Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
Công nghiệp chế biến chế tạo được coi là ngành tạo động lực chủ yếu, có đóng góp lớn cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút
FDI và tạo việc làm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển bền vững của ngành còn tồn tại một số hạn
chế như: sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, quá trình sản xuất, chế biến gây ra nhiều tác
động xấu đến vấn đề bền vững về môi trường, Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành,
thúc đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan
trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt
Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của liên kết đến phát triển
bền vững ngành CN CBCT, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển bền vững ngành CN
CBCT trong những năm tiếp theo
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 13 LIÊN KẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN CHẾ TẠO VIỆT NAM LINKS FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF VIETNAM'S MANUFACTURING INDUSTRY Ngày nhận bài: 01/09/2020 Ngày chấp nhận đăng: 28/09/2020 Vũ Thị Thanh Huyền TÓM TẮT Công nghiệp chế biến chế tạo được coi là ngành tạo động lực chủ yếu, có đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút FDI và tạo việc làm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển bền vững của ngành còn tồn tại một số hạn chế như: sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, quá trình sản xuất, chế biến gây ra nhiều tác động xấu đến vấn đề bền vững về môi trường, Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành, thúc đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của liên kết đến phát triển bền vững ngành CN CBCT, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển bền vững ngành CN CBCT trong những năm tiếp theo. Từ khóa: Công nghiệp chế biến chế tạo (CN CBCT), liên kết, phát triển bền vững. ABSTRACT Manufacturing and processing industry is considered to be the major driving force, making a great contribution to Vietnam's economic growth and development in recent years, through export promotion, FDI attraction and job creation. In addition, the sustainable development of the industry still has some limitations such as: production depends heavily on imports, the production process causes many negative impacts on environmental sustainability, ... In order to promote the sustainable development of the industry, promoting linkages in production and commerce in the industrial sector is considered as a basic and important solution. The content of the article focuses on analyzing the current state of linkages in the development of Vietnam's manufacturing and processing industry in the past time, from there, giving assessment on the impact of links to the sustainable development of the processing and manufacturing industry, proposing a number of solutions to promote the sustainable development of the industry in the following years. Keywords: Manufacturing and processing industry, linkages, sustainable development. 1. Đặt vấn đề Liên kết trong sản xuất được coi là một trong những nhân tố quan trọng để giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho ngành/ sản phẩm. Đặc biệt, đối với các ngành sản xuất CN chế biến, chế tạo, liên kết trong sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất, từ đó thúc đẩy việc tăng năng suất, hiệu quả cho ngành sản xuất và cho nền kinh tế. Mặc dù được đánh giá là ngành có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu và thu hút FDI, ... nhưng ngành CN CBCT Việt Nam thời gian qua vẫn trong tình trạng giá trị gia tăng thấp, sự tham gia thực chất của các DN nội địa Việt nam vẫn còn rất hạn chế. Những điều này đặt ra vấn đề cần xem xét một cách nghiêm túc về thực trạng liên kết trong hoạt động sản xuất CN CBCT Việt Nam thời gian qua, để đưa ra những giải pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành CN CBCT Việt Nam những năm tiếp theo. Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương mại TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 14 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Liên kết và vai trò của liên kết trong phát triển bền vững công nghiệp CBCT 2.1.1. Khái niệm Liên kết Theo (Ký and Duy, 2012) , liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các chủ thể kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hóa, khai thác tốt các tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết. Còn theo (Thanh, 2009), liên kết kinh tế là một xu thế tất yếu của xã hội phát triển, là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao của con người trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ở cấp độ ngành, doanh nghiệp, liên kết kinh tế bao gồm nhiều cấp độ và loại hình đa dạng như: liên kết dọc, liên kết nghiêng, liên kết hình sao, doanh nghiệp liên doanh, tập đoàn kinh doanh. Các quan điểm tương tự cũng được thể hiện trong một số nghiên cứu của (Huân, 2012), (Tùng, 2018), Theo (World Bank, 2017), quá trình liên kết được điều chỉnh bởi mối quan hệ kinh tế giữa các tập đoàn đa quốc gia (MNE)/ các công ty hàng đầu với vai trò là người mua, và các công ty trong nước là các nhà cung cấp trong một chuỗi cung ứng nhất định. Khái niệm liên kết công nghiệp: Theo nghĩa hẹp, có thể đưa ra một định nghĩa giới hạn về liên kết giữa các dòng cung ứng, nguyên liệu thô, hàng hóa bán thành phẩm và linh phụ kiện hoặc hàng hóa thành phẩm; giữa các mối quan tâm thương mại. Nói cách khác, liên kết công nghiệp có thể xảy ra khi một hãng sản xuất mua các đầu vào để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc bán cho hãng sản xuất khác. Theo nghĩa rộng, liên kết công nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động hợp tác, bao gồm các luồng vật liệu và thông tin, giữa các yếu tố riêng biệt và các chức năng của hệ thống sản xuất. Liên kết sản xuất là một sự kết hợp các sản phẩm chảy từ các nhà máy, đến các nhà bán lẻ, bán buôn, công chúng, cũng như các hãng sản xuất khác. (Dobson, 1984)) Liên kết công nghiệp diễn ra giữa các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Liên kết công nghiệp có thể diễn ra theo chiều dọc và t ... P CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 23 Bảng 3. Các hệ số tác động của ngành CN CBCT và các ngành còn lại trong nền kinh tế giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020 Liên kết ngược Liên kết xuôi Hệ số lan tỏa đến NK Liên kết ngược Liên kết xuôi Hệ số lan tỏa đến NK 1 Sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 1,06 1,38 1,12 1,13 1,45 1,20 2 Sản phẩm khai khoáng 1,10 0,93 1,57 0,97 0,86 1,28 3 Sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo 1,16 3,89 1,82 1,18 4,67 1,65 4 Điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí 0,93 0,83 0,63 0,87 0,77 0,67 5 Nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải 0,91 0,69 0,96 0,94 0,62 1,04 6 Sản phẩm xây dựng 1,10 0,77 1,46 1,20 0,71 1,48 7 DV bán buôn và bán lẻ; dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 0,88 0,98 0,57 0,95 0,96 0,75 8 DV vận tải kho bãi 1,03 0,99 1,25 1,13 0,96 1,31 9 DV thông tin và truyền thông 1,74 1,01 2,43 1,05 0,92 1,28 10 DV tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 0,93 1,03 0,52 0,96 0,99 0,64 11 DV kinh doanh BĐS 0,80 0,82 0,31 0,89 0,81 0,52 12 DV chuyên môn, khoa học và công nghệ 1,02 0,81 0,93 1,00 0,83 0,93 13 DV hành chính và hỗ trợ 0,85 0,68 0,58 1,03 0,62 0,92 14 DV của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng 0,79 0,61 0,42 0,87 0,54 0,68 15 DV giáo dục và đào tạo 0,80 0,63 0,36 0,84 0,56 0,54 16 DV y tế và trợ giúp xã hội 0,94 0,62 1,52 1,00 0,54 1,43 17 DV nghệ thuật, vui chơi và giải trí 1,01 0,70 0,62 1,00 0,62 0,64 18 DV khác 0,95 0,63 0,93 0,98 0,55 1,02 Nguồn: Xử lý và tính toán từ bảng I-O 2012, 2016, Tổng cục Thống kê Một điểm nổi bật là, CN CBCT là ngành có có hệ số liên kết xuôi lớn nhất trong số 18 nhóm ngành và hệ số liên kết ngược đứng vị trí thứ hai. Đặc biệt, hệ số liên kết xuôi của ngành CN CBCT có giá trị tương đối lớn (3,89 trong giai đoạn 2011-2015 và tiếp tục tăng lên 4,67 trong giai đoạn 2016-2020), thể hiện vai trò cung ứng lớn của CN CBCT cho toàn bộ các ngành sản xuất còn lại trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ số liên kết ngược của CN CBCT cũng lớn hơn 1 (tương ứng với giá trị 1,16 và 1,18 trong hai giai đoạn), những ngành có chỉ tiêu liên kết ngược lớn hơn 1 sẽ được xem là ngành có sức lan tỏa lớn, như vậy, một sự tăng hoặc giảm về cầu cuối cùng đối với sản phẩm của TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 24 các ngành CN CBCT sẽ ảnh hưởng đáng kể đến các ngành khác và cả nền kinh tế. Như vậy, có thể đánh giá rằng, CN CBCT có tác động liên kết lớn với các ngành trong nền kinh tế, sự phát triển của CN CBCT có tác động lớn đến hoạt động sản xuất của các ngành còn lại trong nền kinh tế. Về tác động đến nhập khẩu, có thể thấy rằng, CN CBCT hiện đang là ngành có hệ số lan tỏa đến nhập khẩu tương đối lớn ( tương ứng 1,82 và 1,65 trong hai giai đoạn), tuy nhiên, xu hướng là giảm dần. Như vậy, sản xuất CN CBCT của Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc lớn vào nhập khẩu tư liệu sản xuất và nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến cho đóng góp của ngành vào GTGT của nền kinh tế vẫn ở mức thấp, dẫn đến hạn chế việc tăng thu nhập, tăng mức sống cho người lao động, cản trở tính bền vững về xã hội trong quá trình phát triển bền vững của ngành. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, từ đó, nâng cao sự đóng góp của CN CBCT vào GTGT của nền kinh tế, cũng chính là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm tiếp theo. Về mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, cung ứng CN CBCT: Về cơ bản, sau hơn 30 năm phát triển, ngành CN CBCT Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI đang đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh. Bảng 4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước của các nhà lắp ráp tại Việt Nam Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng trong nước Xe máy 85-90% Ô tô 15-40% Sản xuất thiết bị đồng bộ 20% Sản xuất máy nông nghiệp, máy động lực 40-60% Sản xuất máy công nghiệp 40% Công nghiệp công nghệ cao 10% Nguồn: Bộ Công thương, 2017 Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất kém) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa. Sự liên kết yếu giữa các DN trong quá trình sản xuất của ngành CN CBCT cũng gây ra những khó khăn trong việc cải thiện môi trường sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái, cản trở sự cải thiện về tính bền vững trong môi trường trong quá trình phát triển của ngành. Về sự hình thành các cụm, khu CN, cụm liên kết ngành (CLKN) Trong những năm qua, một số CLKN, cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon, Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, Santomas, Yasufuku, ...; Tại miền bắc, cụm CN bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 25 Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều các Tập đoàn đa quốc gia như Canon, Samsung, Nokia, LG, Panasonic, ... và nhiều doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI; trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển các cụm ngành. Tại miền nam, hiện cũng đã bắt đầu hình thành cụm ngành công nghệ cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công nghệ thông tin ở TP Hồ Chí Minh; cụm ngành điện tử tại Bình Dương; ... Tuy nhiên, sự tham gia của DN CNHT nội địa vẫn còn rất hạn chế, thể hiện sự liên kết yếu giữa các DN nội địa với các công ty điện tử lớn, các tập đoàn đa quốc gia. Sự mở rộng liên tục về mặt quy mô các KCN, cụm CN nhưng không được định hướng một cách hợp lý cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày một nghiêm trọng ở các khu, cụm công nghiệp, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển bền vững của toàn ngành. Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của CIEM (2016)(Viện Nghiên cứu Mitsubishi and Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, 2016), chính quyền địa phương đang vận hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung tâm khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố, tuy nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN. Điều này cũng gây ra khó khăn trong công tác định hướng, triển khai các chính sách tác động của Nhà nước theo hướng sản xuất bền vững ngành CN CBCT. 4. Kết luận và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy liên kết để phát triển bền vững ngành CN CBCT Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm vừa qua, ngành CN CBCT đã có những bước phát triển nhanh chóng, đã có những đóng góp đáng kể và được coi là động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Tuy nhiên, thực trạng quá trình phát triển của ngành cũng cho thấy một số hạn chế lớn còn tồn tại, đặc biệt là sự liên kết yếu trong quá trình sản xuất khiến ngành CN CBCT khó có thể nâng cao giá trị gia tăng và đóng góp thực chất hơn vào quá trình phát triển bền vững của ngành. Trong những năm tiếp theo, ngành CN CBCT vẫn được coi là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để có thể thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành CN CBCT, cần có những giải pháp để thúc đẩy liên kết trong ngành CN CBCT. Cụ thể là: Thứ nhất, các DN nội địa cần nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy quá trình phát triển bền vững cho toàn ngành CN CBCT. Để làm được điều này, giải pháp nỗ lực đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất, chú trọng đến các vấn đề bảo vệ môi trường sẽ có ý nghĩa lớn. Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới, áp dụng tiến bộ công nghệ vào hoạt động sản xuất; tăng cường kết nối với các DN, tập đoàn đa quốc gia để học hỏi, tiếp thu công nghệ và quá trình tổ chức hoạt động sản xuất để tăng năng suất, giá trị gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong DN để nắm bắt tốt công nghệ, các thông tin về sản xuất, thị trường, ... Đồng thời, quy trình sản xuất cần quan tâm đến các vấn đề bảo vệ môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường trong quá trình sản xuất, điều này là rất quan trọng để có thể tham gia vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu và đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe khi Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 26 Thứ hai, Chính phủ cũng cần có các chính sách để phát triển các khu, cụm ngành công nghiệp theo hướng chuyên sâu để tạo thành các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, từ đó, thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và giữa DN nội địa với DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong quá trình sản xuất . Đồng thời, cần định hướng dòng vốn FDI theo hướng tăng cường liên kết với DN trong nước, tăng cường thu hút FDI vào các các ngành công nghiệp hỗ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, cải thiện tính bền vững về môi trường. Mặt khác, cần tăng cường sự phối hợp và liên kết giữa DN với các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức, trung tâm, hiệp hội hỗ trợ DN để có thể kịp thời trao đổi, cung cấp các thông tin, quy định liên quan đến việc thực thi các Hiệp định, các thông tin về thị trường, các thông tin về chính sách ưu đãi, chính sách hỗ trợ, chính sách liên quan đến môi trường ... cho doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdin, J. 2016. Government’s role in industrial cluster development [Online]. Available: https://www.linkedin.com/pulse/governments-role-industrial-cluster-development-md- joynal-abdin [Accessed 4-9 2018]. Bắc, N. H. 2020. Nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. Bộ Tài nguyên và Môi trường 2015. Báo cáo về hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 – 2015 Hà Nội. Chính phủ 2020. Dự thảo Báo cáo về công tác bảo vệ môi trường năm 2019. Hà Nội. Colovic, A. & Lamotte, O. 2014. The role of formal industry clusters in the internationalization of new ventures. European Business Review, 26, 449-470. Dobson, S. M. 1984. An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the case of devon and cornwall. Universit y of Exeter. Huân, N. V. 2012. Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu. Hà Nội. Ký, H. M. & Duy, L. M. N. 2012. Liên kết kinh tế vùng: Từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu 2012. Hà Nội. Levinson, C. 2018. Definition of the Manufacturing Industry. Available: https://bizfluent.com/facts-6853113-definition-manufacturing-industry.html. Liêm, P. S. Tăng cường liên kết công nghiệp giữa Hà Nội và các địa phương trong vùng thủ đô [Online].Available: CacTinh.pdf [Accessed 30/8 2020]. Nadvi, K. & BARRIENTOS, S. 2004. Industrial clusters and poverty reduction. Ngọc, L. M. & TRANG, L. H. 2011. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Nghiên cứu kinh tế số 396, 41-50. Sơn, N. N. 2015. Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập. Hà Nội. Tài, N. Đ. 2013. Hình thành và phát triển cụm liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn chính sách [Online]. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung Ương. Available: cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua-chon-chinh-sach.html [Accessed 20/7/2016 2016]. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020 27 Thanh, T. B. 2009. Liên kết kinh tế miền Trung và Tây Nguyên - Từ lý luận đến thực tiễn. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 1-5. Thành, V. T. Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam. Tổng cục thống kê 2020. Niên giám thống kê 2019. Hà Nội: NXB Thống kê. Tùng, N. T. 2018. Xây dựng liên kết kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện khoa học xã hội. Viện năng suất Việt Nam 2018. Báo cáo năng suất Việt Nam 2017. Viện Năng suất Việt Nam. Viện nghiên cứu Mitsubishi & Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 2016. Báo cáo Nghiên cứu về nâng cao năng lực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam. World Bank 2017. Việt Nam: Tăng cường năng lực cạnh tranh và liên kết của doanh nghiệp vừa và nhỏ Bài học kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Hà Nội.
File đính kèm:
- lien_ket_de_phat_trien_ben_vung_nganh_cong_nghiep_che_bien_c.pdf