Nghiện internet và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Nghiện internet đang ngày càng trở nên phổ biến đặc biệt là ở thanh thiếu niên và có thể gây nên những tác động tiêu cực. Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nghiện internet ở học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 1492 học sinh tại 4 trường trung học cơ sở (khối 8, 9) và 4 trường trung học phổ thông (khối 10, 11, 12). Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền bao gồm các thông tin về đặc điểm cá nhân, thói quen sử dụng internet, nghiện internet, sự gắn kết với cha mẹ và sự gắn kết với trường lớp. Nghiện internet được đánh giá bằng thang đo IAT. Kết quả: Tỉ lệ học sinh nghiện internet là 59,0%. Kết quả từ mô hình đa biến cho thấy học sinh có thời gian truy cập internet nhiều hơn, truy cập internet để đăng ảnh, gửi thư điện tử, sử dụng mạng xã hội có tỉ lệ nghiện internet cao hơn. Trong khi học sinh được mẹ bảo vệ quá mức có tỉ lệ nghiện internet cao hơn thì sự quan tâm của cha và mẹ là yếu tố bảo vệ của nghiện internet. Kết luận: Tỉ lệ nghiện internet của học sinh tại TP. HCM ở mức cao và có mối liên quan với thói quen sử dụng internet. Sự quan tâm của cha mẹ giúp giảm nghiện internet. Vì thế, gia đình cần có những biện pháp hỗ trợ phù hợp cho học sinh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiện internet và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 153 NGHIỆN INTERNET VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Võ Kim Duy1, Dương Thị Huỳnh Mai1, Trần Nguyễn Giang Hương1, Đặng Thị Thiện Ngân1, Thái Thanh Trúc1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nghiện internet đang ngày càng trở nên phổ biến đặc biệt là ở thanh thiếu niên và có thể gây nên những tác động tiêu cực. Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nghiện internet ở học sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 1492 học sinh tại 4 trường trung học cơ sở (khối 8, 9) và 4 trường trung học phổ thông (khối 10, 11, 12). Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền bao gồm các thông tin về đặc điểm cá nhân, thói quen sử dụng internet, nghiện internet, sự gắn kết với cha mẹ và sự gắn kết với trường lớp. Nghiện internet được đánh giá bằng thang đo IAT. Kết quả: Tỉ lệ học sinh nghiện internet là 59,0%. Kết quả từ mô hình đa biến cho thấy học sinh có thời gian truy cập internet nhiều hơn, truy cập internet để đăng ảnh, gửi thư điện tử, sử dụng mạng xã hội có tỉ lệ nghiện internet cao hơn. Trong khi học sinh được mẹ bảo vệ quá mức có tỉ lệ nghiện internet cao hơn thì sự quan tâm của cha và mẹ là yếu tố bảo vệ của nghiện internet. Kết luận: Tỉ lệ nghiện internet của học sinh tại TP. HCM ở mức cao và có mối liên quan với thói quen sử dụng internet. Sự quan tâm của cha mẹ giúp giảm nghiện internet. Vì thế, gia đình cần có những biện pháp hỗ trợ phù hợp cho học sinh. Từ khóa: nghiện internet, trung học cơ sở, trung học phổ thông ABSTRACT INTERNET ADDICTION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG SECONDARY AND HIGH SCHOOL STUDENTS IN HO CHI MINH CITY Vo Kim Duy, Duong Thi Huynh Mai, Tran Nguyen Giang Huong, Dang Thi Thien Ngan, Thai Thanh Truc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 153 - 160 Background: Internet addiction has become more and more popular especially among adolescents, resulting in adverse effects. This study estimated the prevalence and associated factors of internet addiction among students in Ho Chi Minh city. Methods: A cross-sectional study was conducted among 1492 students in 4 secondary schools (grade 8, 9) and 4 high schools (grade 10, 11, 12). Students completed a self-report questionnaire including information about demographic characteristics, internet-using habits, internet addiction, parental bonding and school connectedness. Internet addiction was measured through IAT. Results: The prevalence of internet addiction was 59.0%. Multivariable analysis showed that students who had more time to access the internet or accessed the internet to post photos, send email, use social networking sites had higher prevalence of internet addiction. While students with overprotective mothers had higher prevalence of internet addiction, parental care was the protective factor against internet addiction. 1Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Võ Kim Duy ĐT: 0357600067 Email: kimduyvo08@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 154 Conclusion: The prevalence of internet addiction among students in Ho Chi Minh City was high and was associated with internet-using habits. Parental care helped decrease internet addiction. Therefore, families should take appropriate strategies to support students. Keywords: internet addiction, secondary school, high school ĐẶT VẤN ĐỀ Với tốc độ phát triển nhanh chóng, internet đang được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới và trở thành một phương tiện hữu ích không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Theo báo cáo vào tháng 5 năm 2020, thế giới có hơn 4,6 tỉ người sử dụng internet và tại Việt Nam ghi nhận hơn 68 triệu người với chủ yếu là thanh thiếu niên(1). Lứa tuổi thanh thiếu niên là giai đoạn quan trọng cho sự phát triển thể chất, nhận thức và hành vi(2). Vì thế, nghiện internet ở thanh thiếu niên là một vấn đề đáng quan tâm trong các chương trình giáo dục sức khỏe(3). Tỉ lệ nghiện internet ở thanh thiếu niên ngày càng gia tăng ở các nước Châu Á. Nghiên cứu năm 2014 về tình trạng nghiện internet ở sáu nước Châu Á ghi nhận tỉ lệ nghiện internet cao nhất tại Philippin (50,9%), Nhật Bản (47,5%) và thấp nhất tại Hàn Quốc (13,7%)(3). Tại Việt Nam, nghiên cứu khảo sát tỷ lệ nghiện internet thực hiện trên học sinh trung học cơ sở (THCS) thuộc Đồng Nai năm 2017 là 51,1%(4), trên học sinh trung học phổ thông (THPT) tỉnh Phú Yên năm 2018 là 56,7%(5). Bên cạnh mức độ phổ biến ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nghiện internet còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Theo một phân tích tổng hợp gồm tám bài báo với 1641 bệnh nhân nghiện internet cho thấy mối liên quan giữa nghiện internet và tình trạng lạm dụng rượu, tăng động giảm chú ý, lo lắng và trầm cảm(6). Việc sử dụng Internet quá nhiều còn dẫn tới các tác động không tốt đến não bộ, sức khỏe, giáo dục và tương tác xã hội của thanh thiếu niên(7). Do đó, việc đánh giá và có biện pháp ngăn ngừa sớm là hoàn toàn cần thiết. Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan của nghiện internet ở học sinh tại TP. HCM. Đây là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục lớn nhất của Việt Nam nên tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận dễ dàng với internet. Kết quả của nghiên cứu sẽ phản ánh mức độ phổ biến của tình trạng nghiện internet ở học sinh và gợi ý các yếu tố liên quan. Từ đó, gia đình và nhà trường có thể định hướng được các chiến lược phòng ngừa hiệu quả để ngăn chặn những hậu quả nghiêm trọng xảy ra trên các học sinh có nguy cơ nghiện internet. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Được thực hiện ở học sinh THCS (khối 8,9) và THPT (khối 10, 11, 12) từ tháng 9/2019 đến tháng 7/2020 thuộc các quận 3, 5, Tân Phú ... ) Mục đích truy cập internet Mạng xã hội 1379 (92,4) 832 (94,4) 547 (89,5) 0,001 1,99 (1,35-2,93) Nghe nhạc 1161 (77,8) 716 (81,3) 445 (72,8) <0,001 1,62 (1,27-2,07) Xem phim 1120 (75,1) 692 (78,6) 428 (70,1) <0,001 1,57 (1,24-1,98) Học tập 1086 (72,8) 656 (74,5) 430 (70,4) 0,082 1,23 (0,97-1,55) Nói chuyện với người khác 1073 (71,9) 673 (76,4) 400 (65,5) <0,001 1,71 (1,36-2,14) Chơi game 1046 (70,1) 641 (72,8) 405 (66,3) 0,007 1,36 (1,09-1,70) Tìm kiếm thông tin 1037 (69,5) 643 (73,0) 394 (64,5) <0,001 1,49 (1,19-1,86) Đọc tin tức 796 (53,4) 495 (56,2) 301 (49,3) 0,008 1,32 (1,07-1,62) Mua sắm 608 (40,8) 395 (44,8) 213 (34,9) <0,001 1,52 (1,23-1,88) Gửi thư điện tử 565 (37,9) 384 (43,6) 181 (29,6) <0,001 1,84 (1,47-2,28) Đăng ảnh 515 (34,5) 358 (40,6) 157 (25,7) <0,001 1,98 (1,58-2,48) Hơn 90% học sinh sử dụng internet hàng ngày và trong đó chủ yếu truy cập từ 2-4 giờ/ngày (45,8%). Học sinh dùng càng nhiều thời gian sử dụng internet thì khả năng nghiện internet càng cao. Phần lớn học sinh thường truy cập internet ở nhà trong phòng riêng (85,0%). Tình trạng nghiện internet có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với các địa điểm truy cập internet (p <0,05). Điện thoại di động là thiết bị mà học sinh thường dùng nhất để truy cập internet (92,0%). Các phương tiện như điện thoại di động, máy tính bảng, máy tính cá nhân hay dùng chung đều có mối liên quan đến nghiện internet (p <0,05). Đa số học sinh khi sử dụng internet đều truy cập vào các trang mạng xã hội (92,4%), một số hoạt động cũng chiếm tỉ lệ cao như nghe nhạc (77,8%), xem phim (75,1%), học tập (72,8%), nói chuyện với người khác (71,9%), chơi game (70,1%). Hầu hết các yếu tố này đều liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng nghiện internet ở học sinh (Bảng 2). Phần lớn các học sinh đều sống chung với cả cha và mẹ (85,5%). Gần một nửa số học sinh tham gia cảm nhận được sự quan tâm của cha Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 158 (48,2%) và mẹ (41,1%). Trong khi đó có gần hai phần ba học sinh cảm thấy cha mẹ bảo vệ quá mức (với cha là 62,1% và mẹ là 61,8%). Sự quan tâm của cha mẹ là yếu tố góp phần làm giảm nghiện internet ở học sinh. Tỷ lệ học sinh nghiện internet có sự quan tâm của cha (48,2%), hoặc sự quan tâm của mẹ (34,1%) là thấp hơn so với tỷ lệ này ở nhóm học sinh không nghiện internet lần lượt là 58,2% và 50,9%. Trong khi đó, nhóm học sinh nghiện internet lại có tỷ lệ bảo vệ quá mức của cha hoặc của mẹ lại cao hơn so với nhóm học sinh không nghiện internet (Bảng 3). Bảng 3: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm gia đình của học sinh (n=1492) Đặc điểm Tổng n=1492 n (%) Nghiện internet p OR (KTC 95%) Có (n=881; 59,0%) n (%) Không (n=611; 41,0%) n (%) Người đang sống chung Cha và mẹ 1275 (85,5) 741 (84,1) 534 (87,4) 0,077 0,76 (0,57-1,03) Cha hoặc mẹ 175 (11,7) 111 (12,6) 64 (10,5) 0,210 1,23 (0,89-1,71) Họ hàng 140 (9,4) 86 (9,8) 54 (8,8) 0,548 1,12 (0,78-1,59) Khác 26 (1,7) 13 (1,5) 13 (2,1) 0,347 0,69 (0,32-1,50) Sự gắn kết với cha mẹ Quan tâm của cha (n=1365) 658 (48,2) 329 (41,1) 329 (58,2) <0,001 0,50 (0,40-0,62) Quan tâm của mẹ (n=1397) 574 (41,1) 277 (34,1) 297 (50,9) <0,001 0,50 (0,40-0,62) Bảo vệ quá mức của cha (n=1365) 847 (62,1) 541 (67,6) 306 (54,2) <0,001 1,77 (1,42-2,21) Bảo vệ quá mức của mẹ (n=1397) 863 (61,8) 560 (68,9) 303 (51,9) <0,001 2,05 (1,65-2,56) Bảng 4: Phân bố của tỉ lệ nghiện internet theo các đặc điểm gắn kết với trường lớp của học sinh (n=1492) Đặc điểm Tổng n=1492 n (%) Nghiện internet p OR (KTC 95%) Có (n=881; 59,0%) n (%) Không (n=611; 41,0%) n (%) Thấy vui khi học tại trường Có 1099 (73,7) 616 (69,9) 483 (79,1) <0,001 0,62 (0,48-0,78) Không 393 (24,3) 265 (30,1) 128 (20,9) 1 Cảm thấy an toàn ở trường Có 1079 (72,3) 629 (71,4) 450 (73,7) 0,339 0,89 (0,71-1,13) Không 413 (27,7) 252 (28,6) 161 (26,3) 1 Rất thích là học sinh của trường Có 1065 (71,4) 607 (68,9) 458 (75,0) 0,011 0,74 (0,59-0,93) Không 427 (28,6) 274 (31,1) 153 (25,0) 1 Cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường Có 930 (62,3) 530 (60,2) 400 (65,5) 0,038 0,80 (0,64-0,99) Không 562 (37,7) 351 (39,8) 211 (34,5) Giáo viên trong trường đối xử công bằng với học sinh Có 844 (56,6) 472 (53,6) 372 (60,9) 0,005 0,74 (0,60-0,91) Không 648 (43,4) 409 (46,4) 239 (39,1) 1 Về mức độ gắn kết với trường lớp, phần lớn các học sinh cảm thấy vui khi học tại trường (73,7%), cảm thấy an toàn ở trường (72,3%), rất thích là học sinh của trường (71,4%). Học sinh cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường (62,3%) và cho rằng giáo viên đối xử công bằng với học sinh (56,6%). Những cảm nhận của học sinh về trường lớp có liên quan đến tình trạng nghiện internet. Đối với nhóm học sinh có nghiện internet, tỷ lệ các học sinh này cảm thấy vui khi học tại trường, cảm thấy an toàn ở trường, rất thích là học sinh của trường, cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường hay cảm thấy giáo viên trong trường đối xử công bằng với học sinh đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các tỷ lệ này ở nhóm học sinh không nghiện internet với các giá trị OR <1 và p <0,05 (Bảng 4). Kết quả phân tích đa biến cho thấy nhóm học sinh nghiện internet có tỉ lệ sử dụng internet Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 159 từ 2 giờ trở lên, truy cập các trang mạng xã hội, đăng ảnh và gửi thư điện tử cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các tỉ lệ này ở nhóm không nghiện internet với OR>1 và p <0,001. Về sự gắn kết giữa học sinh và cha mẹ, nhóm học sinh nghiện internet có tỉ lệ được mẹ bảo vệ quá mức cao hơn nhóm không nghiện internet. Trong khi đó, nhóm học sinh nghiện internet có tỉ lệ cha hoặc mẹ quan tâm thấp hơn so với nhóm không nghiện internet (Bảng 5). Bảng 5. Mô hình đa biến giữa nghiện internet và các đặc điểm của học sinh (n=1492) Đặc điểm p OR (KTC 95 %) Thời gian truy cập internet <2 giờ/ngày 1 2-4 giờ/ngày <0,001 1,81 (1,30-2,52) >4 giờ/ngày <0,001 2,86 (2,01-4,06) Mục đích truy cập internet Đăng ảnh 0,003 1,52 (1,16-2,00) Mạng xã hội 0,043 1,59 (1,01-2,50) Gửi thư điện tử 0,032 1,33 (1,02-1,73) Sự gắn kết với cha mẹ Quan tâm của cha <0,001 0,65 (0,50-0,85) Quan tâm của mẹ 0,047 0,76 (0,58-0,99) Bảo vệ quá mức của mẹ <0,001 1,88 (1,47-2,41) BÀN LUẬN Đây là nghiên cứu đầu tiên được tiến hành tại 4 quận/huyện của TP. HCM. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh THCS và THPT nghiện internet là khá cao so với nghiên cứu trước đây ở các nước Châu Á(3). Điều này có thể do Việt Nam là một trong tám quốc gia có số người sử dụng internet cao nhất Châu Á(1). Trong cuộc thăm dò ý kiến toàn cầu với hơn 10.000 thanh thiếu niên tại 25 quốc gia do UNICEF thực hiện vào năm 2016 cho thấy 72% thanh thiếu niên Việt Nam sử dụng internet(11). Tỉ lệ học sinh nghiện internet ghi nhận cũng cao hơn so với nghiên cứu trước đây trên khối THCS tại Đồng Nai(4,12) hay khối THPT tại Phú Yên(5). Có thể thấy tình trạng nghiện internet đang ngày càng phổ biến và cần được quan tâm ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Internet mang lại rất nhiều lợi ích, thế nhưng sử dụng như thế nào để không bị lệ thuộc cần phải xem xét và có giải pháp phòng ngừa. Mối liên quan giữa nghiện internet và thời gian truy cập internet được tìm thấy tương đồng với các nghiên cứu trước đây(13). Tuy nhiên, đây là nghiên cứu cắt ngang nên gây khó khăn trong việc đánh giá chiều hướng liên quan. Hiện vẫn chưa rõ học sinh dành nhiều thời gian để truy cập internet góp phần vào nghiện internet hay nghiện internet khiến học sinh dùng nhiều thời gian sử dụng mạng. Nghiên cứu ghi nhận nghiện internet gia tăng ở nhóm học sinh sử dụng mạng xã hội, tương đồng với khảo sát tại Hà Lan(14). Nghiên cứu còn tìm thấy mối liên quan giữa mục đích đăng ảnh và gửi thư điện tử với tình trạng nghiện internet của học sinh. Đây cũng là phát hiện mới chưa được ghi nhận trong các nghiên cứu trước đây. Từ khi xuất hiện, internet được các thanh thiếu niên yêu thích vì đây là công nghệ hứa hẹn mang lại niềm vui, thú vị và sáng tạo. Các học sinh thích tạo một hồ sơ trên mạng để kết bạn mới, đăng ảnh và trò chuyện(15). Ở độ tuổi này, thanh thiếu niên thường biểu lộ rõ tính tự lập, tâm lý cho rằng người lớn không đánh giá đúng đắn, nghiêm túc những điều các em nghĩ, những việc các em làm cũng như sự trưởng thành của các em. Do đó, thanh thiếu niên dễ có xu hướng xa lánh người lớn(2). Việc nắm bắt được tâm lý lứa tuổi và xác định các học sinh có nguy cơ cao nghiện internet sẽ giúp ích cho việc đưa ra các biện pháp can thiệp phù hợp. Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng nghiện internet và sự gắn kết với cha mẹ. Trong khi cha mẹ quan tâm con cái giúp giảm tỉ lệ nghiện internet thì sự bảo vệ quá mức làm tăng tỉ lệ này. Kết quả tương đồng với nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ(16), Hy Lạp(17) và một lần nữa cho thấy vai trò của cha mẹ đối với vấn đề nghiện internet ở học sinh. Những thanh thiếu niên được cha mẹ quan tâm sẽ dành thời gian cho các hoạt động khác thay vì sử dụng internet. Điều này thúc đẩy sự phát triển thể chất, nhận thức và xã hội. Nếu thiếu đi sự hỗ trợ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 160 từ phía gia đình, thanh thiếu niên có xu hướng tìm kiếm sự hỗ trợ từ xã hội thông qua các trải nghiệm trên mạng(16,18). Việc kiểm soát con cái quá mức của mẹ có thể gây nên những hậu quả tiêu cực. Từ đó, gợi ý một cách phong cách nuôi dạy phù hợp là khi cha mẹ quan tâm, bảo vệ nhưng cần tôn trọng tự chủ của con cái. Mặc dù, nghiên cứu đã tiến hành kiểm soát các sai lệch thông tin có thể xảy ra. Tuy nhiên, công cụ mà nghiên cứu sử dụng là bộ câu hỏi tự điền có thể gây ra sai lệnh thông tin do quá trình hồi tưởng và tự báo cáo. Đây cũng là hạn chế cần được lưu ý của nghiên cứu. KẾT LUẬN Tỉ lệ nghiện internet ở học sinh ở mức cao và có mối liên quan đến thói quen sử dụng internet, sự gắn kết với cha mẹ. Vì thế, gia đình cần có các biện pháp phù hợp để quản lý tốt quỹ thời gian sử dụng internet, các hoạt động trên mạng của học sinh. Bên cạnh đó, cha mẹ cũng quan tâm con cái nhiều hơn, lắng nghe và chia sẻ với các em cách sử dụng internet hiệu quả. Tuy nhiên, cũng không nên kiểm soát con cái quá mức khiến các em muốn che giấu các hoạt động của mình trên internet. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Internet World Stats (2020). Internet Usage in Asia. URL: https://www.internetworldstats.com/stats3.htm. 2. Vũ Thị Nho (2008). Những đặc điểm tâm lý của tuổi thiếu niên. In: Vũ Thị Nho. Tâm lý học phát triển, pp.60-64. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 3. Mak K, Lai CM, Watanabe H et al (2014). Epidemiology of Internet Behaviors and Addiction Among Adolescents in Six Asian Countries. Cyberpsychology, Behavior and Social Networking, 17(11):720-728. 4. Nguyễn Trường Viên, Trần Thị Anh Thư, Thái Thanh Trúc (2018). Mối liên quan giữa nghiện Internet và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở Nguyễn Công Trứ Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):339-346. 5. Đoàn Thị Linh Hiếu (2019). Tỉ lệ nghiện internet và mối liên quan với trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Lê Lợi, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên năm 2019. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ Y học dự phòng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 6. Ho RC, Zang MWB, Tsang TY et al (2014). The association between internet addiction and psychiatric co-morbidity: a meta-analysis. BMC Psychiatry, 14(1):1-10. 7. Phạm Thị Thuỳ Linh (2017). Ảnh hưởng của mạng internet đối với giới trẻ: Cái nhìn từ phía khoa học thần kinh. Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Giáo dục, 33(3):1-8. 8. Boysan M, Kuss DJ, Barut Y et al (2017). Psychometric properties of the Turkish version of the internet addiction test (IAT). Addictive Behaviors, 64(1):247-252. 9. Milani L, Osualdella D, Blasio PD (2009). Quality of Interpersonal Relationships and Problematic Internet Use in Adolescence. CyberPsychology & Behavior, 12(6):681-684. 10. Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Thị Phương (2013). Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở. Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 29(2):34-42. 11. Unicef (2017). Làm cho thế giới công nghệ số an toàn hơn cho trẻ em – đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận trực tuyến nhằm mang lại lợi ích cho những em thiệt thòi nhất. URL: https://uni.cf/3iIEX2B. 12. Lê Minh Công (2013). Tình trạng nghiện internet ở học sinh trung học cơ sở tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Y tế Công cộng, 28(28):70-78. 13. Lam LT (2015). Parental mental health and Internet Addiction in adolescents. Addictive Behaviors, 42(1):20-23. 14. Kuss DJ, Van Rooji AJ, Shorter GW et al (2013). Internet addiction in adolescents: Prevalence and risk factors. Computers in Human Behavior, 29(5):1987–1996. 15. Yusof SHM, Othman SH (2018). The Cyberpsychology Factors of Internet Addiction among School Teenagers. International Journal of Innovative Computing, 8(3):31-37. 16. Bhagat G, Sehgal M (2011). The relationship of parental bonding and internet addiction. Indian Journal of Psychological Scienc, 2(2):29-37. 17. Floros G, Siomos K (2013). The relationship between optimal parenting, Internet addiction and motives for social networking in adolescence. Psychiatry Research, 209(1):529–534 18. Tichon J, Shapiro M (2003). The Process of Sharing Social Support in Cyberspace. Cyberpsychology & Behavior, 6(2):161-170. Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
- nghien_internet_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_hoc_sinh_trung_hoc.pdf