Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 93 MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN THẾ KỶ XVIII Trần Thị Thùy Dung1 TÓM TẮT Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước. Từ khóa: Phong trào Tây Sơn, đặc trưng 1. Mở đầu Thế kỷ XVI – XVIII, đất nước bị chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, thống nhất đất nước trở thành nhu cầu cấp thiết của toàn dân, là nguyện vọng tha thiết của nhân dân, yêu cầu khách quan của xã hội. Phong trào Tây Sơn xuất hiện năm 1771 đã từng bước giành được thắng lợi, lật đổ các chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, non sông nước Việt sau thời gian dài bị chia cắt đã được thu về một mối. Sau khi đánh đổ chính quyền phong kiến phản động trong nước, phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm nghĩa vụ dân tộc, chống thù trong giặc ngoài, cứu dân cứu nước – một thắng lợi vĩ đại của phong trào Tây Sơn 2. Nội dung 2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt thế kỷ XVIII Thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà Lê phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Nhưng đến đầu thế kỷ XVI, triều đình phong kiến nhà Lê bắt đầu suy yếu, tranh chấp giữa các phe phái diễn ra quyết liệt, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ. Các vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực chỉ lo ăn chơi, không lo triều chính. Nội bộ triều Lê “chia bè kéo cánh”, tranh giành quyền lực. Dưới triều Lê Uy Mục, quý tộc ngoại thích nắm hết quyền lực, giết hại công thần. Dưới triều Lê Tương Dực, tướng Trịnh Duy Sản gây bè phái, đánh giết nhau liên miên suốt hơn mười năm. Chế độ phong kiến nhà Lê dần rơi vào cảnh khủng hoảng do các vua trị vì ăn chơi sa đọa, tha hóa làm cho triều đình rối loạn. Nhân khi triều đình rối loạn, quan lại ở địa phương cậy quyền, ức hiếp dân, đời sống của các tầng lớp nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng. Từ giữa thế kỷ XVIII, tình hình chính trị ở Đàng Ngoài ngày càng mất ổn định, vua Lê không còn thực quyền, mọi quyền bính đều rơi vào tay chúa Trịnh, phủ chúa quanh năm hội hè, yến tiệc, phung phí tiền của. Nhà nước trung ương không ngừng tăng cường bóc lột nhân dân, nhà nước tận thu tô thuế, họ Trịnh đánh thuế vào cả những diện tích đất “đồng chua nước mặn”, “bãi cát trắng”, đất không sản xuất được; chính sách thuế thổ sản đánh vào tất cả các nghề thủ công của nhân dân làm cho 1Trường Đại học Đồng Nai Email: ttthuydung87@gmail.com TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 94 nhiều nghề thủ công bị phá sản, hoạt động công thương nghiệp bị kìm hãm. Tình trạng thiếu thuế năm này dồn sang năm khác trở thành gánh nặng khủng khiếp đối với người dân, nhiều người phải bỏ nghề, phá bỏ công cụ sản xuất để tránh nộp thuế, cuộc sống của nhân dân ngày càng khổ cực, vào những năm 40 của thế kỷ XVIII, hàng chục vạn nông dân chết đói, người sống sót phải bỏ làng quê, phiêu tán khắp nơi. Không những thế, việc mua quan bán tước ngày càng trở nên phổ biến, năm 1736 – 1740, chúa Trịnh Giang bốn lần quy định thể lệ mua quan bán tước, cho phép quan lại nộp tiền để thăng chức và nhà giàu nộp tiền để được làm quan; năm 1750, họ Trịnh đặt “tiền thông kinh”, nộp ba quan tiền thì được miễn khảo hạch và coi như trúng sinh đồ. Trong khi triều đình trung ương chỉ lo ăn chơi, không chăm lo đến đời sống sống nhân dân, quan lại địa phương càng ra sức đục khoét, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân, cuộc sống của người dân thường xuyên bị đe dọa. Đồng thời, nạn chiếm đoạt ruộng đất trở thành hiện tượng phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, tầng lớp địa chủ đã chiếm đoạt rụông tư của nông dân, mặt khác xâm lấn vào ruộng đất công của làng xã. Phần lớn ruộng công làng xã – niềm tin của nông dân công xã đã bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính. Kết quả là phần ruộng cho nông dân ngày càng ít, hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống cơ cực. Bên cạnh đó, thiên tai, vỡ đê, hạn hán xảy ra liên miên; các năm 1678, 1681, 1684, 1687 là những năm hạn hán, mất mùa lớn. Đặc biệt, nạn đói khủng khiếp năm 1740 – 1741 ở Đàng Ngoài “dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no, nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nổi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau; số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [1, tr. 852], cuộc sống của người dân rơi vào cảnh cùng khốn. Nếu như chính sách của chế độ quân chủ tập quyền Đàng Ngoài thời kỳ này đã đẩy mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa nhân dân với nhà nước phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, thì đến nửa cuối thế kỷ XVIII, ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến cũng đã đẩy xã hội Đàng Trong lâm vào cuộc khủng hoảng. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sau khi xưng vương, tạo lập triều đình riêng, cho xây dựng cung điện theo quy mô của một đế đô. Không chỉ riêng các chúa Nguyễn mà tất cả quan lại, quý tộc Đàng Trong đều đua nhau ăn chơi, hưởng lạc đến cực độ, trong đó nổi bật là Trương Phúc Loan, ông nắm hết quyền hành, khét tiếng tham nhũng, vàng, bạc, châu, ngọc, lụa chất “thành núi”, ruộng vườn, nhà cửa, trâu ngựa không đếm xuể. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ N ... áp) và khẳng định chủ quyền quốc gia của người Việt Nam “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Bài Hịch xuất quân không những biểu hiện ý chí quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta mà còn đánh để bảo vệ phong tục, tập quán riêng của dân tộc đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh để khẳng định ta không bị đồng hóa sau hơn 1000 bị phương Bắc đô hộ. Sau khi đánh bại 29 vạn quân Thanh xâm lược (1789), vương triều Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới, tiến bộ với ý thức quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Trong đó, Quang Trung rất chú trọng đến phát triển giáo dục và trọng dụng chữ Nôm. Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ nhưng có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung với tư tưởng “cầu hiền tài”, cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp là những học giả tiêu biểu trong số các nho sĩ này. Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức “tiến cử”, “cầu hiền tài” Quang Trung đã ban hành chính sách “khuyến học”, mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn những người bỏ tiền ra mua tước quan (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng. Bên cạnh đó, dưới vương triều Tây Sơn, Quang Trung rất trọng dụng chữ Nôm. Ông lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hóa. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 100 thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hóa dân tộc, chống chính sách đồng hóa của các triều đại phương Bắc. Có thể nói việc trọng dụng chữ Nôm và mở rộng hệ thống trường học có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nền văn hóa dân tộc, biểu lộ tinh thần quốc gia, bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Việc sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Tây Sơn là một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Không những thế, chữ Nôm còn phát triển thành một trào lưu văn hóa rộng lớn, xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ Nôm xuất sắc như: Ngọc Hân công chúa với “Ai tư vãn”; Phan Huy Ích với “Văn tế Quang Trung” và không thể không kể tới Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Những chính sách về văn hóa của Quang Trung thể hiện tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau thời gian chiến tranh kéo dài, đất nước bị chia cắt, vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời. Đồng thời, những chính sách đó chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân. Đây là một nét nổi bật thể hiện tầm nhìn chiến lược của Quang Trung nói riêng và của vương triều Tây Sơn nói chung. 2.3.3. Đoàn kết và chia rẽ trong nội bộ của phong trào Ngay từ buổi đầu, khi địa bàn hoạt động mới chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp của miền núi rừng Quy Nhơn, anh em Tây Sơn đã khôn khéo đề ra được sách lược thích hợp để tập hợp lực lượng, thu hút quần chúng nhân dân tham gia. Nguyễn Nhạc nhiều lần đến các vùng đất Tây Nguyên, danh nghĩa là buôn trầu, mua gỗ, mua ngựa nhưng thực chất là tìm cách liên kết với cộng đồng dân tộc ở đây, trong đó có người Ba-na, vận động họ tham gia ủng hộ mình. Với sự khôn khéo và thân thiện, Nguyễn Nhạc và những người em của mình đã chiếm được tình cảm quý mến của người dân Tây Nguyên, họ gọi ông là Tơ Mo Bok (vua Trời, người Trời), tham gia tích cực vào lực lượng của Tây Sơn chống chính quyền họ Nguyễn “lực lượng ở giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa có đông đảo người miền núi [] trong các lực lượng của các dân tộc anh em, trước hết phải kể đến người Ba-na, người Hơ-rê, người Chăm” [5, tr. 143]. Đồng thời, phong trào còn có sự tham gia của những thổ hào như Nguyễn Thung, lôi cuốn cả người Hoa như Tập Đình, Lý Tài tích cực hưởng ứng. Năm 1786, khi tiến quân ra Đàng Ngoài, Tây Sơn luôn nhận được sự ủng hộ đồng tình của quần chúng nhân dân, phát huy tinh thần đoàn kết của cả một dân tộc, phát huy sức mạnh của phong trào Tây Sơn và quân đội Tây Sơn. Sự đoàn kết của ba anh em nhà Tây Sơn và đông đảo quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh, giúp phong trào vượt qua những khó khăn buổi đầu, ngày TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 101 càng phát triển về lực lượng và mở rộng phạm vi hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo phong trào, tình hình nội bộ Tây Sơn cũng có nhiều bất ổn. Nội bộ lục đục, mâu thuẫn nảy sinh từ sau khi Nguyễn Huệ từ Bắc hà trở về, gây ra những tổn thất to lớn đối với sự thống nhất lực lượng của phong trào Tây Sơn và sự phát triển của vương triều Tây Sơn sau này. Sử sách không ghi chép thật rõ ràng về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn. Nhưng xích mích, mâu thuẫn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ là có thật, thậm chí 2 người đã sử dụng đến quân sự “dùng binh lực đánh lẫn nhau” [1, tr. 979], “Trước kia, Văn Huệ và Văn Nhạc dấy quân đánh nhau” [1, tr. 979]. Nguyên nhân của sự bất hòa này có lẽ bắt đầu từ lúc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc hà, bởi vì chủ trương của Nguyễn Nhạc là tập trung tiêu diệt chúa Nguyễn, giữ hòa bình với Bắc Hà, nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân Bắc tiến là đi ngược lại ý của Nguyễn Nhạc. Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ, sợ rằng Nguyễn Huệ sẽ vượt quyền mình, sợ rằng không kiềm chế được Nguyễn Huệ “quyền làm vua đối với bề tôi đã bị xem khinh” [6], “sau khi Văn Huệ đã lấy được Thuận Hóa, đưa thư về nói tiến thẳng quân ra để lấy Thăng Long. Văn Nhạc được nhận thư, không bằng lòng, sai người ngăn lại, nhưng không kịp. Đến lúc Văn Huệ đã lấy được Thăng Long. Văn Nhạc biết tin sợ lắm. Nhạc cho là vội vàng đem quân vào sâu như thế tất nhiên khó giữ được lâu. Hơn nữa Văn Nhạc nhận thấy Văn Huệ vốn là người giảo hoạt, hung tợn, nếu đắc chí, tất nhiên sẽ giữ lấy một nước để tự lo toan, rồi dần dà khó mà kiềm chế được” [1, tr. 969 - 970]. Mâu thuẫn giữa hai anh em Tây Sơn lớn tới mức hai bên đánh nhau kịch liệt: “Ông Huệ truy kích. Ông Nhạc rút quân vào thành Quy Nhơn, cố thủ. Ông Huệ công vi cả tháng mà không hạ nổi thành, bèn đánh chiếm núi Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi bắn vào thành. Những nơi hiểm yếu trong thành bị phá” [6]. Mâu thuẫn và bất hòa của hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ làm cho hòa khí trong nội bộ Tây Sơn bị ảnh hưởng, tình cảm anh em rạn nứt, lực lượng Tây Sơn bị phân hóa: Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc. Một trong những đóng góp của phong trào Tây Sơn là xóa bỏ tình trạng chia cắt, thống nhất đất nước. Nhưng nay, khi phong trào giành được thắng lợi, đất nước lại bị chia làm ba chính quyền khác nhau, tiếp tục đi vào con đường phong kiến hóa. Hậu quả tai hại nhất của việc bất hòa giữa anh em Tây Sơn là bị kẻ địch từ hai phía tận dụng. Sau ba năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra cơ hội trở về nước vào tháng 8 năm 1787 và đã tập hợp lực lượng. Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về, vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Nhận thấy quân Nguyễn TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 102 Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân rút chạy về Quy Nhơn, quân Tây Sơn đã mỏng lại càng mỏng. Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu. Thế cùng sức kiệt, đầu năm 1789 Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Nguyễn Ánh dẹp yên đất Gia Định. Ở Bắc Hà, tình hình rối loạn, từ Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vũ Văn Nhậm đều chuyên quyền, có ý chống lại vương triều Tây Sơn. Quang Trung đem quân ra Bắc tiêu diệt Chỉnh, Nhậm, tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Ngậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc, Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân. Sau khi ổn định tình hình Bắc hà, Quang Trung tích cực chuẩn bị lực lượng đem quân vào Nam đánh Gia Định, nhưng năm 1792 ông qua đời, con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Sự ra đi của Quang Trung làm cho nội bộ hàng ngũ tướng lĩnh Tây Sơn ngày càng rạn nứt nghiêm trọng, Trần Quang Diệu bất hòa với Vũ Văn Dũng, Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, các đại thần giết hại lẫn nhau. Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh. Nhân cơ hội nội bộ Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh tiến hành những cuộc phản công: năm 1801, Nguyễn Ánh đánh thẳng ra Phú Xuân, Quang Toản phải chạy ra Bắc hà; năm 1802, Nguyễn Ánh huy động nhiều cánh quân thủy – bộ tiến ra Bắc, lần lượt chiếm vùng đất từ Quảng Trị đến Nam Định rồi tiến thẳng về Thăng Long. Quang Toản không cự chống nổi, vượt sông Nhị chạy lên mạn Bắc Giang và bị bắt, chấm dứt vương triều Tây Sơn. Sự bất hòa trong nội bộ anh em Nguyễn Huệ và trong tướng lĩnh Tây Sơn cùng sự bất lực của Nguyễn Lữ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở lại Gia Định. Mặt khác, cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ là một tổn thất lớn đối với phong trào Tây Sơn, là cơ hội để Nguyễn Ánh khôi phục quyền lực nhà Nguyễn. Đoàn kết tạo nên sức mạnh, mất đoàn kết làm cho nội bộ chia rẽ. Buổi đầu, phong trào Tây Sơn có được sức mạnh của đoàn kết, sức mạnh giúp họ từ căn cứ Tây Sơn phát triển rộng ra quy mô cả nước, đưa cuộc phong trào nông dân Tây Sơn lên những tầm cao mới, giành những thắng lợi mới. Nhưng sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Tây Sơn đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở về, chiếm lại vùng đất Gia Định và lật đổ vương triều Tây Sơn, thành lập triều Nguyễn. 3. Kết luận Phong trào Tây Sơn mang những nét đặc trưng riêng, được đánh giá là một trong những phong trào nông dân tiêu biểu và điển hình của phong trào nông dân trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nhờ tinh thần đoàn kết, phong trào liên tiếp giành được những thắng lợi lớn, không ngừng phát triển về quy mô, giải quyết tốt vấn đề giai cấp – dân tộc. Thành quả lớn nhất của phong trào Tây Sơn là không những tiêu diệt các chính quyền phong kiến phản động Lê – Trịnh – Nguyễn, xóa bỏ tình trạng chia TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 103 cắt đất nước mà đã vượt ra khỏi phạm trù đấu tranh giai cấp, vươn lên đảm nhiệm vai trò chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, việc giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống văn hóa của dân tộc luôn là mục tiêu của Tây Sơn dù là đang chiến đấu cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc hay ở thời kỳ hòa bình xây dựng, củng cố độc lập nền dân tộc. Những chính sách tiến bộ và hợp thời của Quang Trung và vương triều Tây Sơn giúp Đại Việt có những bước chuyển mình sau hơn hai thập kỷ bị chia cắt và bước đầu đạt được một số thành tựu trên các lĩnh vực. Mặc dù không thể giành được thắng lợi cuối cùng, không giữ được thành quả đấu tranh do sự chia rẽ, mất đoàn kết giữa anh em Nguyễn Huệ và các quan lại, nhưng những đóng góp của phong trào nông dân Tây Sơn là không thể phủ nhận và Tây Sơn – Nguyễn Huệ mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (bản điện tử) (2001), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2. Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội 3. Nguyễn Phan Quang (2000), Phong trào Tây Sơn và cải cách Quang Trung, Giáo trình lưu hành nội bộ 4. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 5. Ty Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình (1978), Tây Sơn Nguyễn Huệ, Kỷ yếu hội nghị nghiên cứu phong trào nông dân Tây Sơn 6. Quách Tấn – Quách Giao (2004), Nhà Tây Sơn, https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nmnmn4n31n343tq83a 3q3m3237nvn, (6/9/2018) SOME CHARACTERISTICS OF TAY SON MOVEMENT IN THE 18 th CENTURY ABSTRACT In Vietnamese feudal history, the 18 th century was a period of peasant war that culminated in Tay Son movement. Under the leadership of the three Tay Son brothers, the movement in Tay Son has evolved into a socialist movement of the whole nation, which is the struggle of farmers in the 18 th century. The article aims to understand some characteristics of Tay Son movement, thereby seeing the characteristics of the movement, at the same time seeing certain contributions of the movement to the unification and defense of the country‘s national independence. Keywords: Tay Son movement, characteristics (Received: 2/1/2019, Revised: 25/2/2019, Accepted for publication: 19/3/2019)
File đính kèm:
- mot_so_dac_trung_cua_phong_trao_tay_son_the_ky_xviii.pdf