Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược

Bài báo này trình bày kết quả đánh giá mức độ an toàn của hệ thống mạng dựa trên kỹ thuật làm

ngược lại. Nghiên cứu đã thực hiện triển khai một số cuộc tấn công hệ thống mạng phổ biến,

thường gặp như DDoS, SQL Injection, Reverse TCP để định lượng và đánh giá mức độ khả năng

phòng thủ an ninh của hệ thống đó dựa trên thực nghiệm mô phỏng. Thông qua việc phân tích các

mối đe dọa và các thông số đo lường, nhóm tác giả nhận diện được mức độ an toàn và an ninh của

hệ thống mạng. Ba kịch bản tấn công hệ thống mạng sử dụng phương pháp phát hiện xâm nhập kiểu

hộp trắng (White Box) bao gồm: (a) tấn công máy chủ web từ bên trong mạng nội bộ, (b) tấn công từ

bên ngoài với trường hợp mạng đã tích hợp tường lửa thế hệ cũ và (c) tấn công từ bên ngoài trong

trường hợp tích hợp tường lửa thế hệ mới. Kết quả cho thấy với (a) mức độ bị tấn công gây kết quả

rất nghiêm trọng (tê liệt máy chủ lên tới 95%); với (b) tỉ lệ này đã giảm còn 63% và với (c) chỉ còn

19%. Kết quả này giúp nhà quản trị xây dựng giải pháp an toàn và an ninh mạng cho hệ thống của

mình được tốt hơn để phòng tránh và hạn chế các mối đe dọa tấn công vào hệ thống

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 1

Trang 1

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 2

Trang 2

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 3

Trang 3

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 4

Trang 4

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 5

Trang 5

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 6

Trang 6

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 7

Trang 7

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 8

Trang 8

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 2940
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược

Nâng cao mức độ bảo đảm an ninh hệ thống mạng tại Việt Nam bằng phương pháp làm ngược
 TNU Journal of Science and Technology 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 125 
NÂNG CAO MỨC ĐỘ BẢO ĐẢM AN NINH HỆ THỐNG MẠNG 
TẠI VIỆT NAM BẰNG PHƯƠNG PHÁP LÀM NGƯỢC 
Lê Hoàng Hiệp1, Lê Xuân Hiếu2*, Trần Lâm3, Đỗ Đình Lực1 
1Trường Đại học Công nghệ thông tin & Truyền thông – ĐH Thái Nguyên, 
2Đại học Thái Nguyên, 3VNPT Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Bài báo này trình bày kết quả đánh giá mức độ an toàn của hệ thống mạng dựa trên kỹ thuật làm 
ngược lại. Nghiên cứu đã thực hiện triển khai một số cuộc tấn công hệ thống mạng phổ biến, 
thường gặp như DDoS, SQL Injection, Reverse TCP để định lượng và đánh giá mức độ khả năng 
phòng thủ an ninh của hệ thống đó dựa trên thực nghiệm mô phỏng. Thông qua việc phân tích các 
mối đe dọa và các thông số đo lường, nhóm tác giả nhận diện được mức độ an toàn và an ninh của 
hệ thống mạng. Ba kịch bản tấn công hệ thống mạng sử dụng phương pháp phát hiện xâm nhập kiểu 
hộp trắng (White Box) bao gồm: (a) tấn công máy chủ web từ bên trong mạng nội bộ, (b) tấn công từ 
bên ngoài với trường hợp mạng đã tích hợp tường lửa thế hệ cũ và (c) tấn công từ bên ngoài trong 
trường hợp tích hợp tường lửa thế hệ mới. Kết quả cho thấy với (a) mức độ bị tấn công gây kết quả 
rất nghiêm trọng (tê liệt máy chủ lên tới 95%); với (b) tỉ lệ này đã giảm còn 63% và với (c) chỉ còn 
19%. Kết quả này giúp nhà quản trị xây dựng giải pháp an toàn và an ninh mạng cho hệ thống của 
mình được tốt hơn để phòng tránh và hạn chế các mối đe dọa tấn công vào hệ thống. 
Từ khóa: Tấn công DDoS; tấn công SQL Injection; tấn công Reverse TCP; tấn công mạng; bảo 
mật mạng 
Ngày nhận bài: 11/8/2020; Ngày hoàn thiện: 31/8/2020; Ngày đăng: 31/8/2020 
IMPROVE NETWORK SECURITY SYSTEM IN VIETNAM 
USING REVERSE METHOD 
Le Hoang Hiep1, Le Xuan Hieu2*, Tran Lam3, Do Dinh Luc1 
1TNU - University of Information and Communication Technology 
2Thai Nguyen University, 3VNPT Thai Nguyen 
ABSTRACT 
This paper presents the results of evaluating the security level of a network based on reverse 
engineering. A number of common network attacks, such as DDoS, SQL Injection, Reverse TCP 
were emulatedto quantify and evaluate the level of security defenses of the system based on 
simulation experiments. Through the threat analysis and security metrics, the level of safety and 
security of the network were indentified. Three scenarios for a network attack using White Box 
intrusion detection methods include: (a) attacking a web server from an internal network, (b) 
attacking from outside in the case of a built-in old firewall and (c) external attacking in the case of 
a new generation firewall. The results showed that (a) the severity of the attack caused serious 
results (server paralysis up to 95%); (b) the server paralysis rate was decreased to 63%; and (c) the 
server paralysis rate was only 19%. The results are promising to help administrators to build better 
safety and security systems as well as to prevent and limit network connections and threatens 
attacking their systems. 
Keywords: DdoS attack; SQL Injection attack; reverse TCP attack; network attack; network 
security 
Received: 11/8/2020; Revised: 31/8/2020; Published: 31/8/2020 
* Corresponding author. Email: lxhieucntt@tnu.edu.vn
Lê Hoàng Hiệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 126 
1. Giới thiệu 
Trong vài năm gần đây, khi nói về vấn đề hệ 
thống máy tính bị tấn công mạng và an ninh 
kỹ thuật số, chúng ta thường chỉ thấy những 
báo cáo về các sự cố bảo mật lớn, với mật độ 
dày đặc xảy ra tại các cường quốc công nghệ 
thông tin và một vài quốc gia tâm điểm khác. 
Tuy nhiên, ngay tại nước ta, tình hình an ninh 
mạng và an toàn thông tin trong vài năm gần 
đây cũng đã có những diễn biến cực kỳ nguy 
hiểm, phức tạp. Song song với mức độ số hoá 
và việc triển khai số hoá ngày càng gia tăng 
rất nhanh tại Việt Nam, chúng ta có thể nhận 
thấy mối quan tâm rõ rệt hơn từ khối doanh 
nghiệp đối với an ninh mạng và hệ thống. 
Đây là công việc cực kỳ quan trọng, bởi vì 
càng ngày sẽ càng có nhiều người dùng và 
nhiều thiết bị kết nối vào mạng trong các năm 
tới. Điều này sẽ đem lại nhiều cơ hội lớn cho 
các doanh nghiệp, nhưng nó cũng đồng nghĩa 
nguy cơ các mối tấn công tăng theo cấp số 
nhân, đẩy doanh nghiệp đối mặt với nhiều 
mối nguy cơ và rủi ro an ninh mạng lớn hơn. 
An ninh mạng không thể là những xử lý tình 
huống tức thời, mà cần phải trở thành nền 
tảng ưu tiên cho bất kỳ nỗ lực chuyển đổi số 
nào. Việc các cơ quan chức năng/ tổ chức vẫn 
còn tương đối bị động trước những phương án 
nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề 
an ninh mạng đã khiến các cá nhân đam mê 
máy tính cũng như đang hoạt động trong lĩnh 
vực bảo mật ở nước ta buộc phải chủ động tự 
tổ chức các sự kiện, cuộc thi lớn nhằm phổ 
biến thông tin rộng rãi hơn cho cộng đồng 
cũng như doanh nghiệp. Những sự kiện như 
vậy sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, không 
chỉ cung cấp những thông tin cụ thể, chính 
xác nhất về tình hình an ninh mạng ở nước ta, 
mà còn giới thiệu nhiều dự án bảo mật quy 
mô lớn với sự góp mặt của các chuyên gia 
đầu ngành hiện nay. 
Hình 1. Một kiểu tấn công Session Hijacking điển hình 
Những mối de dọa an ninh mạng giờ đây 
đang diễn biến ở mức độ rất nghiêm trọng. 
Mọi cơ quan/ tổ chức đều có nguy cơ bị tấn 
công như nhau. Cơ quan nào có nhiều thông 
tin nhạy cảm và hệ thống chứa nhiều lỗ hổng 
bảo mật sẽ dễ bị tin tặc tấn công hơn. Cho 
nên, tất cả chúng ta cần phải sẵn sàng ứng 
cứu, khắc phục, xử lý mọi sự cố. Tội phạm 
mạng/ kẻ tấn công (Hacker/Attacker) luôn 
không ngừng cải tiến các phương thức triển 
khai chiến dịch tấn công của mình theo hướng 
phức tạp và khó lường hơn, nhằm trục lợi trái 
phép từ người dùng Internet cũng như các tổ 
chức, doanh nghiệp toàn cầu, ví dụ điển hình 
như trong Hình 1. Đây là lý do tại sao tất cả 
các công ty, bất kể quy mô hay lĩnh vực hoạt 
động, đều buộc phải sở hữu những  ... i server (như 
hình 3). Thực nghiệm này vẫn sử dụng tấn 
công kiểu TCP và UDP flood thông qua cổng 
80. Kết quả tấn công TCP flood được hiển thị 
trong hình 5a, hình 5b và hình 5c. Qua đây 
cho thấy kẻ tấn công gửi khoảng 60 Mbps lưu 
lượng vào máy chủ Web, trong khi đó máy 
chủ Web chỉ nhận thấy có 38,5 Mbps lưu 
lượng truy cập đến. Điều này có thể giải thích 
do hệ thống đã được cài đặt tường lửa, chức 
năng của tường lửa đã được thực thi và ngăn 
chặn (lọc) các lưu lượng gói tin bất thường 
(đáng ngờ) vì thế mà chỉ một phần lưu lượng 
từ kẻ tấn công gửi tới có thể đến được máy 
chủ Web và dẫn tới cuộc tấn công này không 
làm ảnh hưởng nhiều tới thời gian tải của 
trang Web. 
Hình 5a. Lưu lượng từ Card mạng trên PC kẻ tấn công 
Hình 5b. Lưu lượng từ Card mạng trên máy chủ Web 
Hình 5c. Thời gian tải trang Web từ bên ngoài Internet 
Qua theo dõi kết quả cũng cho thấy, sau 
khoảng 30 giây, tường lửa ASA đã chặn địa 
chỉ IP của kẻ tấn công trước mà chưa cần tới 
tường lửa TMG thực thi. 
Tiếp theo, nghiên cứu thực hiện tấn công 
tương tự bằng việc gửi các gói tin UDP tới 
máy chủ Web. Trong trường hợp này, kẻ tấn 
Lê Hoàng Hiệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 130 
công đã gửi khoảng 180 Mbps. Tường lửa 
ASA đã tăng mức xử lý đạt hiệu quả tới mức 
đủ ngăn chặn được hoàn toàn cuộc tấn công 
này. Hình 6a, hình 6b và hình 6c cho thấy kết 
quả như mô tả. 
Hình 6a. Lưu lượng từ PC của kẻ tấn công 
Hình 6b. Lưu lượng từ Card mạng trên máy chủ Web 
Hình 6c. Thời gian mở trang web từ bên trong 
mạng nội bộ khi bị tấn công UDP flood 
Trong cuộc tấn công này, tất cả các dịch vụ 
có thể truy cập từ Internet đã ngừng hoạt 
động. Kẻ tấn công đã được kết nối bên ngoài 
tường lửa và đã sử dụng dung lượng tối đa 
1Gbps vì lưu lượng không đi qua thiết bị của 
nhà cung cấp dịch vụ ISP. 
c. Kịch bản 3: Thực hiện cuộc tấn công Web 
server từ bên ngoài hệ thống mạng nội bộ 
(đứng từ Internet để tấn công) trong trường 
hợp Web server được bảo vệ bởi tường lửa 
thế hệ mới Sophos UTM. 
Các phiên bản tường lửa thế hệ cũ trước đây 
đã lỗi thời vì chức năng của chúng không đủ 
khả năng ngăn chặn các cuộc tấn công mạng 
ngày càng tinh vi và mạnh mẽ hơn trước rất 
nhiều. Việc ra đời tường lửa thế hệ mới, là 
phiên bản nâng cao của tường lửa truyền 
thống với nhiều chức năng tích hợp sẵn, có 
sức mạnh và hiệu năng cao hơn nhiều lần như 
chức năng bảo vệ máy chủ Web, email, lọc 
gói tin, phát hiện xâm nhập, Trong nghiên 
cứu này tiếp tục thực nghiệm bằng cách lựa 
chọn tường lửa Sophos UTM thay thế các 
tường lửa truyền thống, cũ như ASA, TMG. 
Sơ đồ mô hình thực nghiệm được thể hiện 
trong hình 7: 
Hình 7. Mô hình thực nghiệm tấn công mạng với 
tường lửa Sophos UTM 
Cách thực nghiệm tương tự như khi hệ thống 
tích hợp tường lửa truyền thống ASA và 
TMG bằng việc gửi lưu lượng TCP và UDP 
flood. Tuy nhiên, qua kết quả cho thấy đã có 
sự khác biệt rõ rệt đó là hiệu năng của tường 
lửa thế hệ mới Sophos UTM đã được thực thi 
tốt hơn nhiều so với ASA, TMG. Sophos 
UTM có thể xử lý lưu lượng bình thường 
trong khi vẫn giữ được hoạt động của trang 
Web trong quá trình bị tấn công. Kết quả như 
hình 8c cho thấy hiệu suất của CPU trước và 
sau cuộc tấn công dường như không đổi (mức 
thay đổi rất thấp ở mức trung bình là 0,19%). 
Lưu lượng truy cập chỉ đi/ nằm trong khu vực 
đoạn mạng từ kẻ tấn công tới Card mạng 
WAN của tường lửa Sophos UTM khi cuộc 
tấn công UDP flood diễn ra như trong hình 
8a, hình 8b: 
Hình 8a. Lưu lượng trên Card mạng WAN của 
tường lửa Sophos UTM 
Lê Hoàng Hiệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 131 
Hình 8b. Lưu lượng trên Card mạng LAN của 
tường lửa Sophos UTM 
Hình 8c. Mức sử dụng hiệu suất CPU của tường 
lửa Sophos UTM 
d. Nhận xét chung về kết quả tấn công mạng 
sử dụng kiểu DoS: 
Thông qua nghiên cứu thực nghiệm trên cho 
thấy, nguy cơ tiềm ẩn cao nhất từ các cuộc tấn 
công vào hệ thống mạng của doanh nghiệp/ tổ 
chức là khi các cuộc tấn công sử dụng kiểu 
UDP flood. Bảng 1 là kết quả tóm tắt so sánh 
các kịch bản tấn công đã thực nghiệm bên trên: 
Bảng 1. Kết quả thực nghiệm so sánh 
Tấn công DoS Mức độ 
làm dừng 
tải nội dung 
trang Web 
Chặn các 
dịch vụ 
khác 
Tải lưu 
lượng bên 
trong mạng 
Tấn công TCP 
bên trong 
mạng 
Không Không Có 
Tấn công UDP 
bên trong 
mạng 
Có Không Có 
Tấn công TCP 
tới hệ thống có 
tích hợp 
ASA/TMG 
Không Không Có 
Tấn công UDP 
tới hệ thống có 
tích hợp 
ASA/TMG 
Có Có Có 
Tấn công TCP 
tới hệ thống có 
tích hợp 
Sophos UTM 
Không Không Có 
Tấn công UDP 
tới hệ thống có 
tích hợp 
Sophos UTM 
Không Không Có 
Qua bảng so sánh (Bảng 1) ta thấy, để giảm 
thiểu nguy cơ tấn công từ kẻ tấn công ngày 
càng tinh vi, các hệ thống mạng hiện nay cần 
nâng cấp/ cập nhật các hệ thống tường lửa 
mới, hiện đại hơn. 
3.2. Thực nghiệm tấn công SQL Injection 
vào hệ thống 
Trong thực nghiệm này sử dụng một số công 
cụ sau để thực hiện tấn công xâm nhập mạng 
giả định: 
- Acunetix Web Vulnerability Scanner: công 
cụ này cho phép quét ứng dụng web để nhận 
dạng các lỗ hổng tiềm ẩn. 
- Burp Suite: công cụ này cho phép bắt các 
gói tin từ máy client đến ứng dụng web và 
trích xuất thu thập dữ liệu quét được. 
- SQLMAP: cho phép thâm nhập vào bên 
trong cơ sở dữ liệu sau khi xác định các lỗ 
hổng của hệ thống. 
a. Kịch bản 1: Tấn công xâm nhập hệ thống 
mạng từ bên trong mạng nội bộ: 
Trong thực nghiệm này, nghiên cứu sử dụng 
một số ứng dụng Web có các lỗ hổng bảo mật 
để tấn công. Máy tính của kẻ tấn công đã 
được cài đặt các công cụ cần thiết cho một 
cuộc tấn công SLQ Injection. Sơ đồ thực 
nghiệm như hình 9: 
Hình 9. Sơ đồ mạng mô phỏng cho cuộc tấn công 
SQL Injection từ mạng LAN và Internet 
Với mô hình mạng như hình 9, các ứng dụng 
Web được quét và tìm các lỗ hổng bảo mật sử 
dụng công cụ Acunetix. Qua dữ liệu thu thập 
được cho thấy hệ thống xuất hiện nhiều điểm 
yếu/ lỗ hổng bảo mật trong hệ điều hành, loại 
máy chủ Web, công nghệ đã cài đặt, để từ 
đó kẻ xấu có thể tấn công thông qua kỹ thuật 
SQL Injection. 
b. Kịch bản 2: Tấn công xâm nhập hệ thống 
mạng SQL Injection từ bên ngoài mạng 
Internet đối với hệ thống đã tích hợp tường 
lửa truyền thống 
Với thực nghiệm này, kẻ tấn công đứng từ 
bên ngoài mạng nội bộ. Trong tình huống này 
Lê Hoàng Hiệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 132 
kẻ tấn công cần phải vượt qua nhiều tường 
lửa khác nhau (ASA, TMG) để có quyền truy 
cập vào các ứng dụng Web. Các tấn công 
SQL Injection được thực hiện tại lớp ứng 
dụng trong khi tường lửa ASA chỉ cho phép 
lọc lưu lượng truy cập tại lớp vận chuyển 
(Transoport layer) của mô hình TCP/IP. Qua 
thực nghiệm cho thấy, tường lửa ASA không 
thể ngăn chặn các cuộc tấn công SQL 
Injection. Tuy nhiên, với trường hợp hệ thống 
có tích hợp tường lửa thế hệ mới, kết quả cho 
thấy có sự khác biệt rõ rệt hơn so với sử dụng 
tường lửa truyền thống. 
c. Kịch bản 3: Tấn công xâm nhập hệ thống 
mạng SQL Injection từ bên ngoài mạng 
Internet đối với hệ thống đã tích hợp tường 
lửa thế hệ mới Sophos UTM 
Hình 10. Sơ đồ mạng với kiểu tấn công SQL 
Injection tích hợp tường lửa Sophos UTM 
Sơ đồ kịch bản trường hợp này được mô tả 
như trong hình 10. Qua kết quả xác minh độ 
mạnh của tường lửa Sophos UTM cho thấy có 
sự khác biệt rõ ràng so với sử dụng tường lửa 
truyền thống bảo vệ hệ thống. Với các tấn 
công kiểu SQL Injection đối với hệ thống có 
sử dụng tường lửa Sophos UTM đều không 
có nhiều tác dụng bởi chức năng của tường 
lửa có thể ngăn cản các cuộc tấn công này 
một cách hiệu quả. 
3.3. Thực nghiệm tấn công Reverse TCP vào 
hệ thống 
a. Kịch bản 1: Tấn công Reverse TCP xâm 
nhập hệ thống từ bên trong mạng cục bộ 
Để thực hiện cuộc tấn công này, nghiên cứu 
sử dụng máy tính PC của nạn nhân đã được 
cài đặt hệ điều hành Window 10 với đầy đủ 
tính năng và chương trình diệt virus. Trên 
máy tính của nạn nhân đã được cài đặt 
Metasploit Framework (là một gói tiêu chuẩn 
của hệ điều hành Linux). Cả hai máy tính của 
kẻ tấn công và nạn nhân đều nằm bên trong 
mạng nội bộ như hình 11: 
Hình 11. Sơ đồ mạng mô phỏng cuộc tấn công 
Reverse TCP từ bên trong mạng nội bộ 
Trong thực nghiệm này, nghiên cứu đã đưa 
mã độc vào một phần mềm để khi nạn nhân 
cài đặt nó, phần mềm sẽ tạo ra một liên kết và 
gửi ngược lại cho kẻ tấn công. Thông qua 
kiểm tra chương trình diệt virus cho thấy 
chương trình diệt virus không thể phát hiện 
được mã độc này. Tiếp theo, nghiên cứu đã 
cấu hình máy tính của kẻ tấn công để nhận kết 
nối từ máy tính nạn nhân. Kẻ tấn công gửi 
email cho nạn nhân với những nội dung hấp 
dẫn khiến nạn nhân tin tưởng và truy cập các 
nội dung và bị lừa cài đặt các ứng dụng chứa 
mã độc mà kẻ tấn công cố tình mong muốn. 
Thông qua thực nghiệm này (và liên hệ trên 
thực tế) cho thấy, kẻ tấn công có thể giành 
quyền truy cập/ kiểm soát máy tính của người 
dùng/ nạn nhân trong trường hợp nạn nhân có 
ít kinh nghiệm, kiến thức và dễ bị lừa bởi các 
nội dung ảo; sau đó click và cài đặt các ứng 
dụng chứa mã độc do kẻ tấn công gửi tới, từ 
đó bị chiếm quyền kiểm soát. 
b. Kịch bản 2: Tấn công Reverse TCP xâm 
nhập hệ thống từ bên ngoài, với trường hợp 
hệ thống tích hợp tường lửa ASA, TMG 
hoặc IPS 
Với thực nghiệm trên cho thấy, kẻ tấn công 
có thể truy cập vào bên trong máy nạn nhân 
ngay cả khi máy nạn nhân đã cài chương trình 
diệt Virus. Trong thực nghiệm này sẽ kiểm tra 
mức độ tấn công khi hệ thống đã tích hợp 
tường lửa truyền thống. 
Hình 12. Sơ đồ mạng mô phỏng cuộc tấn công 
Reverse TCP từ bên ngoài mạng Internet 
Lê Hoàng Hiệp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(09): 125 - 133 
 Email: jst@tnu.edu.vn 133 
Trong thực nghiệm này, nạn nhân được đặt 
sau tường lửa ASA, TMG và hệ thống phát 
hiện xâm nhập IPS. Kẻ tấn công thực hiện từ 
bên ngoài mạng Internet và cần phải có địa 
chỉ IP công cộng nếu muốn tấn công vào nạn 
nhân. Trong thực nghiệm này cho thấy, tường 
lửa truyền thống và hệ phát hiện xâm nhập 
IPS đã không thể ngăn chặn được các truy cập 
trái phép. 
c. Kịch bản 3: Tấn công Reverse TCP xâm 
nhập hệ thống từ bên ngoài, với trường hợp 
hệ thống tích hợp tường lửa Sophos UTM 
Thực nghiệm này sử dụng tường lửa thế hệ 
mới với cùng mô hình sơ đồ mạng như trong 
hình 12 (chỉ thay thế ASA bởi Sophos UTM, 
và không cần dùng TMG). Kết quả cho thấy, 
mọi cố gắng của kẻ tấn công đều bị ngăn chặn 
bởi tường lửa này. Điều này cho thấy, với các 
tường lửa có các tính năng cập nhật hiện đại 
sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc ngăn 
chặn các cuộc tấn công kiểu Reverse TCP. 
d. Nhận xét chung về kết quả tấn công mạng 
sử dụng kiểu Reverse TCP: 
Từ thực nghiệm đã trình bày cho thấy, kẻ tấn 
công có thể truy cập vào hệ thống trong 
trường hợp là gián điệp (đứng bên trong mạng 
nội bộ) hoặc khi đứng bên ngoài mạng 
Internet. Tuy nhiên, nếu hệ thống có tích hợp 
các loại tường lửa mới, hiện đại thì sẽ cản trở 
việc tấn công ở mức tối đa. Kết quả so sánh 
được thể hiện như trong bảng 2: 
Bảng 2. Kết quả so sánh các kiểu tấn công 
Reverse TCP qua 3 kịch bản 
Kiểu tấn công Mức độ 
xâm nhập 
máy tính 
của nạn 
nhân 
Phát 
hiện tấn 
công 
Mức độ 
tải của 
mạng 
Reverse TCP bên 
trong mạng nội bộ 
Có Không Không 
Reverse TCP với hệ 
thống tích hợp 
ASA, TMG, IPS 
Có Không Không 
Reverse TCP với hệ 
thống tích hợp 
Sophos UTM 
Không Không Không 
4. Kết luận 
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực 
nghiệm một số kiểu tấn công phổ biến trên 
các hệ thống mạng mô phỏng lại các sơ đồ 
mạng thực tế của các tổ chức/ công ty tại Việt 
Nam cho thấy các hệ thống này luôn có thể bị 
tấn công bởi các kiểu tấn công điển hình như 
DoS, SQL Injection hoặc Reserve TCP bất kỳ 
lúc nào, đặc biệt là khi kẻ tấn công dùng hình 
thức tấn công kiểu UDP flood thông qua tấn 
công DoS, SQL Injection. Những vấn đề về 
điểm yếu hệ thống này có thể được hạn chế, 
tránh được khi hệ thống được tích hợp các 
giải pháp phòng thủ như sử dụng các loại 
tường lửa mới (tường lửa cứng hoặc mềm), 
hiện đại được cập nhật các tính năng mạnh 
mẽ như có khả năng phát hiện các dấu hiệu 
bất thường, lọc gói tin cấp độ cao, cảnh báo 
cho người quản trị các mối nguy hiểm, 
Bên cạnh vấn đề kỹ thuật, nghiên cứu cũng 
cho thấy rằng, sự cảnh giác cao độ cũng như 
sự chuẩn bị kiến thức về an ninh, an toàn 
mạng cho nhà quản trị luôn luôn rất quan 
trọng, với phương châm phòng hơn tránh để 
từ đó nhà quản trị có các giải pháp phù hợp, 
linh động, cập nhật với các cuộc tấn công 
mới, ngày càng tinh vi và khó lường được 
hiệu quả hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/REFERENCES 
[1]. R. Baloch, Ethical Hacking and Penetration 
Testing Guide, CRC Press, 2015. 
[2]. L. H. Hiep et al., “Study to applying 
Blockchain technology for preventing of 
spam email,” TNU Journal of Science and 
Technology, vol. 208, no. 15, pp. 161-167, 
2019. 
[3]. A. Maraj et al., “Testing of network security 
systems through DoS attacks,” Embedded 
Computing (MECO), 6th Mediterranean 
Conference on. IEEE, 2017. 
[4]. A. Maraj et al., "Testing techniques and 
analysis of SQL injection attacks," 
Knowledge Engineering and Applications 
(ICKEA), 2017 2nd International 
Conference on. IEEE, 2017. 
[5]. T. Hayajneh et al., “Performance and 
Information Security Evaluation with 
Firewalls,” International Journal of Security 
and Its Applications, SERSC, vol. 7, no. 6, pp. 
355-372, 2013. 
[6]. D. Loganathan, and K. Ramesh, “Prevention 
Mechanism for Denial of Service in Web 
Applications Services,” International 
Journal of Advanced Research in Computer 
and Communication Engineering, vol. 4, no. 
4, pp. 480-484, 2015. 
[7]. G. Weidman, Penetration Testing: A Hands-
on Introduction to Hacking, No Starch Press, 
2014.

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_muc_do_bao_dam_an_ninh_he_thong_mang_tai_viet_nam_b.pdf