử dụng lao động, đào tạo đại học chỉ đạt được chất lượng khi sinh viên tốt nghiệp hội tụ được các năng lực chuyên môn, thái độ và động cơ làm việc và các kỹ năng làm việc cá nhân phù hợp với yêu cầu công việc. Điều này đòi hỏi cơ sở đào tạo cần xây dựng mối liên hệ mật thiết với khách hàng cuối cùng, thiết kế lại chương trình đào tạo để đạt được các chuẩn đầu ra theo yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động. Chương trình đào tạo cần đặc biệt chú ý nhắm đến xây dựng cho người học năng lực chuyên môn vững vàng đồng thời có thái độ và động cơ làm việc đúng đắn. Đổi mới giáo dục đại học nói chung và cụ thể giáo dục đào tạo trong lĩnh vực Thiết kế Nội thất nói riêng là rất cần thiết và phù hợp với yêu Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 73 cầu của thị trường lao động. Những đòi hỏi của xã hội hiện đại cho thấy cần phải có một cách làm mới trong đào tạo các trường về Design. Tùy thuộc vào thực trạng cũng như nguồn lực sẵn có của từng cơ sở đào tạo để có những định hướng mang tính chiến lược, nghiên cứu những bài học kinh nghiệm trong nước và thế giới để tạo ra một phương thức đào tạo mới đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện đại. Tài liệu tham khảo: 1. Vũ Tiến Dũng (2016), “Một số giải pháp tăng cường liên kết đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp”, Tạp chí Lý luận chính trị số 5 – 2016. 2. Mạnh Xuân (2015), “Gắn kết trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực”, Báo Nhân dân điện tử, Thứ Bảy, 14/03/2015. 3. Nguyễn Phương Nga (2011), “Bàn về các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục đại học”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Số 27, trang 59 – 65. Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Mở Hà Nội Email : buithanhhoa.designer@gmail.com
File đính kèm:
- phat_trien_nguon_nhan_luc_nganh_thiet_ke_noi_that_dap_ung_ye.pdf