Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam

Tàu biển thương mại ngày càng được trang bị rất

nhiều thiết bị, hệ thống tự động hóa, công nghệ

thông tin hiện đại dựa trên máy tính và internet.

Điều này cũng đồng nghĩa với việc luôn có các

mối đe dọa tấn công mạng, mà hậu quả có thể

ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành hàng hải.

Thuyền viên Việt Nam được trang bị khá hạn chế

kiến thức về an ninh mạng. Nhiều thuyền viên vẫn

chưa nhận thức đầy đủ về các mối nguy hiểm và

hậu quả cùng các cách thức tấn công mạng nhằm

vào tàu biển để có các biện pháp phòng tránh

hiệu quả. Ngay cả trong nội dung những chương

trình huấn luyện an ninh cho thuyền viên (có cấp

chứng chỉ), cũng chưa đề cập đến vấn đề an ninh

mạng và an ninh mạng đối với tàu biển

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 1

Trang 1

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 2

Trang 2

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 3

Trang 3

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 4

Trang 4

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 5

Trang 5

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 3480
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam

Nâng cao nhận thức về an ninh mạng đối với thuyền viên Việt Nam
 SỐ 63 (8-2020) 
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 
123 
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 
NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ AN NINH MẠNG 
ĐỐI VỚI THUYỀN VIÊN VIỆT NAM 
RAISING AWARENESS ON CYBER SECURITY 
FOR VIETNAMESE SEAFARERS 
ĐÀO QUANG DÂN 
Khoa Hàng hải, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam 
Email liên hệ: daoquangdan@vimaru.edu.vn 
Tóm tắt 
Tàu biển thương mại ngày càng được trang bị rất 
nhiều thiết bị, hệ thống tự động hóa, công nghệ 
thông tin hiện đại dựa trên máy tính và internet. 
Điều này cũng đồng nghĩa với việc luôn có các 
mối đe dọa tấn công mạng, mà hậu quả có thể 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành hàng hải. 
Thuyền viên Việt Nam được trang bị khá hạn chế 
kiến thức về an ninh mạng. Nhiều thuyền viên vẫn 
chưa nhận thức đầy đủ về các mối nguy hiểm và 
hậu quả cùng các cách thức tấn công mạng nhằm 
vào tàu biển để có các biện pháp phòng tránh 
hiệu quả. Ngay cả trong nội dung những chương 
trình huấn luyện an ninh cho thuyền viên (có cấp 
chứng chỉ), cũng chưa đề cập đến vấn đề an ninh 
mạng và an ninh mạng đối với tàu biển. 
Với mục đích nâng cao nhận thức về an ninh 
mạng đối với thuyền viên Việt Nam, bài báo nêu 
lên các cách thức đang được sử dụng để tấn công 
mạng cũng như làm nổi bật đối tượng yếu nhất 
chính là thuyền viên và đề xuất các giải pháp 
nhằm loại bỏ, giảm thiểu các mối đe dọa hoặc 
tránh phạm lỗi của một cuộc tấn công mạng. 
Từ khóa: An ninh hàng hải; Các mối đe dọa đối 
với hàng hải; An ninh mạng đối với tàu biển. 
Abstract 
Commercial ships are increasingly equipped with 
a lot of equipment, automation systems, modern 
information technology based on computers and 
the internet. This also means that there are always 
cyberattacks, which can have a serious impact on 
the maritime industry. 
Vietnamese seafarers have limited knowledge of 
cyber security. Many seafarers are still not fully 
aware of the dangers and consequences, as well 
as the types of cyber attacks against ships to take 
effective preventive measures. Even in the content 
of security training programs for crews (with 
certification), did not mention the issue of cyber 
security and network security for ships. 
With purpose to raise the awareness of 
cybersecurity for Vietnamese seafarers, the article 
highlights the ways in which cyber attacks are 
used as well as highlighting the weakest target 
seafarers and proposing solutions on how to 
eliminate, minimize threats or to avoid falling foul 
of an attack cyber. 
Keywords: Maritime Security; Maritime threats; 
Cyber Security on the ships. 
1. Đặt vấn đề 
Vận tải hàng hải đóng vai trò hết sức quan trọng 
đối với nền kinh tế thế giới. Hơn 80% lượng hàng 
hóa trên thế giới tính theo thể tích và hơn 70% giá trị 
của chúng được vận chuyển bằng đường biển. Trong 
vận tải hàng hải, tàu biển là phương tiện chính và 
đóng vai trò chủ chốt. Những con tàu ngày càng sử 
dụng nhiều hơn các trang thiết bị, các hệ thống tự 
động hóa và công nghệ thông tin hiện đại. Các hệ 
thống này chủ yếu được kết nối với internet và hệ 
thống thông tin liên lạc từ xa. Các thiết bị và hệ 
thống lắp đặt trên tàu được thiết kế và vận hành bằng 
cách sử dụng máy tính và kết nối Internet và như vậy 
sẽ làm cho chúng dễ bị tấn công mạng. Đặc biệt, 
trong những trường hợp khi con tàu đang trong vùng 
ven biển hoặc ở gần bến cảng mà chúng bị tấn công 
mạng thì hậu quả có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến 
cả một khu vực rộng lớn. 
Theo dữ liệu điều tra của các cơ quan an ninh 
mạng, phần lớn các cuộc tấn công mạng trên tàu 
được vô tình kích hoạt bởi thuyền viên, khi họ có thể 
là đã mở các file đính kèm email giả hoặc siêu liên 
kết hoặc sử dụng phương tiện di động đã bị nhiễm 
virus độc hại phá hoại. Theo báo cáo khảo sát vào 
năm 2018, có đến 92% thuyền viên xác nhận rằng 
việc truy cập internet có ảnh hưởng mạnh mẽ đến họ 
và họ thường xuyên thực hiện việc này [1]. Trong 
khi đó, thuyền viên Việt Nam chưa được trang bị đầy 
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 
124 SỐ 63 (8-2020) 
đủ kiến thức về an ninh mạng một cách chính thống. 
Minh chứng cho điều này đó là, nội dung kiến thức 
thuyền viên được trang bị trong các khóa học có cấp 
chứng chỉ về an ninh dựa trên bộ luật quốc tế về an 
ninh tàu và bến cảng (ISPS) cũng không đề cập đến 
an ninh mạng. Có rất nhiều thuyền viên cho rằng với 
sự phức tạp của các hệ thống trên tàu thì các cuộc tấn 
công mạng khó có thể xảy ra. 
2. Phân tích an ninh mạng trong các văn bản 
pháp luật quốc tế 
Với vị trí và vai trò của mình Tổ chức Hàng hải 
Quốc tế (IMO) đã ban hành nhiều văn bản pháp luật 
liên quan đến an ninh, an toàn trong lĩnh vực hàng hải. 
2.1. Công ước về an toàn sinh mạng trên biển 
(SOLAS) và những bộ luật, hướng dẫn liên quan 
Điều 1 trong chương XI-2 của công ước SOLAS, 
ngay trong phần định nghĩa “sự cố an ninh bất 
thường” đã không bao gồm những rủi ro và nguy 
hiểm mạng. 
Bộ luật quốc tế chính, đặc thù nhất về an ninh đối 
với tàu biển là bộ luật ISPS. Nội dung chi tiết nhất 
của bộ luật liên quan đến an ninh tàu biển được thể 
hiện cụ thể trong các mục A/8.4, B/8 và B/15 của bộ 
luật là các quy định về thiết lập và duy trì kế hoạch 
an ninh đối với một con tàu. Tuy nhiên, cũng giống 
như SOLAS, đó là, ISPS chỉ cung cấp kế hoạch an 
ninh chống lại các mối đe dọa vật lý như cướp biển. 
Vào tháng 6 năm 2016 tổ chức IMO đã phê duyệt 
và ban hành văn bản MSC.1/Circ. 1526 “Hướng dẫn 
tạm thời về Quản lý rủi ro mạng hàng hải” trong 
phiên họp thứ 96 của Ủy ban An toàn Hàng hải. Đến 
tháng 7 năm 2017 IMO đã ban hành văn bản 
MSC-FAL.1/Circ.3, 2017 “Hướng dẫn về quản lý rủi 
ro không gian mạng hàng hải”, thay thế cho 
MSC.1/Circ. 1526. Các văn bản này chủ yếu cung 
cấp các khuyến nghị mức cao cho sự quản lý rủi ro 
không gian mạng cùng các yếu tố hỗ trợ việc quản lý 
rủi ro mạng ...  hại. Nó tạo ra một môi trường giao 
tiếp giả mạo, nơi thuyền viên nghĩ rằng đó là môi 
trường giao tiếp thực tế, khi đó nó sẽ đánh cắp mật 
khẩu giao dịch của thuyền viên, truy cập vào máy tính 
của thuyền viên và kiểm soát nó. Cuối cùng tiến hành 
đánh cắp thông tin, dữ liệu từ máy tính bị nhiễm cũng 
như các Trojans truy cập từ xa được thiết kế để cho kẻ 
tấn công toàn quyền kiểm soát máy tính. 
- Ransomware: Là một loại phần mềm độc hại 
nhằm tống tiền người dùng bằng cách xâm nhập vào 
máy tính và thao túng dữ liệu của nạn nhân bằng cách 
mã hóa các dữ liệu trong máy tính của người dùng và 
giữ nó làm con tin, buộc người dùng phải trả tiền 
chuộc để lấy lại tập tin của họ. 
- Spyware: Loại phần mềm độc hại, được thiết kế 
để ẩn trên máy tính và giám sát mọi hành động của 
người dùng. Nó có thể theo dõi web hoạt động, truy 
cập E-mail và thậm chí đánh cắp tên người dùng và 
mật khẩu. 
- Worms: Là một chương trình máy tính độc hại 
có thể sửa đổi, xóa các tập tin và thậm chí gắn thêm 
phần mềm độc hại vào máy tính. Mục tiêu chính của 
worms là tạo ra càng nhiều bản sao của nó có thể lây 
lan từ máy tính này sang máy tính khác càng tốt. Một 
worm có thể tự sao chép mà không cần bất kỳ sự 
tương tác nào của con người và không nhất thiết phải 
gắn vào chương trình. 
Phó 2
5%
Người quản 
lý IT
10%
Công ty
12%
Tất cả mọi 
người
20%
Thuyền 
trưởng
41%
Những 
người khác
12%
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 
126 SỐ 63 (8-2020) 
+ Social engineering: Đây là một cách được 
những kẻ tấn công có trình độ sử dụng nhằm thao 
túng các thuyền viên, phá vỡ quy trình an ninh, 
thông thường những kiểu tấn công này thông qua 
tương tác qua phương tiện truyền thông xã hội. Điển 
hình cho kiểu tấn công này có thể là giả mạo thông 
báo từ công ty hoặc sử dụng các cách buộc thuyền 
viên phải phản hồi ngay lập tức do tình huống khẩn 
cấp. Khi thuyền viên nhấp vào liên kết đó có thể đã 
kích hoạt phần mềm độc hại. 
+ Phishing: Bằng cách gửi E-mail đến một số 
lượng lớn các mục tiêu tiềm năng yêu cầu cung cấp 
các thông tin cá nhân nhạy cảm như yêu cầu cho biết 
tên thuyền viên, mật khẩu, số PIN hoặc làm cho nạn 
nhân truy cập một trang web giả bằng cách sử dụng 
siêu liên kết được cung cấp. Phishing, được thiết kế 
để đánh lừa thuyền viên và yêu cầu dữ liệu bí mật 
các thông tin đó. 
+ Water holing: Phát triển các web giả mạo dựa 
trên sở thích của thuyền viên đối với một trang web 
chính hãng để khai thác các thuyền viên truy cập và 
có quyền truy cập vào dữ liệu của họ. 
+ Port Scanning: Là một phần mềm ứng dụng sẽ 
sử dụng để trao đổi liên lạc qua hệ điều hành máy 
chủ và qua Internet. Một cuộc tấn công port scanning 
xảy ra khi kẻ tấn công gửi các gói dữ liệu đến một 
máy tính, thay đổi port (Port là giao thức bit 16 đứng 
đầu của mỗi tập tin trong giao thức TCP, UDP hay 
còn gọi là cánh cổng quy định các tập dữ liệu riêng 
biệt. Nó là một dạng thuật toán được định sẵn mà 
mỗi máy tính cần phải đăng ký mới có thể nhận và 
xuất tập tin được khi chúng ta đăng ký các loại port 
trên hệ thống máy tính của chúng ta sẽ giúp cho các 
tập tin được truy cập, được đưa vào đúng với địa chỉ 
port khớp với đầu bit tập tin đó) đích. Mục tiêu chính 
của cuộc tấn công đó là kiểm tra những port nào 
người dùng đã mở kết nối đến. 
+ Built-in software weaknesses: Các lỗ hổng liên 
quan đến thiếu sót kiểm soát quyền truy cập vào hệ 
thống của tàu hoặc do lỗi của thuyền viên chưa kiểm 
tra kỹ trước khi chuyển dữ liệu nhận trên mạng vào 
cơ sở dữ liệu. 
+ Third party contribution: Các nhà cung cấp 
thiết bị và những kỹ thuật viên dịch vụ có quyền truy 
cập vào hệ thống của công ty, tàu. Họ có thể để lại 
các lỗ hổng dễ bị tấn công mà công ty và tàu không 
biết. 
+ Brute force: Một cuộc tấn công bằng cách thử 
rất nhiều mật khẩu với hy vọng cuối cùng sẽ đoán 
được mật khẩu chính xác. Kẻ tấn công kiểm tra một 
cách có hệ thống tất cả các mật khẩu có thể cho đến 
khi tìm thấy mật khẩu chính xác. 
+ Denial of service (DDoS): Từ chối cung cấp 
dịch vụ được thiết kế để ngăn người dùng hợp pháp 
và được ủy quyền truy cập thông tin, thường là bằng 
cách làm ngập mạng đích với lưu lượng truy cập liên 
tục từ các nguồn khác nhau. Một cuộc tấn công 
DDoS nhằm mục đích phá vỡ hoạt động bình thường 
trên một máy chủ hoặc một mạng cụ thể. 
+ Spear-phishing: Giống như Phishing, nhưng 
mục tiêu là các cá nhân, với Email cá nhân, chứa 
phần mềm độc hại hoặc đường kết nối với các phần 
mềm độc hại. 
+ Subverting the supply chain: Tấn công một 
công ty hoặc tàu bằng cách thỏa thuận cung cấp thiết 
bị, phần mềm hoặc dịch vụ hỗ trợ cho công ty hoặc 
tàu. Kiểu tấn công này cực kỳ phổ biến trong ngành 
hàng hải. 
5. Hậu quả bị tấn công mạng do nhận thức chưa 
đầy đủ của thuyền viên về an ninh mạng 
Hậu quả của các cuộc tấn công mạng do nhận 
thức chưa đầy đủ của thuyền viên về an ninh mạng 
phụ thuộc vào bản chất của từng cuộc tấn công cũng 
như sự phức tạp của các kịch bản và vị trí vai trò 
quan trọng của các mục tiêu bị tấn công trên tàu. 
Dưới đây là một số hậu quả: 
- Hậu quả đầu tiên dễ xảy ra và dễ nhận biết nhất, 
đó là, làm gián đoạn các hoạt động bình thường diễn 
ra trên tàu, do các thiết bị bị hỏng không hoạt động 
được vì bị nhiễm virus từ những thiết bị cá nhân của 
thuyền viên kết nối vào mạng hoặc các hệ thống, thiết 
bị trên tàu. 
- Chậm chễ trong việc giao hàng; mất hàng hóa; 
có thể làm gián đoạn các hoạt động của cảng. Hiện 
nay, việc lập sơ đồ hàng hóa cho một số loại tàu như 
tàu container được thực hiện bởi những người chuyên 
lập sơ đồ hàng hóa tại công ty hoặc tại các cảng. Việc 
trao đổi dữ liệu giữa tàu và người lập sơ đồ hàng hóa 
được tiến hành qua mạng dưới dạng các file điện tử. 
Nguy cơ rất cao những dữ liệu và sơ đồ này rơi vào 
tay tội phạm mạng do sự bất cẩn, sơ xuất của thuyền 
viên, đặc biệt là đại phó. Vào tháng 8 năm 2011, tin 
tặc đã xâm nhập vào sơ đồ hàng hóa một số tàu của 
công ty Iran Shipping Line. Tin tặc đã thay đổi số 
lượng hàng hóa, ngày giao hàng, địa điểm giao 
hàng, do vậy một số container chứa hàng đã bị mất. 
Và hậu quả lớn hơn, đó là, rất có thể sẽ tái diễn vụ tấn 
công mạng xảy ra tại cảng Antwerp của Bỉ trong hai 
năm, từ 2011 đến 2013 các băng đảng ma túy đã kiểm 
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 
127 SỐ 63 (8-2020) 
soát hoàn toàn và vận chuyển số lượng container chứa 
ma túy và súng đến và đi tại cảng này. 
- Mắc cạn và có thể gây ô nhiễm và thảm họa ô 
nhiễm; gây hư hỏng hoặc thiệt hại cho cấu trúc tàu, 
các trang thiết bị trên tàu do tàu bị đâm va; gây 
thương tích về mặt thể xác hoặc lấy đi mạng sống 
của thuyền viên trên tàu, do nhiễu, lỗi hoặc gián 
đoạn bất kỳ hệ thống thiết yếu nào phục vụ cho công 
tác dẫn tàu an toàn và xác định vị trí tàu. Các thiết bị 
trên buồng lái như radar, hệ thống định vị toàn cầu 
(GPS), hệ thống hiển thị và thông tin hải đồ điện tử 
(ECDIS), được kết nối với nhau qua các giao thức 
Ethernet. Trong khi đó, ECDIS là hệ thống hầu như 
không được cài đặt phần mềm diệt virus. Vào ngày 
17/1/2013, tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ đã bị mắc 
cạn vào một rặng san hô Tubbataha giữa biển Sulu của 
Philippines do lỗi của ECDIS. Vào năm 2017, một 
thuyền viên trên chiếc tàu dầu trọng tải 80.000DWT, 
đã mang theo một chiếc USB có nhiễm virus để cập 
nhật hải đồ cho hệ thống ECDIS, hàng loạt thiết bị 
hàng hải trên tàu đã bị nhiễm virus và con tàu đã bị 
hoãn thời gian khởi hành, đồng thời một cuộc điều tra 
đã được tiến hành [4]. Nhưng, đó là trường hợp may 
mắn vì nếu con tàu dầu này khởi hành và bị mắc cạn 
do virus từ chiếc USB thì rất có thể sẽ gây ra thảm họa 
về môi trường. Nghiên cứu và thực nghiệm đã cho 
thấy, virus có thể loại bỏ các mục tiêu radar khỏi màn 
hình mà radar vẫn hoạt động bình thường. Đây là một 
điều thực sự đáng sợ. 
6. Đề xuất các giải pháp nâng cao nhận thức đối 
với thuyền viên về an ninh mạng 
Nhằm bảo đảm an toàn và an ninh cho con tàu, 
cho công ty, cho môi trường hàng hải và cho chính 
bản thân thuyền viên, tác giả xin đề xuất một số giải 
pháp nhằm nâng cao nhận thức đối với thuyền viên 
Việt Nam về an ninh mạng. 
Phân cấp và kiểm soát sự truy cập vào các hệ 
thống, máy tính trên tàu: Quy định và tuân thủ sự 
phân cấp cấp độ truy cập vào các hệ thống, thiết bị 
đối với từng chức danh trên tàu tương ứng với tầm 
quan trọng của dữ liệu, thông tin cũng như các trang 
thiết bị. Việc sử dụng các ổ đĩa cá nhân, USB, CD, 
v.v để kết nối với mạng trên tàu cần phải báo cáo, 
đồng thời phải kiểm tra tính an toàn của các thiết bị 
này và chỉ khi được phép của cấp có thẩm quyền mới 
được truy cập. Đối với những người không phải là 
thành viên của tàu như người của cảng, của công ty, 
đại lý hay thanh tra viên, nếu có yêu cầu cần sử 
dụng máy tính hoặc máy in, thì cung cấp cho họ một 
máy tính, máy in độc lập, không được kết nối với 
mạng, cũng như không kết nối với các thiết bị của 
tàu. 
Giữ mật khẩu của mỗi cá nhân một cách cẩn 
trọng: Rò rỉ mật khẩu là một trong những lỗ hổng 
phổ biến nhất đối với thuyền viên. Hầu hết thuyền 
viên có thói quen sử dụng cùng một mật khẩu trên tất 
cả các ứng dụng và tất cả các trang web cho thuận 
tiện. Nhưng điều này lại rất rủi ro. Cần sử dụng các 
mật khẩu khác nhau cho các trang web và các ứng 
dụng khác nhau. Để bảo mật tốt hơn, mật khẩu nên 
kết hợp cả chữ hoa và chữ thường cùng các ký tự đặc 
biệt và số. Tuyệt đối không nên chia sẻ mật khẩu 
hoặc bất kỳ thông tin nhạy cảm với bất cứ ai. 
E-mail: Tránh mở bất kỳ liên kết hoặc file đính 
kèm nào từ các email đáng ngờ, đặc biệt nếu đang 
mở chúng trên hệ thống hoặc mạng của tàu. Trường 
hợp nghi ngờ về tính xác thực của email, hãy đánh 
dấu chúng và sau đó mở chúng ở trên một mạng 
được bảo mật, không kết nối với bất kỳ hệ thống 
hoặc mạng nào của tàu. Nếu bị Phishing nên báo cho 
những người có thẩm quyền biết. 
Cần cẩn trọng khi sử dụng các wifi miễn phí. Khi 
tàu đến những cảng (địa điểm) mới, thuyền viên 
thường tìm kiếm các điểm có wifi miễn phí. Thông 
thường các điểm có wifi miễn phí là những địa điểm 
công cộng, đông người và rất dễ phát sinh và có 
nhiều hoạt động gian lận mạng (hack). 
Duyệt các trang web. Nên tránh duyệt web nhấp 
vào các liên kết đáng ngờ. 
Tránh trở thành nạn nhân của các tin nhắn 
(SMS). Sử dụng tin nhắn là phương thức ưa thích của 
các tin tặc để lấy thông tin cá nhân từ thuyền viên. Vì 
thuyền viên thường có thói quen sử dụng các thẻ 
SIM khác nhau để có được tốc độ gọi và dữ liệu tốt 
nhất, khi đó tin tặc sẽ gửi SMS lừa đảo kèm theo liên 
kết để nhận được các ưu đãi rẻ nhất về các cuộc gọi 
và gói dữ liệu. Khi liên kết được kích hoạt, nó sẽ tải 
phần mềm độc hại vào điện thoại. 
Tránh sử dụng ổ đĩa không xác định, thiết bị ổ 
đĩa nhỏ (USB) được sử dụng để trao đổi thông tin 
giữa nhiều hệ thống. Nếu ai đó đưa cho chúng ta các 
thanh USB, hãy tránh sử dụng những thiết bị đó nếu 
không biết rõ về chúng. Mỗi thuyền viên nên dùng 
một ổ USB/đĩa cứng riêng cho riêng mình và một ổ 
đĩa khác cho các công việc, hoạt động khác. 
Sử dụng phần mềm diệt vi-rút mới nhất: Cần cài 
đặt phần mềm diệt virus mới nhất vào máy tính 
nhằm phát hiện và loại bỏ các phần mềm, chương 
trình độc hại. 
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 
128 SỐ 63 (8-2020) 
Ngày nhận bài: 06/3/2020 
Ngày nhận bản sửa: 25/3/2020 
Ngày duyệt đăng: 08/4/2020 
Sử dụng phần mềm có bản quyền: Việc thuyền 
viên sử dụng các phần mềm không có bản quyền 
được sao chép lậu là lí do chính khiến cho máy tính 
của họ dễ bị phơi nhiễm trước mã độc, virus tấn công 
dẫn đến các lỗi hỏng hóc, lây nhiễm sang các máy 
tính khác và thậm chí mất dữ liệu. 
Các thiết bị cá nhân. Các thiết bị này thường 
được thuyền viên mang theo lên tàu và thường kết 
nối với rất nhiều mạng khác nhau. Nếu những thiết 
bị, máy tính này thiếu phần mềm bảo mật như phần 
mềm diệt virus thì rất có thể chúng đã chuyển rủi ro 
sang mạng của tàu mà chúng kết nối. 
Cài đặt phần mềm. Khi cài đặt và bảo trì phần 
mềm trên phần cứng máy thì rất có thể phần cứng đã 
bị nhiễm hoặc phần mềm đã bị nhiễm độc hại. Cần 
cài đặt phần mềm tại các địa chỉ uy tín. 
7. Kết luận 
Hiểu biết là một khía cạnh vô cùng quan trọng 
trong việc làm giảm nguy cơ tấn công mạng. Các 
mối đe dọa tiềm tàng từ không gian mạng cần được 
hiểu rõ, để có được khả năng đối phó với những rủi 
ro có thể xảy ra và đưa ra cách thức xử lý tốt nhất khi 
tàu gặp nguy hiểm. 
Mỗi tàu bất kể kích cỡ và chủng loại đều có khả 
năng bị tấn công mạng và các mối đe dọa tấn công 
mạng ngày càng tăng. Mọi thuyền viên cần phải 
nhận thức được các mối đe dọa mà họ có thể là tác 
nhân gây ra đối với con tàu của chính mình. Trong 
phạm vi bài báo, tác giả đề cập đến những cách thức 
tấn công mạng cùng các giải pháp đối với thuyền 
viên nhằm loại bỏ, giảm thiểu các mối đe dọa hoặc 
tránh phạm lỗi của một cuộc tấn công. 
Trường hợp phát hiện một mối đe dọa hoặc một 
cuộc tấn công đang diễn ra và cần phải làm gì trong 
trường hợp xảy ra sự cố an ninh sẽ được tác giả trình 
bày trong các bài báo sau. 
Lời cảm ơn 
Bài báo là sản phẩm của đề tài nghiên cứu khoa 
học cấp Trường năm học 2019-2020: “Nghiên cứu an 
ninh hàng hải trong không gian mạng”, được hỗ trợ 
kinh phí bởi Trường Đại học Hàng hải Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Report, Economic Impact of Cybercrime-No 
Slowing Down, February 2018. 
[2] Futurenautics Research. Crew Connectivity 2018 
Survey Report. page 36, 2018. 
[3] Keith Martin Rory Hopcraft, 50,000 Ships 
worldwide are vulnerable to cyberattacks, 
Independent, Jun. 2018. 
[4] Chris Baraniuk. How hackers are targeting the 
shipping industry, 2017. 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_nhan_thuc_ve_an_ninh_mang_doi_voi_thuyen_vien_viet.pdf