Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam

Công nghiệp chế biến chế tạo được coi là ngành tạo động lực chủ yếu, có đóng góp lớn cho tăng

trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút

FDI và tạo việc làm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển bền vững của ngành còn tồn tại một số hạn

chế như: sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, quá trình sản xuất, chế biến gây ra nhiều tác

động xấu đến vấn đề bền vững về môi trường, Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành,

thúc đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan

trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt

Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của liên kết đến phát triển

bền vững ngành CN CBCT, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển bền vững ngành CN

CBCT trong những năm tiếp theo

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 1

Trang 1

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 2

Trang 2

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 3

Trang 3

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 4

Trang 4

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 5

Trang 5

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 6

Trang 6

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 7

Trang 7

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 8

Trang 8

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 9

Trang 9

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang viethung 10200
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam

Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
13 
LIÊN KẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP 
CHẾ BIẾN CHẾ TẠO VIỆT NAM 
LINKS FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF VIETNAM'S 
MANUFACTURING INDUSTRY 
Ngày nhận bài: 01/09/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 28/09/2020 
Vũ Thị Thanh Huyền 
TÓM TẮT 
Công nghiệp chế biến chế tạo được coi là ngành tạo động lực chủ yếu, có đóng góp lớn cho tăng 
trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút 
FDI và tạo việc làm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển bền vững của ngành còn tồn tại một số hạn 
chế như: sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, quá trình sản xuất, chế biến gây ra nhiều tác 
động xấu đến vấn đề bền vững về môi trường,  Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành, 
thúc đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan 
trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt 
Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của liên kết đến phát triển 
bền vững ngành CN CBCT, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển bền vững ngành CN 
CBCT trong những năm tiếp theo. 
Từ khóa: Công nghiệp chế biến chế tạo (CN CBCT), liên kết, phát triển bền vững. 
ABSTRACT 
Manufacturing and processing industry is considered to be the major driving force, making a great 
contribution to Vietnam's economic growth and development in recent years, through export 
promotion, FDI attraction and job creation. In addition, the sustainable development of the industry 
still has some limitations such as: production depends heavily on imports, the production process 
causes many negative impacts on environmental sustainability, ... In order to promote the 
sustainable development of the industry, promoting linkages in production and commerce in the 
industrial sector is considered as a basic and important solution. The content of the article focuses 
on analyzing the current state of linkages in the development of Vietnam's manufacturing and 
processing industry in the past time, from there, giving assessment on the impact of links to the 
sustainable development of the processing and manufacturing industry, proposing a number of 
solutions to promote the sustainable development of the industry in the following years. 
Keywords: Manufacturing and processing industry, linkages, sustainable development. 
1. Đặt vấn đề 
Liên kết trong sản xuất được coi là một 
trong những nhân tố quan trọng để giảm chi 
phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho 
ngành/ sản phẩm. Đặc biệt, đối với các ngành 
sản xuất CN chế biến, chế tạo, liên kết trong 
sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới 
công nghệ, đổi mới tổ chức hoạt động sản 
xuất, từ đó thúc đẩy việc tăng năng suất, hiệu 
quả cho ngành sản xuất và cho nền kinh tế. 
Mặc dù được đánh giá là ngành có tốc độ 
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm 
tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất 
khẩu và thu hút FDI, ... nhưng ngành CN 
CBCT Việt Nam thời gian qua vẫn trong tình 
trạng giá trị gia tăng thấp, sự tham gia thực 
chất của các DN nội địa Việt nam vẫn còn rất 
hạn chế. Những điều này đặt ra vấn đề cần 
xem xét một cách nghiêm túc về thực trạng 
liên kết trong hoạt động sản xuất CN CBCT 
Việt Nam thời gian qua, để đưa ra những giải 
pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền 
vững của ngành CN CBCT Việt Nam những 
năm tiếp theo. 
Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương mại 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
14 
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Liên kết và vai trò của liên kết trong 
phát triển bền vững công nghiệp CBCT 
2.1.1. Khái niệm Liên kết 
Theo (Ký and Duy, 2012) , liên kết kinh tế 
là hình thức hợp tác và phối hợp thường 
xuyên các hoạt động do các chủ thể kinh tế 
tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực 
hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan 
đến công việc sản xuất, kinh doanh của các 
bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh 
doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Mục 
tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ 
kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh 
tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành 
phân công sản xuất chuyên môn hóa, khai 
thác tốt các tiềm năng của từng đơn vị tham 
gia liên kết. Còn theo (Thanh, 2009), liên kết 
kinh tế là một xu thế tất yếu của xã hội phát 
triển, là một trong những hình thức hợp tác ở 
trình độ cao của con người trong quá trình 
sản xuất, kinh doanh. Ở cấp độ ngành, doanh 
nghiệp, liên kết kinh tế bao gồm nhiều cấp độ 
và loại hình đa dạng như: liên kết dọc, liên 
kết nghiêng, liên kết hình sao, doanh nghiệp 
liên doanh, tập đoàn kinh doanh. Các quan 
điểm tương tự cũng được thể hiện trong một 
số nghiên cứu của (Huân, 2012), (Tùng, 
2018),  
Theo (World Bank, 2017), quá trình liên 
kết được điều chỉnh bởi mối quan hệ kinh tế 
giữa các tập đoàn đa quốc gia (MNE)/ các 
công ty hàng đầu với vai trò là người mua, và 
các công ty trong nước là các nhà cung cấp 
trong một chuỗi cung ứng nhất định. 
Khái niệm liên kết công nghiệp: Theo 
nghĩa hẹp, có thể đưa ra một định nghĩa giới 
hạn về liên kết giữa các dòng cung ứng, 
nguyên liệu thô, hàng hóa bán thành phẩm và 
linh phụ kiện hoặc hàng hóa thành phẩm; 
giữa các mối quan tâm thương mại. Nói cách 
khác, liên kết công nghiệp có thể xảy ra khi 
một hãng sản xuất mua các đầu vào để sản 
xuất hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc bán cho 
hãng sản xuất khác. Theo nghĩa rộng, liên kết 
công nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động 
hợp tác, bao gồm các luồng vật liệu và thông 
tin, giữa các yếu tố riêng biệt và các chức 
năng của hệ thống sản xuất. Liên kết sản xuất 
là một sự kết hợp các sản phẩm chảy từ các 
nhà máy, đến các nhà bán lẻ, bán buôn, công 
chúng, cũng như các hãng sản xuất khác. 
(Dobson, 1984)) 
Liên kết công nghiệp diễn ra giữa các 
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Liên kết 
công nghiệp có thể diễn ra theo chiều dọc và 
t ... P CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
23 
Bảng 3. Các hệ số tác động của ngành CN CBCT và các ngành còn lại trong nền kinh tế giai 
đoạn 2011-2015 và 2016-2020 
Liên 
kết 
ngược 
Liên 
kết 
xuôi 
Hệ số 
lan tỏa 
đến NK 
Liên 
kết 
ngược 
Liên 
kết 
xuôi 
Hệ số 
lan tỏa 
đến NK 
1 Sản phẩm nông nghiệp, lâm 
nghiệp và thủy sản 
1,06 1,38 1,12 1,13 1,45 1,20 
2 Sản phẩm khai khoáng 1,10 0,93 1,57 0,97 0,86 1,28 
3 Sản phẩm công nghiệp chế 
biến, chế tạo 
1,16 3,89 1,82 1,18 4,67 1,65 
4 Điện, khí đốt, nước nóng hơi 
nước và điều hòa không khí 
0,93 0,83 0,63 0,87 0,77 0,67 
5 Nước tự nhiên khai thác; dịch vụ 
quản lý và xử lý rác thải, nước 
thải 
0,91 0,69 0,96 0,94 0,62 1,04 
6 Sản phẩm xây dựng 1,10 0,77 1,46 1,20 0,71 1,48 
7 DV bán buôn và bán lẻ; dịch vụ 
sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và 
xe có động cơ khác 
0,88 0,98 0,57 0,95 0,96 0,75 
8 DV vận tải kho bãi 1,03 0,99 1,25 1,13 0,96 1,31 
9 DV thông tin và truyền thông 1,74 1,01 2,43 1,05 0,92 1,28 
10 DV tài chính, ngân hàng và bảo 
hiểm 
0,93 1,03 0,52 0,96 0,99 0,64 
11 DV kinh doanh BĐS 0,80 0,82 0,31 0,89 0,81 0,52 
12 DV chuyên môn, khoa học và 
công nghệ 
1,02 0,81 0,93 1,00 0,83 0,93 
13 DV hành chính và hỗ trợ 0,85 0,68 0,58 1,03 0,62 0,92 
14 DV của Đảng cộng sản, tổ chức 
chính trị - xã hội, quản lý nhà 
nước, an ninh quốc phòng  
0,79 0,61 0,42 0,87 0,54 0,68 
15 DV giáo dục và đào tạo 0,80 0,63 0,36 0,84 0,56 0,54 
16 DV y tế và trợ giúp xã hội 0,94 0,62 1,52 1,00 0,54 1,43 
17 DV nghệ thuật, vui chơi và giải 
trí 
1,01 0,70 0,62 1,00 0,62 0,64 
18 DV khác 0,95 0,63 0,93 0,98 0,55 1,02 
Nguồn: Xử lý và tính toán từ bảng I-O 2012, 2016, Tổng cục Thống kê 
Một điểm nổi bật là, CN CBCT là ngành 
có có hệ số liên kết xuôi lớn nhất trong số 18 
nhóm ngành và hệ số liên kết ngược đứng vị 
trí thứ hai. Đặc biệt, hệ số liên kết xuôi của 
ngành CN CBCT có giá trị tương đối lớn 
(3,89 trong giai đoạn 2011-2015 và tiếp tục 
tăng lên 4,67 trong giai đoạn 2016-2020), 
thể hiện vai trò cung ứng lớn của CN CBCT 
cho toàn bộ các ngành sản xuất còn lại trong 
nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ số liên kết 
ngược của CN CBCT cũng lớn hơn 1 (tương 
ứng với giá trị 1,16 và 1,18 trong hai giai 
đoạn), những ngành có chỉ tiêu liên kết 
ngược lớn hơn 1 sẽ được xem là ngành có 
sức lan tỏa lớn, như vậy, một sự tăng hoặc 
giảm về cầu cuối cùng đối với sản phẩm của 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
24 
các ngành CN CBCT sẽ ảnh hưởng đáng kể 
đến các ngành khác và cả nền kinh tế. Như 
vậy, có thể đánh giá rằng, CN CBCT có tác 
động liên kết lớn với các ngành trong nền 
kinh tế, sự phát triển của CN CBCT có tác 
động lớn đến hoạt động sản xuất của các 
ngành còn lại trong nền kinh tế. 
Về tác động đến nhập khẩu, có thể thấy 
rằng, CN CBCT hiện đang là ngành có hệ số 
lan tỏa đến nhập khẩu tương đối lớn ( tương 
ứng 1,82 và 1,65 trong hai giai đoạn), tuy 
nhiên, xu hướng là giảm dần. Như vậy, sản 
xuất CN CBCT của Việt Nam hiện nay vẫn 
phụ thuộc lớn vào nhập khẩu tư liệu sản xuất 
và nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến cho 
đóng góp của ngành vào GTGT của nền kinh 
tế vẫn ở mức thấp, dẫn đến hạn chế việc tăng 
thu nhập, tăng mức sống cho người lao động, 
cản trở tính bền vững về xã hội trong quá 
trình phát triển bền vững của ngành. Điều 
này đặt ra yêu cầu cần thiết phải phát triển 
các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước để 
nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, từ đó, nâng cao sự 
đóng góp của CN CBCT vào GTGT của nền 
kinh tế, cũng chính là đóng góp vào tăng 
trưởng kinh tế của Việt Nam trong những 
năm tiếp theo. 
Về mối liên kết giữa các doanh nghiệp 
trong chuỗi sản xuất, cung ứng CN CBCT: 
Về cơ bản, sau hơn 30 năm phát triển, ngành 
CN CBCT Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp 
ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các 
doanh nghiệp trong nước vẫn gần như chỉ 
khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và 
giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. 
Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI đang 
đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ 
kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản 
phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh 
nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh 
nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa 
đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI 
phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước 
xung quanh. 
Bảng 4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước 
của các nhà lắp ráp tại Việt Nam 
Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng 
trong nước 
Xe máy 85-90% 
Ô tô 15-40% 
Sản xuất thiết bị đồng bộ 20% 
Sản xuất máy nông 
nghiệp, máy động lực 
40-60% 
Sản xuất máy công 
nghiệp 
40% 
Công nghiệp công nghệ 
cao 
10% 
Nguồn: Bộ Công thương, 2017 
Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các 
nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp 
đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm 
CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản 
xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh 
nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, 
giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi 
mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất 
kém) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ 
các doanh nghiệp nội địa. Sự liên kết yếu 
giữa các DN trong quá trình sản xuất của 
ngành CN CBCT cũng gây ra những khó 
khăn trong việc cải thiện môi trường sản 
xuất, bảo vệ môi trường sinh thái, cản trở sự 
cải thiện về tính bền vững trong môi trường 
trong quá trình phát triển của ngành. 
Về sự hình thành các cụm, khu CN, cụm 
liên kết ngành (CLKN) 
Trong những năm qua, một số CLKN, 
cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một 
cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng 
Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của 
nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết 
các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon, 
Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng 
linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, 
Santomas, Yasufuku, ...; Tại miền bắc, cụm 
CN bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái 
Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
25 
Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều 
các Tập đoàn đa quốc gia như Canon, 
Samsung, Nokia, LG, Panasonic, ... và nhiều 
doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI; 
trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai 
trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển 
các cụm ngành. Tại miền nam, hiện cũng đã 
bắt đầu hình thành cụm ngành công nghệ 
cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công nghệ 
thông tin ở TP Hồ Chí Minh; cụm ngành điện 
tử tại Bình Dương; ... Tuy nhiên, sự tham gia 
của DN CNHT nội địa vẫn còn rất hạn chế, 
thể hiện sự liên kết yếu giữa các DN nội địa 
với các công ty điện tử lớn, các tập đoàn đa 
quốc gia. 
Sự mở rộng liên tục về mặt quy mô các 
KCN, cụm CN nhưng không được định 
hướng một cách hợp lý cũng là nguyên nhân 
chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi 
trường ngày một nghiêm trọng ở các khu, 
cụm công nghiệp, ảnh hưởng xấu đến quá 
trình phát triển bền vững của toàn ngành. 
Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp 
hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của 
CIEM (2016)(Viện Nghiên cứu Mitsubishi 
and Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung 
Ương, 2016), chính quyền địa phương đang 
vận hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung 
tâm khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố, 
tuy nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại 
của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì 
vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất 
thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa 
DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN. Điều 
này cũng gây ra khó khăn trong công tác 
định hướng, triển khai các chính sách tác 
động của Nhà nước theo hướng sản xuất bền 
vững ngành CN CBCT. 
4. Kết luận và đề xuất một số giải pháp 
thúc đẩy liên kết để phát triển bền vững 
ngành CN CBCT 
Như vậy, có thể thấy rằng, trong những 
năm vừa qua, ngành CN CBCT đã có những 
bước phát triển nhanh chóng, đã có những 
đóng góp đáng kể và được coi là động lực chủ 
yếu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thúc 
đẩy xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Tuy 
nhiên, thực trạng quá trình phát triển của 
ngành cũng cho thấy một số hạn chế lớn còn 
tồn tại, đặc biệt là sự liên kết yếu trong quá 
trình sản xuất khiến ngành CN CBCT khó có 
thể nâng cao giá trị gia tăng và đóng góp thực 
chất hơn vào quá trình phát triển bền vững của 
ngành. Trong những năm tiếp theo, ngành CN 
CBCT vẫn được coi là động lực chính cho 
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để có thể thúc 
đẩy sự phát triển bền vững của ngành CN 
CBCT, cần có những giải pháp để thúc đẩy 
liên kết trong ngành CN CBCT. Cụ thể là: 
Thứ nhất, các DN nội địa cần nỗ lực hơn 
nữa trong việc nâng cao năng lực sản xuất để 
đáp ứng các yêu cầu của DN FDI, các tập 
đoàn đa quốc gia, tham gia vào các chuỗi 
cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, nâng 
cao giá trị gia tăng và thúc đẩy quá trình phát 
triển bền vững cho toàn ngành CN CBCT. Để 
làm được điều này, giải pháp nỗ lực đổi mới 
công nghệ và đổi mới tổ chức hoạt động sản 
xuất, chú trọng đến các vấn đề bảo vệ môi 
trường sẽ có ý nghĩa lớn. Các doanh nghiệp 
cần chủ động đổi mới, áp dụng tiến bộ công 
nghệ vào hoạt động sản xuất; tăng cường kết 
nối với các DN, tập đoàn đa quốc gia để học 
hỏi, tiếp thu công nghệ và quá trình tổ chức 
hoạt động sản xuất để tăng năng suất, giá trị 
gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú 
trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
trong DN để nắm bắt tốt công nghệ, các thông 
tin về sản xuất, thị trường, ... Đồng thời, quy 
trình sản xuất cần quan tâm đến các vấn đề 
bảo vệ môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn về 
môi trường trong quá trình sản xuất, điều này 
là rất quan trọng để có thể tham gia vào các 
chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu và 
đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe khi 
Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào quá 
trình hội nhập kinh tế thế giới. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
26 
Thứ hai, Chính phủ cũng cần có các chính 
sách để phát triển các khu, cụm ngành công 
nghiệp theo hướng chuyên sâu để tạo thành 
các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, từ đó, 
thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và 
giữa DN nội địa với DN FDI, các tập đoàn đa 
quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp 
dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong quá 
trình sản xuất . Đồng thời, cần định hướng 
dòng vốn FDI theo hướng tăng cường liên 
kết với DN trong nước, tăng cường thu hút 
FDI vào các các ngành công nghiệp hỗ trợ để 
tăng tỷ lệ nội địa hóa, áp dụng công nghệ tiên 
tiến vào quá trình sản xuất để hạn chế tình 
trạng ô nhiễm môi trường, cải thiện tính bền 
vững về môi trường. 
Mặt khác, cần tăng cường sự phối hợp và 
liên kết giữa DN với các cơ quan quản lý 
Nhà nước, các tổ chức, trung tâm, hiệp hội 
hỗ trợ DN để có thể kịp thời trao đổi, cung 
cấp các thông tin, quy định liên quan đến 
việc thực thi các Hiệp định, các thông tin về 
thị trường, các thông tin về chính sách ưu 
đãi, chính sách hỗ trợ, chính sách liên quan 
đến môi trường ... cho doanh nghiệp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Abdin, J. 2016. Government’s role in industrial cluster development [Online]. Available: 
https://www.linkedin.com/pulse/governments-role-industrial-cluster-development-md-
joynal-abdin [Accessed 4-9 2018]. 
Bắc, N. H. 2020. Nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái 
Nguyên. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. 
Bộ Tài nguyên và Môi trường 2015. Báo cáo về hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 
– 2015 Hà Nội. 
Chính phủ 2020. Dự thảo Báo cáo về công tác bảo vệ môi trường năm 2019. Hà Nội. 
Colovic, A. & Lamotte, O. 2014. The role of formal industry clusters in the internationalization 
of new ventures. European Business Review, 26, 449-470. 
Dobson, S. M. 1984. An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the 
case of devon and cornwall. Universit y of Exeter. 
Huân, N. V. 2012. Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu. Hà Nội. 
Ký, H. M. & Duy, L. M. N. 2012. Liên kết kinh tế vùng: Từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn 
đàn kinh tế mùa thu 2012. Hà Nội. 
Levinson, C. 2018. Definition of the Manufacturing Industry. Available: 
https://bizfluent.com/facts-6853113-definition-manufacturing-industry.html. 
Liêm, P. S. Tăng cường liên kết công nghiệp giữa Hà Nội và các địa phương trong vùng thủ đô 
[Online].Available: 
CacTinh.pdf [Accessed 30/8 2020]. 
Nadvi, K. & BARRIENTOS, S. 2004. Industrial clusters and poverty reduction. 
Ngọc, L. M. & TRANG, L. H. 2011. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết 
ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Nghiên cứu kinh tế số 396, 41-50. 
Sơn, N. N. 2015. Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và 
hội nhập kinh tế quốc tế. Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và 
ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập. Hà Nội. 
Tài, N. Đ. 2013. Hình thành và phát triển cụm liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn chính 
sách [Online]. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung Ương. 
Available: 
cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua-chon-chinh-sach.html [Accessed 20/7/2016 2016]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 
27 
Thanh, T. B. 2009. Liên kết kinh tế miền Trung và Tây Nguyên - Từ lý luận đến thực tiễn. Tạp 
chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 1-5. 
Thành, V. T. Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam. 
Tổng cục thống kê 2020. Niên giám thống kê 2019. Hà Nội: NXB Thống kê. 
Tùng, N. T. 2018. Xây dựng liên kết kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Luận án tiến 
sỹ kinh tế, Học viện khoa học xã hội. 
Viện năng suất Việt Nam 2018. Báo cáo năng suất Việt Nam 2017. Viện Năng suất Việt Nam. 
Viện nghiên cứu Mitsubishi & Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 2016. Báo cáo 
Nghiên cứu về nâng cao năng lực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội, Việt 
Nam. 
World Bank 2017. Việt Nam: Tăng cường năng lực cạnh tranh và liên kết của doanh nghiệp 
vừa và nhỏ Bài học kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdflien_ket_de_phat_trien_ben_vung_nganh_cong_nghiep_che_bien_c.pdf