Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi

Hóa thạch trùng lỗ (foraminifera) và tảo vôi (calcareous nannofossil) được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu

sinh địa tầng trầm tích biển do chúng tiến hóa nhanh và phân bố rộng. Qua nhiều năm nghiên cứu các trầm tích

Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam thông qua các giếng khoan thăm dò dầu khí, nhóm tác giả nhận

thấy hai nhóm sinh vật trên thực sự là công cụ hiệu quả để phân chia chi tiết địa tầng các trầm tích này. Các giếng

khoan A, B, C, D, E và F được chọn đại diện cho khu vực nghiên cứu. Áp dụng các tiêu chuẩn phân đới trùng lỗ trôi

nổi “N” Blow, “PL” & “PT” Wade và nnk; tiêu chuẩn phân đới tảo vôi “NN” Martinii, “CNPL” Backman và nnk,

bảng phân chia địa tầng và các đới sinh vật cho các trầm tích Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam

đã được đưa ra. Theo nghiên cứu, trầm tích Pliocen sớm được giới hạn trong các đới trùng lỗ PL1-PL3/phần trên

N18-N19, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL1-CNPL3/NN12-NN15. Trầm tích Pliocen muộn gồm các đới trùng lỗ

PL4-PL6/N20-N21, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL4-CNPL6/NN16-NN18. Trầm tích Pleistocen sớm đặc trưng

bởi phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1a/phần dưới N22, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL6-CNPL10/NN19. Trầm tích

Pleistocen muộn - Holocen gồm phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1b và đới tảo vôi CNPL11/NN20-NN21. Kết quả cho

thấy sự phù hợp của phân chia địa tầng ở khu vực nghiên cứu với các tiêu chuẩn phân đới chuẩn trong giai đoạn

Pliocen - Đệ tứ ở vùng biển Thái Bình Dương và vĩ độ thấp. Đây là tiền đề áp dụng cho các nghiên cứu và liên kết

địa tầng ở thềm lục địa Việt Nam và các khu vực lân cận.

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 1

Trang 1

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 2

Trang 2

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 3

Trang 3

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 4

Trang 4

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 5

Trang 5

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 6

Trang 6

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 3840
Bạn đang xem tài liệu "Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi

Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi
162(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
Giới thiệu chung
Thềm lục địa Việt Nam có diện tích rộng hơn 1 triệu km2 
[1], được xem là vùng có cấu trúc địa chất phức tạp và chứa 
nhiều tiềm năng khoáng sản [2, 3]. Trong những năm gần 
đây, các trầm tích Pliocen - Đệ tứ ở thềm lục địa Việt Nam 
đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà địa chất bởi tiềm 
năng các khoáng sản rắn và phi kim chứa trong chúng [2-4]. 
Để công tác tìm kiếm thăm dò các khoáng sản này đạt hiệu 
quả cao, bên cạnh việc nghiên cứu các đặc điểm địa chất, 
kiến tạo khu vực thì việc phân chia và liên kết địa tầng các 
tập trầm tích cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. 
Cho đến nay, một số công trình nghiên cứu địa tầng 
trong các trầm tích Pliocen - Đệ Tứ đã đóng góp đáng kể 
trong việc phân chia địa tầng trầm tích Pliocen - Đệ tứ, điển 
hình như các công trình nghiên cứu của Trần Nghi và nnk 
(2010, 2014) [5, 6], Mai Thanh Tân và nnk (2013) [7], Đinh 
Xuân Thành (2016) [8]. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu 
này đều tập trung vào việc minh giải tài liệu địa chấn và 
tổng hợp các tài liệu địa chất khu vực. Công tác tổng hợp 
và minh giải các tài liệu phân tích mẫu, đặc biệt là tài liệu 
cổ sinh chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, các kết quả 
nghiên cứu địa tầng và liên kết đặc điểm địa chất các trầm 
tích này phần nào vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. 
Các hóa thạch cổ sinh đóng một vai trò quan trọng trong 
nghiên cứu địa tầng, khôi phục cổ môi trường trầm tích và 
các bối cảnh kiến tạo liên quan [9]. Trong đó, tảo vôi và 
trùng lỗ được xem là hai nhóm sinh vật rất hữu ích do chúng 
phân bố rộng và có tính nhạy cảm cao với sự thay đổi khí 
hậu và mực nước biển. Do vậy, việc kết hợp nghiên cứu sự 
phân bố của các hóa thạch này trong trầm tích giúp các nhà 
địa chất đánh giá được sự thay đổi về địa tầng, khí hậu và đi 
kèm với các dấu hiệu hình thành khoáng sản có liên quan. 
Trải qua hơn 40 năm nghiên cứu cổ sinh địa tầng ở các 
giếng khoan thăm dò dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, 
chúng tôi đã có một dữ liệu khá hoàn chỉnh về các hóa thạch 
trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi trong trầm tích Pliocen - Đệ tứ ở 
Phân chia địa tầng Pliocen - Đệ tứ 
ở phía đông thềm lục địa Việt Nam 
trên cơ sở tài liệu trùng lỗ và tảo vôi 
Nguyễn Thị Thắm*, Nguyễn Văn Sử, Tạ Thị Hòa, Mai Hoàng Đảm, Nguyễn Hoài Chung
Viện Dầu khí Việt Nam
Ngày nhận bài 22/1/2020; ngày chuyển phản biện 3/2/2020; ngày nhận phản biện 12/3/2020; ngày chấp nhận đăng 23/3/2020
Tóm tắt: 
Hóa thạch trùng lỗ (foraminifera) và tảo vôi (calcareous nannofossil) được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu 
sinh địa tầng trầm tích biển do chúng tiến hóa nhanh và phân bố rộng. Qua nhiều năm nghiên cứu các trầm tích 
Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam thông qua các giếng khoan thăm dò dầu khí, nhóm tác giả nhận 
thấy hai nhóm sinh vật trên thực sự là công cụ hiệu quả để phân chia chi tiết địa tầng các trầm tích này. Các giếng 
khoan A, B, C, D, E và F được chọn đại diện cho khu vực nghiên cứu. Áp dụng các tiêu chuẩn phân đới trùng lỗ trôi 
nổi “N” Blow, “PL” & “PT” Wade và nnk; tiêu chuẩn phân đới tảo vôi “NN” Martinii, “CNPL” Backman và nnk, 
bảng phân chia địa tầng và các đới sinh vật cho các trầm tích Pliocen - Đệ tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam 
đã được đưa ra. Theo nghiên cứu, trầm tích Pliocen sớm được giới hạn trong các đới trùng lỗ PL1-PL3/phần trên 
N18-N19, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL1-CNPL3/NN12-NN15. Trầm tích Pliocen muộn gồm các đới trùng lỗ 
PL4-PL6/N20-N21, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL4-CNPL6/NN16-NN18. Trầm tích Pleistocen sớm đặc trưng 
bởi phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1a/phần dưới N22, tương ứng với các đới tảo vôi CNPL6-CNPL10/NN19. Trầm tích 
Pleistocen muộn - Holocen gồm phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1b và đới tảo vôi CNPL11/NN20-NN21. Kết quả cho 
thấy sự phù hợp của phân chia địa tầng ở khu vực nghiên cứu với các tiêu chuẩn phân đới chuẩn trong giai đoạn 
Pliocen - Đệ tứ ở vùng biển Thái Bình Dương và vĩ độ thấp. Đây là tiền đề áp dụng cho các nghiên cứu và liên kết 
địa tầng ở thềm lục địa Việt Nam và các khu vực lân cận.
Từ khóa: đông thềm lục địa Việt Nam, Pliocen - Đệ tứ, tảo vôi, trùng lỗ trôi nổi.
Chỉ số phân loại: 1.5
*Tác giả liên hệ: Email: thamnt@vpi.pvn.vn
262(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
khu vực này. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày các kết 
quả nghiên cứu hóa thạch trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi trong 
trầm tích Pliocen - Đệ tứ tại một số giếng khoan ở khu vực 
phía đông thềm lục địa Việt Nam dựa theo các tiêu chuẩn 
phân đới ở vùng biển Thái Bình Dương và vĩ độ thấp. Qua 
đó, nhóm tác giả thiết lập sơ đồ phân chia các đới, phụ đới 
trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi dựa trên các dữ kiện hóa thạch 
chỉ đạo trong trầm tích Pliocen - Đệ tứ, góp phần làm sáng 
tỏ bức tranh địa tầng khu vực, đồng thời làm tiền đề để áp 
dụng cho các nghiên cứu địa tầng trong khu vực và các vùng 
lân cận.
Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu trình bày trong nghiên cứu này gồm kết quả phân 
tích hóa thạch trùng lỗ và tảo vôi thu thập ở 6 giếng khoan, 
thuộc nhiều bể trầm tích khác nhau đặc trưng cho khu vực 
phía đông thềm lục địa Việt Nam, vị trí các giếng được thể 
hiện trong hình 1. Các giếng khoan được ký hiệu A, B, C, 
D, E và F, sắp xếp lần lượt theo thứ tự từ bắc xuống nam.
Pliocene - Quaternary 
biostratigraphy in the east 
of Vietnam continental shelf
based on the calcareous nannofossil 
and foraminifera documents
Thi Tham Nguyen*, Van Su Nguyen, Thi Hoa Ta, 
Hoang Dam Mai, Hoai Chung Nguyen 
Vietnam Petroleum Institute
Received 22 January 2020; accepted 23 March 2020
Abstract:
Foraminifera and calcareous nannofossil are widely used 
in the marine biostratigraphy study due to their rapid 
evolution and wide distribution. Through many years of 
studying Pliocene - Quaternary in the east of the Vietnam 
continental shelf via oil and gas exploration wells, the 
authors found that these two fossil groups were really 
effective ... êu chuẩn phân 
đới tảo vôi “NN” Martinii (1971) và “CN” Okady & Burkry 
(1980) [14, 17]. Các tiêu chuẩn này đã mang lại hiệu quả 
cao cho các nghiên cứu sinh địa tầng. Tuy vậy, nhiều đới 
có địa tầng còn tương đối dài, ngoài ra một số ranh giới địa 
tầng còn nằm lệch khá lớn so với ranh giới đới. Để khắc 
phục những hạn chế này, trong những năm gần đây, các nhà 
cổ sinh đã nghiên cứu và công bố tiêu chuẩn phân chia đới 
chi tiết hơn cho các trầm tích Kainozoi nói chung và Pliocen 
- Đệ tứ nói riêng, điển hình là tiêu chuẩn phân đới trùng lỗ 
“PL” & “PT” Wade, et al. (2011) [18] và tiêu chuẩn phân 
đới tảo vôi “CNPL” Backman, (2012) [19]. Trong bài báo 
này, các tác giả sử dụng kết hợp tiêu chuẩn phân chia đới 
trùng lỗ trôi nổi “N” và “PL” & “PT”; tiêu chuẩn phân đới 
tảo vôi “NN” và “CNPL” để nghiên cứu địa tầng Pliocen - 
Đệ tứ ở khu vực.
Kết quả nghiên cứu
Nhìn chung, phức hệ hóa thạch trùng lỗ và tảo vôi trong 
trầm tích Pliocen - Đệ tứ ở các giếng khoan nghiên cứu 
được bảo tồn tốt, rất phong phú và tính đa dạng loài cao. 
Kết quả phân tích đã tìm thấy 13 dữ kiện hóa thạch chỉ đạo 
trùng lỗ, 16 dữ kiện hóa thạch chỉ đạo tảo vôi. Áp dụng các 
hệ thống phân đới tiêu chuẩn, trầm tích Pliocen - Đệ tứ khu 
vực phía đông thềm lục địa Việt Nam được chia thành 7 đới 
trùng lỗ trôi nổi theo tiêu chuẩn Wade, et al. (2011), ký hiệu 
PL1-PL6 và PT1; 4 đới trùng lỗ trôi nổi theo tiêu chuẩn 
Blow (1969), ký hiệu N19-N22; 11 đới tảo vôi theo tiêu 
chuẩn Backman, et al. (2012), ký hiệu CNPL1-CNPL11; 
và 10 đới tảo vôi theo tiêu chuẩn Martinii (1971), ký hiệu 
NN12-NN21. Theo thứ tự tuổi trầm tích từ cổ tới trẻ, đặc 
trưng các đới được mô tả chi tiết như dưới đây:
Pliocen sớm
Trùng lỗ trôi nổi: trầm tích Pliocen sớm được chia thành 
3 đới trùng lỗ trôi nổi PL1-PL3 tương ứng với phần trên của 
đới N18-N20.
Đới PL1: nóc của đới PL1 được xác định bởi top 
Globoturborotalia nepenthes, đáy của đới này được xác 
định bởi base Globorotalia tumida và base Globoquadrina 
dehiscens.
Đới PL2: nóc của đới PL2 được xác định bởi top 
Globorotalia margaritae và đáy của đới này được xác định 
bởi top Gloturborotalia (Globigerina) nepenthes.
Đới PL3: nóc đới PL3 được giới hạn bởi top 
Sphaeroidinellopsis seminulina, top Pulleniatina primalis, 
top Globorotalia pleisiotumida và đáy của đới PL3 được 
xác định bởi top Globorotalia margaritae.
Tảo vôi: trầm tích Pliocen sớm gồm 3 đới tảo vôi 
CNPL1-CNPL3 tương ứng với 4 đới NN12-NN15.
Đới CNPL1/phần trên NN12: thuộc phần đáy của 
462(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
Pliocen, có địa tầng tương đối ngắn, đặc trưng bởi khoảng 
xuất hiện của Ceratolithus armatus. Ở các giếng khoan A, 
B và D, CNPL1/NN12 được phân chia rõ ràng. Tuy nhiên, 
ở các giếng khoan C, E và F, đới này được xác định dạng 
đới kết hợp CNPL1-CNPL2, CNPL1-CNPL3 hoặc NN12-
NN15 do không tìm thấy Ceratolithus armatus.
Đới CNPL2/NN13: được xác định chi tiết ở các giếng 
khoan B và D dựa vào khoảng địa tầng từ top Ceratolithus 
armatus tới base Discoaster asymmetricus. Ngoài ra, đáy 
đới này còn đặc trưng bởi base Ceratolithus cristatus. Ở các 
giếng A, C, E và F, đới CNPL2/NN13 được xác định là dạng 
đới kết hợp CNPL1-CNPL2, CNPL2-CNPL3, CNPL1-
CNPL3 do vắng mặt Ceratolithus armatus.
Đới CNPL3/NN14-NN15: nóc của đới được xác định 
bởi top Reticulofenestra pseudoumbilicus (5-7 µm) và top 
Reticulofenestra pseudoumbilicus (>7 µm) hoặc top phong 
phú của Sphenolithus abies và đáy của đới này xác định bởi 
base Discoaster asymmetricus.
Pliocen muộn
Trùng lỗ trôi nổi: trầm tích Pliocen muộn đặc trưng bởi 
các đới trùng lỗ PL4-PL6 và tương ứng với N20-N21.
Đới PL4: đáy đới xác định bởi top Sphaeroidinellopsis 
seminulina, nóc đới xác định bởi top Dentoglobigerina 
altispira.
Đới PL5: xác định từ top Dentoglobigerina altispira 
tới top Globorotalia miocenica hoặc top Globorotalia 
pseudomiocenica. 
Đới PL6: là phần nóc Pliocen. của đới PL6 được xác 
định bởi sự xuất hiện sau cùng của Globigerinoides 
fistulosus hoặc top Globigerinoides extremus và đáy của đới 
này được xác định bởi top Globorotalia miocenica hay top 
Globorotalia pseudomiocenica.
Tảo vôi: trầm tích Pliocen trên giới hạn bởi các đới tảo 
vôi CNPL3-CNPL6 và tương ứng với NN16-NN18.
Đới CNPL4/NN16 ghi nhận sự vắng mặt của 
Reticulofenestra pseudoumbilicus (bao gồm cả loài có kích 
thước 5-7 µm và >7 µm) cũng như sự suy giảm về số lượng 
của Sphenolithus abies. Nóc CNPL4 được xác định bởi top 
Discoaster tamalis, trong khi đó nóc NN16 thường cao hơn 
nóc CNPL4, xác định bởi top Discoaster surculus.
Đới CNPL5/NN17: nóc của CNPL5/NN17 được xác 
định bởi top Discoaster pentaradiatus, đáy CNPL5 giới hạn 
bởi top Discoaster tamalis và đáy NN17 xác định bởi top 
Discoaster surculus.
Đới CNPL6/NN18: tiếp tục ghi nhận sự suy giảm của 
giống Discoaster, đặc trưng bởi địa tầng từ top Discoaster 
pentaradiatus tới top Discoaster brouweri. Nóc đới CNPL6 
là cơ sở xác định nóc Pliocen. 
Pleistocen sớm
Trầm tích Pleistocen sớm có địa tầng bắt gặp đầy đủ ở 
các giếng khoan D và E. Ở các giếng khoan A, B, C và F, 
mẫu phân tích trong trầm tích này chỉ có ở phần đáy. Nhìn 
chung, mức độ bảo tồn các hóa thạch trùng lỗ trôi nổi trong 
trầm tích Pleistocen sớm kém hơn so với các hóa thạch tảo 
vôi.
Trùng lỗ trôi nổi: trầm tích này đặc trưng bởi đới trùng 
lỗ trôi nổi PT1a/phần dưới N22, được giới hạn ở đáy bởi top 
Globigerinoides extremus, trong khi đó nóc của các trầm 
tích này được xác định dựa trên top Globorotalia tosaensis. 
Ngoài ra, top Globigerinoides fistulosus cũng là cơ sở xác 
định đáy các trầm tích này.
Tảo vôi: trầm tích Pleistocen sớm gồm các đới tảo vôi 
CNPL7-CNPL10, các đới này tương đương với đới NN19. 
Hóa thạch tảo vôi có thành phần loài trung bình, nhưng số 
lượng từng loài đều phong phú hoặc rất phong phú, điển 
hình nhất là Reticulofenestra minuta và Gephyrocapsa 
small. Bên cạnh đó, các đới này cũng ghi nhận sự xuất hiện 
phong phú của Gephyrocapsa oceanica, tần suất bắt gặp 
liên tục. Ngoài ra, các đới tảo vôi có những đặc trưng riêng 
như sau:
Đới CNPL7: thường có địa tầng ngắn, xác định từ top 
Discoaster brouweri tới top Calcidiscus macintyrei. Đới 
này gặp ở tất cả 6 giếng khoan nghiên cứu.
Đới CNPL8: chỉ gặp ở các giếng khoan D và E, kéo 
dài từ top Calcidiscus macintyrei tới top Helicosphaera 
sellii. Ở giếng khoan E, đới CNPL8 được kết hợp với các 
đới CNPL9 và CNPL10 thành dạng đới kết hợp CNPL8-
CNPL10 do không tìm thấy top Helicosphaera sellii.
Đới CNPL9 và CNPL10: khoảng địa tầng hai đới này được 
xác định từ top Helicosphaera sellii tới top Pseudoemiliania 
lacunosa. Top phong phú của Gephyrocapsa (>4 µm) 
thường rất khó xác định ở các giếng khoan, do đó hai đới 
này được xác định dạng kết hợp CNPL9-CNPL10.
Pleistocen giữa - muộn
Ở các giếng khoan nghiên cứu, trầm tích Pleistocen 
giữa - muộn chỉ có mẫu phân tích ở giếng khoan E. Các 
giếng khoan còn lại, các mẫu phân tích đều có địa tầng tuổi 
Pleistocen sớm trở xuống. Do vậy, kết quả phân chia địa 
tầng và các đới trùng lỗ, tảo vôi cũng như đặc trưng từng 
đới được trình bày trong nghiên cứu này chủ yếu dựa vào 
kết quả phân tích hóa thạch ở giếng khoan E.
Trùng lỗ trôi nổi: trầm tích Pleistocen giữa - muộn 
gồm phụ đới PT1b và phần trên đới N22, xác định từ 
top Globorotalia tosaensis và kéo dài tới hiện tại. Phụ 
đới PT1b đặc trưng bởi sự xuất hiện của Globorotalia 
truncatulinoides và Globigerinoides ruber. Blow (1969) 
[16] cho rằng trầm tích Pleistocen giữa - muộn gồm các đới 
N22-N23, tuy nhiên, Wade, et al. (2011) [18] nhận thấy trầm 
tích Pleistocen - Holocen chỉ giới hạn trong đới N22.
562(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
Tảo vôi: trầm tích Pleistocen giữa - muộn xác định bởi đới 
CNPL11, đới này có địa tầng tương đương với NN20-NN21. 
Đây là khoảng địa tầng nằm giữa top Pseudoeminiliania 
lacunosa và các trầm tích hiện tại. Tương tự như các trầm 
tích Pleistocen sớm, hóa thạch tảo vôi tìm thấy trong trầm 
tích này xuất hiện rất phong phú và có thành phần loài 
trung bình, các loài đặc trưng gồm Reticulofenestra minuta, 
Gephyrocapsa small và G. oceanica.
Trên cở sở phân chia địa tầng trầm tích Pliocen - Đệ tứ 
ở các giếng khoan, kết quả nghiên cứu được liên kết thành 
hai tuyến mặt cắt: tuyến 1 gồm các giếng khoan A, B và C 
(hình 2); và tuyến 2 gồm các giếng khoan D, E & F (hình 3).
Hình 2. Tuyến liên kết các giếng khoan A, B và C
Hình 3. Tuyến liên kết các giếng khoan D, E và F.
662(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
Từ kết quả phân tích và minh giải ở trên, bảng phân đới 
trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi trong Pliocen - Pleistocen được 
thiết lập và áp dụng cho phía đông thềm lục địa Việt Nam 
(hình 4).
Kết luận
Kết quả nghiên cứu địa tầng các trầm tích Pliocen - Đệ 
tứ ở phía đông thềm lục địa Việt Nam cho thấy sự tương 
đồng của tổ hợp hóa thạch chủ đạo đã tìm thấy với khu vực 
biển Thái Bình Dương và khu vực vĩ độ thấp, từ đó đã giúp 
cho việc phân chia khoảng địa tầng trong khu vực này được 
rõ ràng và chi tiết hơn so với các nghiên cứu trước đây. Trên 
cơ sở kết quả nghiên cứu hóa thạch trùng lỗ trôi nổi và tảo 
vôi ở 6 giếng khoan thăm dò dầu khí có sự hiện diện của 
trầm tích Pliocen - Đệ tứ, chúng tôi đã phân chia chi tiết 
địa tầng cho các trầm tích này: Pliocen sớm (gồm các đới 
trùng lỗ trôi nổi từ PL1-PL3/phần trên N18-N20 và các đới 
tảo vôi CNPL1-CNPL3/NN12-NN15), Pliocen muộn (gồm 
các đới trùng lỗ trôi nổi PL4-PL6/N20-N21 và các đới tảo 
vôi NN16-NN18), Pleistocen sớm (gồm đới trùng lỗ trôi nổi 
PT1a/N22 và CNPL7-CNPL10/NN19) và Pleistocen muộn 
(gồm đới trùng lỗ trôi nổi PT1b và CNPL11/NN20-NN21). 
Ranh giới các đơn vị địa tầng được xác định đồng thời bởi 
các nóc đới trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi. Nóc Pliocen sớm 
được xác định bởi nóc đới trùng lỗ trôi nổi PL3 và nóc đới 
tảo vôi CNPL3 hay nóc NN15. Nóc Pliocen muộn được xác 
định bởi nóc đới trùng lỗ trôi nổi PL6 và nóc đới tảo vôi 
CNPL6 hay nóc NN18. Nóc Pleistocen sớm được xác định 
bởi nóc phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1a và nóc đới tảo vôi 
CNPL10 hay nóc NN19. Pleistocen muộn và Holocen xác 
định bởi nóc phụ đới trùng lỗ trôi nổi PT1b và nóc tảo vôi 
CNPL11 hay nóc đới NN21. Đây cũng là tiền đề ban đầu 
góp phần hỗ trợ các nhà nghiên cứu sau này luận giải mối 
tương quan giữa các tập trầm tích nhỏ và các tổ hợp khoáng 
sản liên quan cũng như các nghiên cứu liên quan đến biến 
đổi khí hậu, sự thay đổi mực nước biển hay điều kiện xây 
dựng các công trình trên biển trong khoảng địa tầng sau này. 
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện bởi sự tài trợ của Viện 
Dầu khí Việt Nam. Tập thể tác giả xin trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Hiệp (2017), “Việt Nam, một số nét chủ yếu”, Địa 
chất và Tài nguyên Dầu khí Việt Nam, tr.5-13.
[2] Mai Thanh Tân, Phạm Văn Tỵ, Đặng Văn Bát, Lê Duy Bách, 
Nguyễn Biểu, Trần Nghi, Lê Văn Dũng (2011), “Địa chất công trình 
khu vực miền Trung và Đông Nam thềm lục địa Việt Nam”, Tạp chí 
các Khoa học về Trái đất, (6), tr.109-118.
[3] Nguyễn Văn Đắc, Phạm Thanh Liêm, Nguyễn Anh Đức 
(2017), ‘Tổng quan về tài nguyên dầu khí Việt Nam”, Địa chất và Tài 
nguyên Dầu khí Việt Nam, tr.43-71.
[4] H. Nguyen, Carter, Andrew, L.V Hoang, and S.T. Vu (2018), 
“Provenance, routing and weathering history of heavy minerals from 
coastal placer deposits of southern Vietnam”, Sedimentary Geology, 
373, pp.228-238.
Hình 4. Bảng phân đới trùng lỗ trôi nổi và tảo vôi trong Pliocen - Pleistocen áp dụng cho thềm lục địa Việt Nam.
762(8) 8.2020
Khoa học Tự nhiên
[5] Trần Nghi và nnk (2010), Thành lập Bản đồ địa chất 
Pliocen - Đệ tứ Biển Đông và các vùng kế cận, Đề tài cấp nhà nước 
KC.09.23/06-10.
[6] Trần Nghi và nnk (2014), Địa chất Pliocen - Đệ tứ vùng biển 
Việt Nam và kế cận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[7] Mai Thanh Tan, Le Van Dung, Le Duy Bach, Nguyen Bieu, 
Tran Nghi, Hoang Van Long, Phan Thien Huong (2013), “Pliocene - 
Quaternary evolution of the continental shelf of central Vietnam based 
on high resolution seismic data”, Journal of Asia Earth Sciences, 
79(A), pp.529-539.
[8] Đinh Xuân Thành (2016), Địa tầng phân tập Pliocen - Đệ tứ 
thềm lục địa Nam Trung Bộ, Việt Nam.
[9] J.T. (Han) van Gorsel, Peter Lunt and Robert Morley (2014), 
“Introduction to Cenozoic biostratigraphy of Indonesia - SE-Asia”, 
Berita Sedimentologi, 29, pp.6-40.
[10] Viện Dầu khí Việt Nam (2011), Hoàn thiện quy trình phân 
tích - thí nghiệm các chỉ tiêu hiện có của Trung tâm Phân tích thí 
nghiệm.
[11] J.P. Kennett, M.S. Srinivasan (1983), Neogene Planktonic 
Foraminifera, Hutchinson Ross Publishing Co., pp.1-265.
[12] H.M. Bolli, J.B. Saunders (1985), “Oligocene to Holocene 
low latitude planktic foraminifera”, Plankton Stratigraphy, pp.155-
262.
[13] P.R. Bown (1998a), “Calcareous nannofossil 
biostratigraphy”, British Micropalaeontological Society Publication 
series, 328, pp.16-17.
[14] J.R. Young (1998), British Micropalaeontological Society: 
Publication series, pp.225-265. 
[15] J.R. Young (2020), International Nannoplankton Association, 
[16] W.H. Blow (1969), “Late middle Eocene to Recent planktonic 
foraminiferal biostratigraphy”, Proceedings of the first international 
conference on Planktonic Microfossils, Geneva, pp.380-381.
[17] E. Martini (1971b), “Standard tertiary and quaternary 
calcareous nannoplankton zonation”, Proceedings of the second 
planktonic conference, Rome, pp.737-785.
[18] B.S. Wade, P.N. Pearson, W.A. Berggren, H. Pälike (2011), 
“Review and revision of Cenozoic tropical planktonic foraminiferal 
biostratigraphy and calibration to the geomagnetic polarity and 
astronomical time scale”, Earth-Science Reviews, 104, pp.111-142.
[19] J. Backman, I. Raffi, D. Rio, E. Fornaciari, H. Palike (2012), 
“Biozonation and biochronology of Miocene through Pleistocene 
calcareous nannofossils from low and middle latitudes”, Newsletters 
on Stratigraphy, 45(3), pp.221-244.

File đính kèm:

  • pdfphan_chia_dia_tang_pliocen_de_tu_o_phia_dong_them_luc_dia_vi.pdf