Nghiên cứu thử nghiệm xử lý thuốc bảo vệ thực vật Glyphosat bằng công nghệ oxy hóa điện hóa
Các hoá chất độc hại thuộc nhóm chất hữu cơ khó phân huỷ trong môi trường (POPs) được phân loại theo Công ước Stockholm bao gồm: DDT, Lindan, Endrin, Dieldrin; Các hợp chất POPs được chia thành ba nhóm chính: (1) các hoá chất bị cấm triệt để và cần phải tiêu huỷ; (2) các hoá chất công nghiệp cần giảm sản xuất và cấm sử dụng; (3) các hoá chất phát sinh không chủ định.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thử nghiệm xử lý thuốc bảo vệ thực vật Glyphosat bằng công nghệ oxy hóa điện hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thử nghiệm xử lý thuốc bảo vệ thực vật Glyphosat bằng công nghệ oxy hóa điện hóa
46 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 Kết quả nghiên cứu KHCN I. MỞ ĐẦU Việt Nam là một nướcnông nghiệp với diệntích trồng các loại cây lương thực và hoa màu rất lớn. Trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc, nông nghiệp luôn có vai trò quan trọng trong đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Hoá chất bảo vệ thực vật là nhân tố không thể thiểu trong quá trình phát triển nông nghiệp. Tại Việt Nam, hoá chất bảo vệ thực vật sử dụng từ những năm 40 của thế kỷ 20 và khối lượng hoá chất bảo vệ thực vật được sử dụng được thống kê tăng dần theo từng năm. Do sự hạn chế về kiến thức trong việc sử dụng của người dân và quản lý sử dụng của các đơn vị chức năng nên hoá chất bảo vệ thực vật chỉ được coi trọng về mặt tích cực (phòng và diệt dịch hại) mà coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường và xử lý ô nhiễm do hoá chất bảo vệ thực vật. POP là từ viết tắt của cụm từ tiếng Anh Persistant Organic Polutants, được dùng để chỉ nhóm chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trong môi trường với 4 đặc tính chính: độc tính cao, khó phân huỷ, khả năng di chuyển phát tán xa, có khả năng tích tụ sinh học. Các hoá chất độc hại thuộc nhóm chất hữu cơ khó phân huỷ trong môi trường (POPs) được phân loại theo Công ước Stockholm bao gồm: DDT, Lindan, Endrin, Dieldrin^ Các hợp chất POPs được chia thành ba nhóm chính: (1) các hoá chất bị cấm triệt để và cần phải tiêu huỷ; (2) các hoá chất công nghiệp cần giảm sản xuất và cấm sử dụng; (3) các hoá chất phát sinh không chủ định. Hóa chất bảo vệ thực vật loại POPs khi được phun hay rải trên đối tượng một phần sẽ được đưa vào cơ thể động, thực vật. Qua quá trình hấp thu, sinh trưởng, phát triển hay qua chuỗi thức ăn, hóa chất bảo vệ thực vật POPs sẽ được tích tụ trong nông phẩm hay tích lũy, khuếch đại sinh học. Một phần khác sẽ rơi vãi ngoài đối tượng, sẽ bay hơi vào môi trường hay bị cuốn trôi theo nước mưa, đi vào môi trường đất, nước, không khí... gây ô nhiễm môi trường. Môi trường thành phần như đất, nước, không khí là một hệ thống hoàn chỉnh có sự tương tác và tương hỗ lẫn nhau. Sự ô nhiễm của môi trường này sẽ tác động đến môi trường xung quanh và ngược lại. Vì vậy, việc xử lý dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật nói chung và xử lý các nguồn nước ô nhiễm hóa chất POPs nói riêng ở nước ta là rất cấp thiết. NGHIEÂN CÖÙU THÖÛ NGHIEÄM XÖÛ LYÙ THUOÁC BAÛO VEÄ THÖÏC VAÄT GLYPHOSAT BAÈNG COÂNG NGHEÄ OXY HOAÙ ÑIEÄN HOAÙ TS. Lê Thanh Sơn, Đoàn Tuấn Linh Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hình minh họa: nguồn internet Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2017 47 Kết quả nghiên cứu KHCN 2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ POP 2.1. Phương pháp màng lọc Dư lượng hoá chất BVTV trong môi trường thường là dạng ít tan trong nước và có kích thước rất nhỏ. Do vậy để loại bỏ dư lượng hoá chất BVTV trong môi trường bằng phương pháp màng lọc, người ta thường sử dụng các loại màng có kích thước lỗ rất nhỏ. Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng phương pháp màng lọc để xử lý hoá chất BVTV, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Plakas và cộng sự (2012) đã nghiên cứu loại bỏ thuốc trừ sâu ra khỏi nước bằng phương pháp lọc nano (Nanofiltration) và thẩm thấu ngược (Reverse Osmosis - RO). Nghiên cứu này, ngoài việc chỉ ra khả năng loại bỏ thuốc trừ sâu bằng phương pháp màng, còn đưa ra các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng loại bỏ thuốc trừ sâu như: vật liệu cấu tạo của màng, kích thước lỗ màng, khả năng khử muối của màng^ Mehta và cộng sự (2015) đã nghiên cứu sử dụng màng RO để loại bỏ 2 loại thuốc trừ sâu thuộc họ phenyl là diuron và isoproturon. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng có tới hơn 95% thuốc trừ sâu bị loại bỏ ra khỏi nước thải nông nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các axit hữu cơ có trong nước không có ảnh hưởng nhiều tới việc loại bỏ hai loại thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, phương pháp màng lọc chỉ là giải pháp phân tách và cô lập các hóa chất BVTV chứ chưa xử lý triệt để, sau đó vẫn phải áp dụng các công nghệ khác để phân hủy thành các sản phẩm không gây hại. 2.2. Phương pháp hấp phụ Khi sử dụng phương pháp hấp phụ để xử lý hoá chất BVTV, xu hướng của các nhà nghiên cứu thường là tận dụng các nguồn vật liệu giá rẻ để làm chất hấp phụ. Một số công trình xử lý hoá chất BVTV bằng phương pháp hấp phụ tiêu biểu như: Rojas và cộng sự (2015) đã nghiên cứu sử dụng các vật liệu giá rẻ để loại bỏ thuốc trừ sâu ra khỏi nước bằng phương pháp hấp phụ. Các vật liệu được nghiên cứu như: vỏ hạt hướng dương, vỏ trấu, bùn compose và đất nông nghiệp. Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra rằng vỏ trấu có khả năng hấp phụ tốt nhất để loại bỏ thuốc trừ sâu ra khỏi nước. Moussavi và cộng sự (2013) đã nghiên cứu loại bỏ thuốc trừ sâu diazinon ra khỏi nước ô nhiễm bằng cách sử dụng phương pháp hấp phụ bằng than hoạt tính có tẩm NH4Cl. Kết quả chỉ ra rằng tối đa có 97,5% diazinon 20mg/l bị hấp phụ lên than hoạt tính có tẩm NH4Cl. Cũng giống như phương pháp màng lọc, phương pháp hấp phụ chỉ là giải pháp phân tách và cô lập các hóa chất BVTV chứ chưa xử lý triệt để, sau đó vẫn phải áp dụng các công nghệ khác để phân hủy thành các sản phẩm không gây hại. Ngoài ra, giới hạn của dung lượng hấp phụ của các vật liệu cũng là một điểm hạn chế của phương pháp này. 2.3. Phương pháp sinh học Xử lý hoá chất BVTV bằng phương pháp sinh học là quá trình sử dụng các loại vi sinh vật có khả năng phân huỷ các chất hữu cơ bền ở trong thành phần của thuốc BVTV. Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu này chưa nhiều, điển hình là: Shawaqfeh (2010) đã nghiên cứu sử dụng hệ thống kết hợp giữa quá trình kị khí và quá trình hiếu khí để xử lý thuốc trừ sâu trong nước. Nghiên cứu này đã thiết lập hai hệ thống riêng biệt để đánh giá hai quá trình xử lý kị khí và hiếu khí. Kết quả cho thấy rằng trên 96% thu
File đính kèm:
- nghien_cuu_thu_nghiem_xu_ly_thuoc_bao_ve_thuc_vat_glyphosat.pdf