Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam

Chuyển đổi số là sự tích hợp các công nghệ số vào hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô

hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng. Như vậy, chuyển đổi số đòi hỏi nền tảng quản trị tiên tiến, chuyển đổi quản

trị song song với chuyển đổi số.

Bài báo phân tích mô hình chuyển đổi số trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí của Deloitte (Deloitte’s Digital Operations

Transformation); thực trạng chuyển đổi điều hành số và chuyển đổi số trong quan hệ với khách hàng; các khó khăn thách thức cơ bản

trong quá trình chuyển đổi số và đề xuất các giải pháp chuyển đổi số cho ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam.

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 3580
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam

Chuyển đổi số trong công nghiệp dầu khí: thực trạng và triển vọng tại Việt Nam
4 DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ: 
THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG TẠI VIỆT NAM
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số 12 - 2020, trang 4 - 11
ISSN 2615-9902
Nguyễn Hồng Minh
Viện Dầu khí Việt Nam
Email: nguyenhongminh@vpi.pvn.vn 
https://doi.org/10.47800/PVJ.2020.12-01
Tóm tắt
Chuyển đổi số là sự tích hợp các công nghệ số vào hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô 
hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng. Như vậy, chuyển đổi số đòi hỏi nền tảng quản trị tiên tiến, chuyển đổi quản 
trị song song với chuyển đổi số.
Bài báo phân tích mô hình chuyển đổi số trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí của Deloitte (Deloitte’s Digital Operations 
Transformation); thực trạng chuyển đổi điều hành số và chuyển đổi số trong quan hệ với khách hàng; các khó khăn thách thức cơ bản 
trong quá trình chuyển đổi số và đề xuất các giải pháp chuyển đổi số cho ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam.
Từ khóa: Chuyển đổi số, dầu khí, mô hình chuyển đổi điều hành số DOT.
1. Giới thiệu
Chuyển đổi số (digital transformation) đang trở thành 
xu thế không thể đảo ngược trong các doanh nghiệp, tổ 
chức, xã hội trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 
tư. Theo khảo sát của IDC, gần 90% doanh nghiệp đã bắt 
đầu chuyển đổi số, từ tìm hiểu, nghiên cứu, cho tới bắt 
đầu triển khai, thực hiện; hơn 30% lãnh đạo doanh nghiệp 
xem chuyển đổi số là vấn đề sống còn...
Chuyển đổi số là sự tích hợp các công nghệ số vào 
hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức để thay đổi căn bản 
cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các 
giá trị mới cho khách hàng. Nói cách khác, đó là sự thay 
đổi về cách thức điều hành, quy trình, thủ tục, văn hóa, 
dựa trên nền tảng kỹ thuật số, hướng tới mục tiêu hiệu 
quả hơn. 
Nếu số hóa (digitalization) là quá trình chuyển đổi các 
hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số thì chuyển 
đổi số nhằm khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số 
hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các 
dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới. 
Như vậy, mục tiêu chuyển đổi số là phải tạo ra các giá 
trị gia tăng mới, sản phẩm, dịch vụ mới, cách làm mới mà 
cuối cùng phải giúp cho việc kinh doanh hiệu quả hơn. 
Theo nghiên cứu của Microsoft [1], các doanh nghiệp 
chuyển đổi số trong phạm vi khảo sát được hưởng lợi 
từ tăng năng suất, tăng lợi nhuận, giảm chi phí, có thêm 
nhiều khách hàng trung thành hơn và doanh số cao hơn 
tới 17%.
Accenture đã phối hợp với Diễn đàn Kinh tế Thế giới 
(WEF), Deloitte, Energy CIO Insights, Oil & Gas Journal 
triển khai các nghiên cứu về chuyển đổi số trong công 
nghiệp dầu khí. Trong đó, Deloitte có báo cáo chi tiết về 
chuyển đổi số trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí [2]. 
Báo cáo của Deloitte đã nêu ra mô hình chuyển đổi số 
là hành trình gồm 3 giai đoạn, 10 bước với mục tiêu, nội 
dung cụ thể. Báo cáo đã đánh giá thực trạng chuyển đổi 
số hiện nay của công nghiệp dầu khí thế giới, chỉ ra các cơ 
hội gia tăng giá trị và đề xuất bước đi tiếp theo. Báo cáo 
cũng nhấn mạnh chuyển đổi số là cơ hội để làm cho tài 
sản trị giá 3 - 4 nghìn tỷ USD của các công ty dầu khí trở 
nên thông minh hơn, hiệu quả hơn.
Ở Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo 
các cấp, các ngành đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa 
học - công nghệ, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động 
tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó 
có nội dung chuyển đổi số.
Ngày nhận bài: 24/9/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 24/9 - 11/11/2020. 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 15/12/2020.
5DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
PETROVIETNAM
Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 
số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động 
tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó 
đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ kinh tế số.
Ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ 
thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó có giải pháp 
xây dựng chiến lược chuyển đổi số, quản trị thông minh, 
ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số.
Ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị 
quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát 
triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, 
tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, quan điểm của Nghị 
quyết là “Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành 
tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong 
phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng; 
đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng” và đề 
ra nhiệm vụ/giải pháp là “thúc đẩy nhanh chuyển đổi số 
trong ngành năng lượng; xây dựng và triển khai chương 
trình quốc gia về phát triển hạ tầng năng lượng thông 
minh”.
Như vậy, cả ở quy mô toàn cầu, lẫn cấp độ quốc gia, 
chủ trương, đường lối và xu thế chuyển đổi số là tất yếu. 
Câu hỏi đặt ra là ngành Dầu khí Việt Nam đang ở đâu 
trong xu thế này và triển vọng tương lai ra sao?
2. Mô hình chuyển đổi điều hành số
Trong Báo cáo của Deloitte [2], mô hình chuyển đổi 
điều hành số (Deloitte’s Digital Operations Transformation 
(DOT)) là lộ trình chuyển đổi số gồm 3 giai đoạn: Chuyển 
thế giới vật lý thành không gian số (physical to digital), xử 
lý thế giới số (digital to digital) và chuyển thông tin điều 
hành từ thế giới số về thế giới vật lý (digital to physical). 3 
giai đoạn này còn được chia thành 10 bước. Giai đoạn 1: 
Cơ khí hóa (mechanize), Cảm biến hóa (sensorize), truyền 
dữ liệu (transmit). Giai đoạn 2: Tích hợp (integrate), phân 
tích (analyze), hình ảnh hóa (visualize), tăng cường thực tế 
(augment). Giai đoạn 3: Robot hóa (robotize), nhúng sản 
Hình 1. Mô hình chuyển đổi điều hành số DOT [2] 
6 DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ
phẩm mới vào hệ thống (craft) và ảo hóa toàn bộ tài sản 
(virtualize). 
Hành trình đó được tiến hành như những vòng lặp. 
Sau khi áp dụng 10 bước cho một đối tượng hay tài sản cụ 
thể, doanh nghiệp quay trở lạ ...  lắp 
đặt những cảm biến thông dụng, bảo đảm hiệu quả. Với 
những tài sản quá già cỗi, tiềm năng thấp, nên tối ưu 
những tài sản đang có. Trên cơ sở dữ liệu thu thập và tích 
hợp được, có thể triển khai những thuật toán tối ưu hóa 
điều hành khai thác. 
Một nhà điều hành ở Kazakhstan, gặp phải vấn đề về 
áp suất bơm và sản lượng khai thác không như thiết kế, đã 
lắp đặt các bơm điện chìm mới và áp dụng công cụ phân 
tích thời gian thực số liệu từ các bơm này để điều chỉnh 
lịch trình và công suất bơm. Theo báo cáo, giải pháp này 
đã giúp giảm được 27% thời gian dừng, chờ, xử lý sự cố 
của giếng. 
BP đang hợp tác Silicon Microgravity phát triển cảm 
biến nhận biết dầu - nước đặc biệt nhỏ, có thể đưa sâu vào 
giếng, vỉa để theo dõi khả năng ngập nước trong giếng 
khai thác. Dự báo việc áp dụng cảm biến này có thể giúp 
nâng cao khả năng cho dòng lên 2%.
Apache đang phối hợp với Ayata áp dụng các thuật 
toán phân tích cơ sở dữ liệu thông tin về môi trường làm 
việc và hồ sơ theo dõi hỏng hóc của 100.000 bơm điện để 
9DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
PETROVIETNAM
tìm ra 40 thông số quan trọng quyết định hoạt động tin 
cậy của bơm. Qua đó, có thể nâng cao hiệu quả sử dụng 
bơm điện ngầm trong khai thác. Tương tự, các công ty 
dầu khí hoạt động ở Biển Bắc đang triển khai một dự án 
hợp tác xây dựng một nền tảng thương mại và quản lý tới 
200.000 loại phụ tùng dự trữ chung. Giải pháp này giúp 
các doanh nghiệp giảm thiểu thời gian dừng và chi phí 
lưu kho [2].
Lĩnh vực khai thác dầu khí ở Việt Nam có hơn 30 năm 
phát triển. Công tác tối ưu khai thác, gia tăng thu hồi 
dầu luôn được chú trọng. Tuy nhiên, số lượng cảm biến 
không nhiều, số lượng tham số có thể theo dõi được còn 
hạn chế đã làm cho việc tích hợp và xử lý dữ liệu gặp 
khó khăn.
Cách đây hơn 1 thập kỷ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam 
(PVN) đã giao Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), phối hợp cùng 
Halliburton, triển khai nghiên cứu tiền khả thi xây dựng 
Trung tâm Dữ liệu Thăm dò Khai thác Dầu khí. Trung tâm 
này có khả năng tích hợp dữ liệu của toàn ngành, điều 
hành trực tuyến các hoạt động ngoài khơi, khi đi vào vận 
hành, sẽ đưa công nghiệp dầu khí Việt Nam tiến thẳng 
đến giai đoạn hình ảnh hóa và tăng cường thực tế.
Deloitte xây dựng bản đồ hiện trạng số và định hướng 
chuyển đổi số của lĩnh vực trung nguồn [4], được chia 
thành các lĩnh vực nhỏ và các khâu như sau: Thu thập và 
xử lý (gồm: hệ thống thu thập, thiết bị xử lý); đường ống 
(gồm: đường ống, hệ thống bơm, đo); lưu trữ (gồm: điều 
hành trạm; quản lý kho chứa). Về tổng thể, lĩnh vực trung 
nguồn có hạn chế nhất định trong chuyển đổi số so với 
lĩnh vực thượng nguồn, chủ yếu ở bước cảm biến hóa và 
tích hợp. Tình hình ở Việt Nam cũng tương tự, số liệu rời 
rạc, chưa được tích hợp. Dự báo chuyển đổi số ở lĩnh vực 
này có thể nhảy vọt, sớm tiếp cận các bước phân tích, hình 
ảnh hóa và tăng cường thực tế.
Trong lĩnh vực hạ nguồn ở Việt Nam, tại các nhà máy 
chế biến dầu khí, số liệu đã được thu thập, tổng hợp và có 
phân tích bước đầu. Tuy nhiên, việc phân tích cần đi vào 
chiều sâu, trên nền tảng số liệu đầy đủ hơn, kỹ thuật phân 
tích hiện đại hơn và tiến tới các bước hình ảnh hóa và tăng 
cường thực tế, nhằm hỗ trợ đưa ra các quyết định điều 
hành kịp thời, tối ưu hóa sản xuất, bảo đảm an toàn. Lưu 
ý rằng, trong lĩnh vực này mọi sáng kiến, giải pháp số cần 
xuất phát từ mục tiêu kinh doanh [5] và hướng tới những 
mô hình, phương thức kinh doanh mới.
Trong chuyển đổi số quan hệ với khách hàng, trên thế 
giới có nhiều sáng kiến, giải pháp và mô hình hay. Ở Việt 
Nam, đáng chú ý là chương trình PVOIL Easy dành cho 
khách hàng doanh nghiệp cần quản lý trực tuyến giao 
dịch mua bán xăng dầu. Đây là giải pháp dùng Thẻ điện 
tử (digital card), đọc QR code trên thiết bị di động của tài 
xế và nhân viên bán hàng để thực hiện giao dịch mua bán 
xăng dầu tại bất kỳ cửa hàng xăng dầu nào trong toàn hệ 
thống PVOIL trên cả nước. Doanh nghiệp ký hợp đồng với 
Tổng công ty Dầu Việt Nam - CTCP (PVOIL) có thể kiểm 
soát trực tuyến toàn bộ giao dịch và thanh toán vào cuối 
kỳ. Tuy nhiên, các sáng kiến như trên còn quá ít ỏi so với 
tiềm năng phát triển.
4.2. Các khó khăn thách thức cơ bản trong quá trình 
chuyển đổi số của công nghiệp dầu khí Việt Nam
Nhận thức, tư duy về chuyển đổi số của các doanh 
nghiệp dầu khí chưa thống nhất. Có doanh nghiệp, lĩnh 
vực đi trước một bước, có doanh nghiệp, lĩnh vực còn 
chậm thay đổi. Trong khi đó, để tối ưu hóa theo chuỗi, 
ứng dụng big data trong từng lĩnh vực, đòi hỏi sự thống 
nhất trong nhận thức và hợp tác chặt chẽ giữa các doanh 
nghiệp trong chuỗi hay trong cùng 1 khâu của chuỗi giá 
trị. Nhận thức hạn chế sẽ dẫn tới thiếu sự chuẩn bị nguồn 
lực cho công cuộc chuyển đổi số.
Mô hình quản trị và các quy trình đi kèm của các 
doanh nghiệp dầu khí còn lạc hậu, chưa theo kịp thực 
tiễn tiên tiến trên thế giới. Chuyển đổi số đòi hỏi nền tảng 
quản trị tiên tiến, đòi hỏi sự chuyển đổi quản trị song song 
với chuyển đổi số. Nếu không, sẽ chỉ là quá trình số hóa.
Hạ tầng thông tin của các doanh nghiệp dầu khí còn 
nhỏ lẻ, manh mún, thiếu kết nối. Ngay trong lĩnh vực cốt 
lõi là thăm dò, khai thác dầu khí, từng nhà điều hành có 
kho dữ liệu riêng, phần mềm riêng, quy trình vận hành 
riêng. Nếu hạ tầng thông tin đồng bộ, nền tảng công 
nghệ tiên tiến sẽ giúp cho quá trình chuyển đổi số nhanh 
hơn, hiệu quả hơn.
Hành lang pháp lý, chính sách thông tin của Việt Nam 
trong lĩnh vực dầu khí còn bất cập, chưa theo kịp thực 
tiễn. Ví dụ, tài liệu thăm dò, khai thác theo quy định chủ 
yếu là tài liệu mật, do đó không thể lưu trữ, lưu chuyển, 
xử lý trên nền tảng đám mây, trên hệ thống máy tính kết 
nối internet.
4.3. Đề xuất định hướng chuyển đổi số cho công nghiệp 
dầu khí Việt Nam
Xuất phát từ phân tích trên, định hướng lớn trong lĩnh 
vực thăm dò ở Việt Nam là tập trung xây dựng trung tâm 
dữ liệu thăm dò, khai thác. Trung tâm này cần tích hợp đầy 
đủ dữ liệu địa chất - địa vật lý, phát triển các công cụ phân 
10 DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ
tích đặc biệt, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, học máy, tối ưu vị 
trí, đối tượng khoan thăm dò, nhằm giảm thiểu rủi ro [6]. 
Trong phát triển mỏ, trung tâm dữ liệu này tạo nền tảng 
tích hợp dữ liệu toàn bể từ các nhà thầu, dự án, nhà điều 
hành và tiến hành phân tích, tối ưu hóa cho từng chiến 
dịch khoan. 
Đối với tài sản khai thác mới, cần xem xét thiết kế hệ 
thống cảm biến thu thập đầy đủ thông tin về mỏ và triển 
khai phân tích. Nếu tài sản cũ, cần phân loại theo khả 
năng sinh lời. Với mỏ có khả năng mang lại lợi ích cao khi 
được tối ưu, có thể xem xét hiện đại hóa, lắp đặt thêm cảm 
biến để thu thập dữ liệu và xử lý. 
Dữ liệu thu được trong hơn 30 năm khai thác là khối 
lượng khổng lồ. Các nhà điều hành tại bể Cửu Long đều 
có chung vấn đề cần giải quyết: dự báo động thái vỉa 
dầu trong đá móng, tối ưu bơm ép nước, thổi khí, kéo 
dài tuổi thọ bơm điện chìm nhằm gia tăng sản lượng, 
nâng cao hệ số thu hồi dầu. Ngoài ra, còn có các nhu cầu 
khác về thiết bị, phụ tùng, dụng cụ thay thế, các dịch vụ 
hỗ trợ khai thác... Việc tích hợp dữ liệu, chia sẻ bài học 
kinh nghiệm khi giải quyết các vấn đề chung, sử dụng các 
thuật toán phân tích hiện đại chạy trên dữ liệu lớn để tìm 
ra các quy luật tối ưu khai thác, chia sẻ dịch vụ, thiết bị, 
phụ tùng, dụng cụ thay thế sẽ mang lại lợi ích to lớn 
cho các bên tham gia. PVN là đầu mối làm việc với các nhà 
thầu, khi nhận được sự đồng thuận, các bên có thể đóng 
góp nguồn lực và ủy quyền cho 1 nhà thầu làm đầu mối 
triển khai [7].
Một số ứng dụng chuỗi khối (blockchain), dữ liệu 
lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (machine 
learning) đang được VPI nghiên cứu triển khai vào công 
tác thăm dò, khai thác dầu khí. Bên cạnh đó, việc nghiên 
cứu áp dụng phần mềm iNavigator (một dạng AI, trên nền 
big data, của BBL Venture) nhận dạng và phân tích các 
điểm nghẽn trong hoạt động, nhằm đưa ra các khuyến 
nghị cải tiến cho Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau 
(PVCFC) đã được VPI thực hiện. PVN cần tăng cường đặt 
hàng các nghiên cứu dạng này và quan trọng hơn là thúc 
đẩy quá trình ứng dụng các kết quả đạt được vào hoạt 
động thực tiễn của các đơn vị thành viên.
Đối với các nhà máy chế biến dầu khí, điện, có thể 
lắp đặt thêm cảm biến, đẩy mạnh việc thu thập, phân 
tích dữ liệu và hỗ trợ điều hành với mục tiêu giảm sự 
cố, thời gian dừng chờ, tối ưu các chỉ số an toàn và cuối 
cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động. PVN cũng có thể 
xem xét giải pháp tối ưu hóa việc dùng chung các thiết 
bị, phụ tùng, dụng cụ thay thế, dự báo và sử dụng các 
dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa trên nền tảng chia sẻ và tích 
hợp dữ liệu. 
Với đặc điểm tích hợp theo chiều dọc, có thể xem xét 
giải pháp quản lý, tối ưu hóa toàn bộ chuỗi hoạt động dầu 
khí. Ví dụ, quá trình Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”, 
Công ty Liên doanh Điều hành Cửu Long (CLJOC) khai 
thác, bán dầu thô cho PVOIL, được Tổng công ty CP Vận 
tải Dầu khí (PV Trans) vận chuyển đến Nhà máy Lọc dầu 
Dung Quất có thể đưa vào hệ thống thông tin giúp các 
bên tham gia tối ưu hóa nguồn lực, giảm thời gian dừng 
chờ, giảm thời gian vận chuyển, lưu kho.
Công tác nghiên cứu và đào tạo phát triển nguồn 
nhân lực số phải đi trước một bước. Đại học Dầu khí Việt 
Nam đang triển khai chương trình đào tạo chuyển đổi 
nhận thức về quản trị và chuyển đổi số Best-In-Class (BIC), 
được VPI, Biển Đông POC, Phú Quốc POC tích cực tham 
gia. Tại VPI đã hình thành nhóm nghiên cứu, chuyên theo 
dõi và cập nhật các cơ hội phát triển và ứng dụng công 
nghệ số trong quản lý và sản xuất kinh doanh. Trong công 
tác quản lý, VPI đang triển khai theo 3 hướng: xây dựng 
trung tâm dữ liệu thăm dò khai thác, xây dựng hệ thống 
quản lý tri thức VPI Insights và đưa các công cụ quản lý, 
chia sẻ lên nền tảng đám mây của Microsoft. Trong nghiên 
cứu phục vụ sản xuất kinh doanh, VPI đang triển khai theo 
3 hướng: phát triển, ứng dụng các thuật toán hiện đại vào 
phân tích dữ liệu giảm thiểu rủi ro thăm dò; phát triển, 
ứng dụng các thuật toán hiện đại vào phân tích dữ liệu, 
tối ưu khai thác; tối ưu hiệu quả hoạt động các nhà máy 
lọc dầu.
5. Kết luận
Trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay do đại dịch 
COVID-19, cũng như một số nguyên nhân chủ quan và 
khách quan khác, chuyển đổi số có thể coi như chiến lược 
tái cơ cấu theo chiều sâu, nhằm nâng cao sức cạnh tranh 
và khả năng nắm bắt các cơ hội hiện tại và tương lai của 
ngành dầu khí. Hy vọng các ý kiến đề xuất trên đây sẽ là 
những gợi ý hữu ích cho một chương trình chuyển đổi số 
đầy đủ và quy mô hơn cho PVN.
Tài liệu tham khảo
[1] Microsoft, “Unlocking the economic Impact of 
digital transformation in Asia Pacific”, Report of Microsoft 
Asia Digital Transformation Study, 2018.
[2] Deloitte, “From bytes to barrels: The digital 
transformation in upstream oil and gas”, 2017. [Online]. 
Available: https://www2.deloitte.com/content/dam/
11DẦU KHÍ - SỐ 12/2020 
PETROVIETNAM
Deloitte/global/Documents/Energy-and-Resources/gx-
online-from-bytes-to-barrels.pdf.
[3] Deloitte, “Turning downstream disruption 
into competitive advantage”, 2018. [Online]. Available: 
https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/
us/Documents/energy-resources/us- er-turning-
downstream-distruption-into-competitive-advantage.
pdf.
[4] Deloitte Insights, “The new frontier: Bringing 
the digital revolution to midstream oil and gas”, 2018. 
[Online]. Available: https://www2.deloitte.com/content/
dam/Deloitte/cn/Documents/energy-resources/deloitte-
cn-eri-the-new-frontier-en-190424.pdf.
[5] Aveva, “Digitalisation in downstream oil & gas”, 
2018. [Online]. Available: https://www.petroleum-
economist.com/media/4867/aveva-digitalisation-
i n - d o w n s t r e a m - o i l - a n d - g a s - r e p o r t - 2 1 0 3 1 8 .
pdf?platform=hootsuite&platform=hootsuite.
[6] Nguyen Hong Minh, “Petroleum exploration 
geophysics: The pioneer in industry 4.0 era”, Proceeding of 
the 15th Regional Congress on Geology, Minerals and Energy 
of Southeast Asia (GEOSEA XV)”, Hanoi, 16 - 17 October 2018.
[7] Nguyễn Hồng Minh, “Chuyển đổi số: Thực trạng 
và triển vọng nào cho chúng ta”, Kỷ yếu Hội thảo Chuyển 
đối trong công nghiệp dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt 
Nam, 2017.
[8] Andreea Ene and Terry Josst, “How technology is 
changing the oil and gas landscape-for the better”, Energy 
CIO Insights, 2018.
[9] McKinsey Global Institute, “Beyond the super 
cycle: How technology is reshaping resources”, MGI 
Publication, 2017. 
[10] Oil & Gas Journal, “Digital transformation: 
Powering the oil & gas industry”, 1/8/2018. [Online]. 
Available: https://www.ogj.com/home/article/17297879/
digital-transformation-powering-the-oil-gas-industry. 
[11] World Economic Forum, “Digital transformation 
initiative-oil and gas industry”, World Economic Forum 
Publication, 2017.
Summary
Digital transformation is the integration of digital technologies into the operations of businesses and organisations to fundamentally 
change the way they operate and their business models and deliver new values to customers. Digital transformation, therefore, requires 
advanced management platform, and management transformation in parallel with digital transformation.
The article analyses the digital transformation model in E&P proposed by Deloitte (Deloitte's Digital Operations Transformation), the 
current status of digital management and digital transformation in customer relationships, and fundamental challenges in the digital 
transformation process; and proposes digital transformation solutions for Vietnam's oil and gas industry. 
Key words: Digital transformation, oil and gas industry, Digital Operations Transformation.
DIGITAL TRANSFORMATION IN THE OIL AND GAS INDUSTRY:
SITUATION AND PROSPECTS IN VIETNAM
Nguyen Hong Minh
Vietnam Petroleum Institute
Email: nguyenhongminh@vpi.pvn.vn 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_doi_so_trong_cong_nghiep_dau_khi_thuc_trang_va_trien.pdf