Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị

Đô thị hóa đã giúp các thành phố trên thế giới phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành những

“đô thị hiện đại” với cách tiếp cận được đánh giá là (1) Phân khu chức năng quá mức khiến người dân cả

ngày phải di chuyển từ khu này sang khu khác; (2) Đô thị trở nên buồn chán, bị các đại lộ chia cắt, không

có phố phường; (3) Công năng đô thị yếu kém, nhiều người bỏ ra ở dọc các đường ngoại thành; (4) Truyền

thống văn hóa và lịch sử bị xem nhẹ do chủ trương triệt hạ các khu đô thị cũ để xây mới; (5) Khuyến khích

công trình kiến trúc mang tính tượng đài, xa rời môi trường chung quanh và tầm vóc con người; (6) Nhà ở lắp

ghép, đơn điệu; khu nhà ở bố trí như doanh trại, thiếu công năng hỗn hợp, đi lại dựa vào xe hơi; (7) Mạng

giao thông gồm các đại lộ và đường nhánh tạo ra tắc nghẽn giao thông

 

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 1

Trang 1

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 2

Trang 2

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 3

Trang 3

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 4

Trang 4

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 5

Trang 5

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 6260
Bạn đang xem tài liệu "Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị

Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị
SË 94 . 201872
Đặt vấn đề
Đô thị hóa đã giúp các thành phố trên thế giới phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành những 
“đô thị hiện đại” với cách tiếp cận được đánh giá là (1) Phân khu chức năng quá mức khiến người dân cả 
ngày phải di chuyển từ khu này sang khu khác; (2) Đô thị trở nên buồn chán, bị các đại lộ chia cắt, không 
có phố phường; (3) Công năng đô thị yếu kém, nhiều người bỏ ra ở dọc các đường ngoại thành; (4) Truyền 
thống văn hóa và lịch sử bị xem nhẹ do chủ trương triệt hạ các khu đô thị cũ để xây mới; (5) Khuyến khích 
công trình kiến trúc mang tính tượng đài, xa rời môi trường chung quanh và tầm vóc con người; (6) Nhà ở lắp 
ghép, đơn điệu; khu nhà ở bố trí như doanh trại, thiếu công năng hỗn hợp, đi lại dựa vào xe hơi; (7) Mạng 
giao thông gồm các đại lộ và đường nhánh tạo ra tắc nghẽn giao thông [1].
Các đô thị Việt Nam cũng nằm trong xu hướng đó, thậm chí do ảnh hưởng của chế độ kinh tế tập trung bao 
cấp trước đây, còn được quy hoạch chủ yếu theo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, thiếu vắng các yếu tố xã hội 
[2]. Hiện nay, những quan điểm đó đã bắt đầu dần thay đổi, thế giới mong muốn đô thị là những nơi chốn tập 
trung dân cư thể hiện qua những giá trị mang tính cảm xúc và tinh thần của đô thị như bản sắc, lịch sử, đa 
dạng, thân thiện, sống tốt... Những đô thị, thay vì chỉ đơn thuần là sự kiến tạo vật chất không ngừng, cần trở 
nên “con người” hơn - của con người, do con người và vì con người - điều tưởng chừng là tất nhiên nhưng lại 
vô cùng khó thực hiện tại các thành phố vốn đang đề cao sự tăng trưởng đô thị. Thành phố trở thành những 
“bộ sưu tập” các nơi chốn an cư của mỗi cư dân, mỗi cộng đồng mà vẻ đẹp, tính hấp dẫn đô thị không chỉ 
đến từ những công trình, những không gian mà còn đến từ tinh thần, cảm giác mà nơi chốn đó mang lại. 
Nhiều khu dân cư mới ồ ạt được thiết lập dưới hình thức các dự án nhà ở số lượng lớn, hướng đến mục tiêu 
cung cấp bất động sản cho thị trường thể hiện qua những con số về diện tích, tầng cao, mật độ... nhiều hơn 
là cung cấp một nơi chốn an cư hấp dẫn và đáng sống cho người dân bởi sự thiếu thốn và không đồng bộ 
các hạ tầng kỹ thuật lẫn hạ tầng xã hội, bởi những thiết kế không xuất phát từ các yếu tố hay tỷ lệ nhân văn 
phù hợp với con người, bởi những môi trường cư trú đôi lúc mang lại sự bất an cho những người sống ở đó. 
Do đó, bài viết này nhằm tổng kết các khái niệm về nơi chốn cũng như các cách thức định lượng, các tiêu chí 
đánh giá tính hấp dẫn nơi chốn cư trú, rút ra các vấn đề quan trọng trong việc kiến tạo nơi chốn để từ đó có 
thể học tập, thích ứng và áp dụng cho việc thiết kế những khu dân cư hấp dẫn và đáng sống tại các thành 
phố của Việt Nam. 
KIẾN TẠO NƠI CHỐN AN CƯ HẤP DẪN
CHO CÁC KHU DÂN CƯ ĐÔ THỊ
& TÁC GIẢ 
QUY HOẠCH
TS.KTS. TrAàN MINH TUøNG, 
ThS.KTS. NGUYỄN THAøNH HƯNG
“... Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. 
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn...”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
73SË 94 . 2018
Các khái niệm dẫn nhập
Nơi chốn - là “địa điểm đã được gán nghĩa” [3]. Theo Tuan Y-F. 
(1997) [4], nguyên gốc từ place có hai nghĩa: (1) Vị thế trong xã hội; 
(2) Vị trí trong không gian. Tuy nhiên, ông thấy rằng nơi chốn vượt lên 
trên cả hai nghĩa đó, với sự độc đáo riêng và có những quy luật riêng.
Nơi chốn cư trú, còn gọi là chốn ở - địa điểm nơi mà con người cư 
trú. Nơi chốn cư trú thường mang hàm ý xác định một phạm vi không 
gian nhất định để đảm bảo mối liên hệ mật thiết, hỗ trợ giữa tiểu môi 
trường bên trong căn nhà (nhà ở) với đại môi trường cư trú bên ngoài 
(không gian cộng đồng, công cộng...) ở các cấp độ cao hơn đủ để 
người dân có cảm giác (về) nơi chốn hay ý thức được tinh thần (của) 
nơi chốn, ví dụ như khu phố, khu đô thị, thành phố...
Kiến tạo nơi chốn - tạo ra một nơi nào đó với một bản sắc riêng biệt 
với các không gian sôi động mang lại hạnh phúc, niềm vui và nguồn 
cảm hứng. Thành công của việc kiến tạo có thể được đo bằng mức 
độ cải thiện cuộc sống, cảm giác hạnh phúc hơn và giá trị tài sản 
nâng cao hơn [5].
Cảm giác (về) nơi chốn - trải nghiệm đặc biệt của một người trong một 
môi trường đặc biệt [6] hay là mối quan hệ giữa con người và nơi chốn 
với sự khác nhau về cường độ, sự tinh tế và cách diễn đạt [5], có thể 
mang tính thẩm mỹ, xúc giác, hoặc tình cảm.
Tinh thần (của) nơi chốn - sự kết hợp của các đặc tính mang lại cho một 
số địa điểm cảm giác hoặc tính cách đặc biệt [5].
Mối quan hệ với nơi chốn - những liên quan vô hình hay hữu hình giữa 
con người với một nơi chốn, thường xảy ra nhất với nơi chốn cư trú và 
sẽ là khác nhau với những nơi chốn cư trú khác nhau. 
Nơi chốn hấp dẫn và hấp dẫn nơi chốn nhìn từ các khu 
dân cư đô thị
Đô thị luôn được xem là nơi quần cư của con người với các hoạt động 
tam giao - giao tiếp, giao thương và giao thông - diễn ra trong quá trình 
sinh sống, làm việc, vui chơi, giải trí... Tuy nhiên, với sự xuất hiện của 
các thiết bị hỗ trợ, các thiết bị giải trí cá nhân, sự trực tiếp trong mối 
quan hệ tam giao này ngày càng giảm. Internet với các mạng xã hội ảo 
lại thành một nơi thường xuyên lui tới của người dân đô thị nhiều hơn là 
các không gian thực tế. Thậm chí, sự phụ thuo ... cầu tiếp xúc, giao lưu, giải trí giữa con người với nhau, là động 
lực phát triển các không gian đô thị mạnh mẽ.
Cách làm đô thị trước đây chủ yếu của Việt Nam là tổ chức phân vùng 
theo những công năng tách biệt. Tuy nhiên, hiện nay việc tách biệt nơi 
chốn này ngày càng có tính tương đối. Để tăng cường tính tiện nghi 
ngày càng cao của cuộc sống, tuy nơi chốn cư trú vẫn là quan trọng 
nhất, nhưng đã được tích hợp thêm nhiều yếu tố của hai nơi chốn kia 
thông qua tổ chức cấu trúc không gian thành phần dựa trên việc sử 
dụng đất đai hỗn hợp, đa năng hóa các không gian, đang trở thành 
một xu thế trong kiến tạo các khu dân cư đô thị tại Việt Nam, giúp các 
Quy hoπch & t∏c gi∂ 
SË 94 . 201874
nơi chốn cư trú hoàn thiện hơn, lôi kéo và “đẩy” con người ra khỏi nhà, 
ít nhất là có thể cảm nhận được cảm giác của không gian ngay xung 
quanh, bên ngoài ngôi nhà của mình, thay vì chỉ gia tăng tiện nghi bên 
trong ngôi nhà càng khiến con người lười ra ngoài và lười xây dựng 
những mối quan hệ xã hội trực tiếp kiểu tam giao truyền thống. Ngoài 
ra, một số nơi chốn khác cũng mang ý nghĩa quan trọng trong cuộc 
sống của người Việt Nam, chẳng hạn như các không gian tâm linh, 
không gian ký ức hoài niệm, không gian di sản... gắn liền với với quá 
trình tạo dựng các chốn ở cũng là các yếu tố hiện đang bị mai một qua 
quá trình phát triển mở rộng đô thị hiện nay.
Vậy điều gì làm nên tính hấp dẫn của nơi chốn? Mulliner E., Maliene 
V. (2011) đã đưa ra một số tổng kết từ những nghiên cứu khác nhau, 
chẳng hạn như: (1) Sự hấp dẫn của một khu (cư trú) đô thị dường như 
tập trung vào chất lượng cuộc sống của người sử dụng; (2) Để nâng 
cao chất lượng cuộc sống, các nguyên tắc thiết kế đô thị, quy hoạch, 
tái sinh và các cộng đồng bền vững cần được quảng bá rộng rãi; (3) 
Thiết kế đô thị tốt là trọng tâm để tạo ra những nơi sinh sống và chất 
lượng cao; (4) Môi trường sống được hoạch định tốt, được thiết kế tốt 
và được quản lý tốt có thể tạo ra chất lượng cuộc sống vượt trội so với 
những người sống ở những nơi khác. Từ đó, các tác giả cũng hệ thống 
hóa chín yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến tính hấp dẫn của nơi chốn 
cư trú đô thị [10]:
(1) Thiên nhiên và cảnh quan - Cảnh quan được coi là một phần trung 
tâm của bất kỳ hoạt động phát triển nào vì đó là điều cần thiết cho 
cuộc sống đô thị, làm cho các khu dân cư trở nên duyên dáng, mềm 
mại hơn để sinh sống.
(2) Đa dạng hóa kiểu loại kiến trúc - Các khu đô thị hấp dẫn cung cấp 
nhiều loại tòa nhà, phong cách và kiểu dáng, thậm chí các tòa nhà bất 
thường cũng có thể xem như các điểm mốc kiến trúc.
(3) Khả năng tiếp cận nội khu - Một hệ thống giao thông công cộng, 
mạng lưới đường bộ tăng cường khả năng đi bộ, đi xe đạp là những 
yếu tố quan trọng để tạo ra một nơi chốn hấp dẫn, đảm bảo an toàn 
cho người dân.
(4) Phát triển chức năng hỗn hợp - Các khu vực nhà ở, làm việc, công 
trình công cộng, vui chơi giải trí... của khu dân cư nếu ở gần nhau, giảm 
thiểu việc di chuyển trên nguyên tắc khả năng đi bộ sẽ là nền tảng cho 
thành phố bền vững với ba cấp độ bán kính phục vụ cơ bản (200m, 
400m và 800m).
(5) Khu phố văn hoá và quảng trường công cộng - Những nơi này 
thành những không gian kết hợp các hoạt động, xây dựng hình thái đặc 
trưng và ý nghĩa, một điểm gặp gỡ, một nơi giao lưu hay phục vụ cho 
các sự kiện cộng đồng, sự kiện xã hội.
(6) An toàn - Tội phạm và sự sợ hãi tội phạm có thể làm nản lòng 
người dân. Các biện pháp kiểm soát cưỡng bức (cổng, tường rào, 
nhân viên canh gác hay camera an ninh...) tuy cần thiết nhưng về 
lâu dài, cần có những biện pháp giám sát tự nhiên và bền vững.
(7) Ánh sáng - Ánh sáng chất lượng, tự nhiên hay nhân tạo, cả ngày lẫn 
đêm có thể đóng góp đáng kể cho sự hấp dẫn của một khu vực, mang 
lại những lợi ích về sức khỏe cũng như cảm giác hạnh phúc.
(8) Nhà ở - Các khu dân cư cần tạo ra nhiều lựa chọn nhà ở để đáp ứng 
nhu cầu đa dạng và thay đổi theo vòng đời của các gia đình, thúc đẩy 
sự đa dạng xã hội, tránh những khu nhà ở biệt cư.
(9) Khả năng sinh kế - Việc tạo ra các khu vực cư trú hấp dẫn sẽ lôi 
kéo dân cư, làm gia tăng mật độ đô thị, tăng thêm cơ hội sinh kế cho 
cư dân thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề, đa dạng hóa 
nguồn thu nhập của người dân.
Định lượng tính hấp dẫn của nơi chốn cư trú và chuyển 
hóa vào (tái) thiết kế khu dân cư tại các thành phố 
Việt Nam
Sự hấp dẫn nơi chốn là một yếu tố vô hình và phụ thuộc nhiều vào 
cảm giác hay cảm nhận chủ quan của mỗi người. Lượng hóa được 
tính hấp dẫn của nơi chốn sẽ rất cần thiết để đoán định được cảm 
giác con người trong việc (tái) kiến tạo nơi chốn, thiết kế các khu 
dân cư và đô thị.
Một trong những cách định lượng tính hấp dẫn chính dựa trên cảm 
giác trải nghiệm của con người tại nơi chốn đó. Người đại diện điển 
hình hiện nay cho việc theo đuổi cách thức định lượng này là Jan 
Gehl với “Thành phố dành cho con người” (Cities for People) để (tái) 
75SË 94 . 2018
kiến tạo cảnh quan thành phố theo tỉ lệ con người (human scale) 
[11]. CBRE (2017) [5] đã sử dụng cách định lượng này (bảng 2).
Berkeley Group - một tập đoàn chuyên xây dựng bất động sản của 
Anh, dưới góc độ là một chủ thể xây dựng trực tiếp các nơi chốn cư 
trú mới, năm 2014, đã đề xuất một bộ công cụ phục vụ cho việc kiến 
tạo thành công các nơi chốn cư trú trở thành các chuẩn mực cho 
những dự án dân cư của họ [12] (bảng 3).
Trong tương lai, Việt Nam cần có hệ thống tiêu chí riêng của mình 
nhằm giúp các nhà thiết kế kiến trúc đô thị chuyển hóa vào thiết kế các 
dự án xây dựng mới hoặc tái cấu trúc các khu dân cư hiện hữu nhằm 
điều chỉnh các không gian chức năng thành phần, gia tăng tính hấp 
dẫn và đáng sống của nơi chốn cư trú. Việc xây dựng hệ thống tiêu chí 
định lượng này cần phải đảm bảo hướng đến những yếu tố quan trọng 
nhất sau đây:
(1) Thiết kế cảnh quan - Nâng cao hình ảnh của khu vực cư trú và 
khuyến khích tạo ra một cảm giác đặc biệt của nơi chốn thay vì chỉ 
cung cấp bất động sản đơn thuần như một số dự án nhà ở hiện nay 
ở Việt Nam. Một thiết kế cảnh quan tốt sẽ phải dựa trên: (1) Những 
nguyên tắc và mục tiêu đề xuất; (2) Các cuộc khảo sát cùng những 
phân tích cảnh quan của địa điểm; (3) Đề xuất thiết kế cảnh quan hợp 
lý; (4) Các cách thức quản lý và bảo trì trong tương lai.
(2) Các không gian mở - Các khu dân cư hiện tại của Việt Nam cũng 
đã chú ý đến các không gian mở này, tuy nhiên mới chỉ trên phương 
diện số lượng, còn chất lượng vẫn là một vấn đề. Do đó, việc thiết kế 
các không gian mở phải đảm bảo: (1) Cung cấp tiện nghi cho người 
Bảng 3. Bộ công cụ phục vụ kiến tạo nơi chốn thành công
Nguồn: [12]
Bảng 2. Các yếu tố định lượng cảm giác nơi chốn của một không 
gian (công cộng) theo trải nghiệm của con người
Nguồn: [5]
Quy hoπch & t∏c gi∂ 
SË 94 . 201876
dân; (2) Tăng cường sức hấp dẫn thị giác cho chính không gian lẫn 
khu vực; (3) Tăng cường các biện pháp, giải pháp an toàn, đặc biệt 
đối với trẻ nhỏ.
(3) Các không gian dịch vụ, tiện ích công cộng cơ sở - Việt Nam cũng 
đã đưa ra các quy định về các không gian dịch vụ, tiện ích công cộng 
cơ sở cho các khu dân cư mới dưới hình thức “đơn vị ở”. Các không 
gian dịch vụ, tiện ích công cộng cơ sở này cần được đề xuất ngay ở 
giai đoạn đầu trong quá trình lập kế hoạch, lập dự án - với sự tham 
vấn của các nhà cung cấp dịch vụ và cộng đồng địa phương.
(4) Nhà ở - Là mối quan tâm lớn nhất của người Việt Nam, nhà ở 
không chỉ là một không gian vật chất đơn thuần, mà còn được xem 
như một biểu tượng thể hiện vị thế, đẳng cấp, thẩm mỹ của chủ nhà. 
Mạng lưới nhà ở được thiết kế đa dạng tạo ra một cộng đồng cân 
bằng, cung cấp nhiều sự lựa chọn nhất, với nhiều hình ảnh và sự 
quan tâm của cư dân
(5) Các không gian giao thông công cộng và giao thông nhẹ - Giao 
thông nội khu dân cư Việt Nam hiện vẫn dựa trên các phương tiện cá 
nhân có động cơ dùng xăng dầu. Các khu dân cư hoặc liên khu dân 
cư cần thiết lập các không gian giao thông công cộng và giao thông 
nhẹ hợp lý, thuận tiện để giúp giảm bớt việc sử dụng xe ô tô, khuyến 
khích đi bộ và đi xe đạp. 
(6) Mạng lướng đường giao thông - Các khu dân cư Việt Nam cần hạn 
chế tối đa số lượng và tốc độ các phương tiện giao thông cơ giới không 
mong muốn chạy xuyên qua, nhưng vẫn đảm bảo sự tiếp cận của các 
phương tiện này khi sự cố, hỏa hoạn, kết hợp với việc bố trí các bãi đỗ 
xe ngoại biên hợp lý.
(7) Các trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật khu dân cư và đô thị - Gia tăng 
tiện nghi cho môi trường cư trú thông qua các hạ tầng kỹ thuật thiết yếu 
của khu dân cư và đô thị cũng như các trang thiết bị đường phố, đồng 
thời đề xuất các biện pháp lẫn tài chính cho việc vận hành và bảo trì 
đi cùng.
Thay lời kết
Thông qua những cách thức định lượng tính hấp dẫn của một nơi chốn 
cư trú, người thiết kế sẽ chuyển hóa vào trong cách thức kiến tạo, tổ 
chức không gian hướng đến những môi trường cư trú hấp dẫn:
■ Đối với các khu phố, khu dân cư cũ hiện hữu - Phát hiện các “chìa 
khóa” tạo nên sự hấp dẫn đang có, đồng thời là những nguy cơ gây 
tổn tại đến tính hấp dẫn nhằm có những điều chỉnh, những cải thiện 
khôi phục lại.
■ Đối với các khu phố, khu dân cư đang định hình - Giúp điều chỉnh 
cách thức kiến tạo các không gian hay tổ chức các hoạt động cho người 
dân, giúp chủ dự án hay chính quyền có thêm những cơ sở để chuyển 
đổi hay tăng cường tính thân thiện cho những không gian thường mang 
tính “hấp dẫn chủ quan” bởi quá trình thiết kế và người thiết kế.
■ Đối với các khu phố, khu dân cư sẽ phát triển trong tương lai - Tạo ra 
các định hướng, chiến lược phát triển các dự án thu hút dân cư nhanh 
77SË 94 . 2018
hơn nhằm rút ngắn thời gian đầu tư xây dựng và thu hồi vốn, giúp thành phố có thêm nhiều dự 
án hấp dẫn, tạo dựng hình ảnh mới cho thành phố.
Tiếp cận xã hội từ kiến tạo nơi chốn cư trú là một cách làm đang được xem là phù hợp cho sự 
phát triển nhân loại hiện nay, đặc biệt là tại các không gian đô thị, ngày càng trở nên to lớn, vượt 
quá tỉ lệ con người cả trên quy mô diện tích lẫn quy mô dân cư. Mỗi nơi chốn an cư hấp dẫn sẽ 
là một trải nghiệm tốt và trở thành những mẫu hình cho những phát triển tiếp theo, giúp thành 
phố trở thành một nơi chốn đáng sống hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Jacobs, J. (1961), The Death and Life of Great American Cities, New York: Vintage Books, 480p.
[2] PADDI (Trung tâm dự báo và nghiên cứu đô thị), Cơ quan Quy hoạch đô thị Lyon (2012), Làm thế nào để quy hoạch 
đô thị ở Việt Nam hiệu quả hơn? Trường hợp TP. Hồ Chí Minh, Tài liệu trình bày và thảo luận trong diễn đàn “Đô thị 
hóa bền vững vùng ven ở các thành phố của Việt Nam” do ADETEF và AFD tổ chức 03/2012 tại Hà Nội, truy cập ngày 
30/04/2018 từ 
de_quy_hoach_do_thi_o_Viet_Nam_hieu_qua_hon.pdf.
[3] Relph, E. (1976), Place and Placelessness, London: Pion, 174p.
[4] Tuan, Y-F. (1979). Space and place: Humanistic pespective. p.387-427 in Gale, S., Olsson, Gunnar (Eds.) (1979). 
Philosophy in Geography. Michigan: D. Reidel Publishing Company, 469p.
[5] CBRE (2017). Placemaking: Value and the public realm. CBRE Research, Retrieved April 30, 2018 from https://edco.
on.ca/resources/Documents/Global%20Placemaking.pdf.
[6] Fritz, S. (1981). The Sense of Place. Boston: CBI Publishing Company Inc.
[7] Cross, J.E. (2001). What is sense of place?. Prepared for the 12th Headwaters Conference, Western State 
College, November 2-4, 2001, Retrieved April 30, 2018 from  cross_
headwatersXII.pdf.
[8] Jordan, T. (2014). Internet, Society and Culture: Communicative Practices Before and After the Internet. New York: 
Bloomsbury Academic, 176p.
[9] Vũ Việt Anh (2016). Sự kết hợp giữa Kiến tạo nơi chốn và TOD - Mô hình phát triển không gian đô thị gắn với đường sắt 
đô thị TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Kiến trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam), 257:09/2016, trang 22-26.
[10] Mulliner, E., Maliene, V. (2011). An introductory review to the special issue: Attractive places to live. Urban Design 
International, (2011) 16, p.147-152.
[11] Gehl, J. (2010). City for people. Washington, D.C.: Island Press, 288p.
[12] Berkeley Group (2014). Creating successful places: A toolkit. 24p. Retrieved April 30, 2018 from https://www.
berkeleygroup.co.uk/media/pdf/l/h/berkeley-social-sustainability-toolkit.pdf.
Quy hoπch & t∏c gi∂ 

File đính kèm:

  • pdfkien_tao_noi_chon_an_cu_hap_dan_cho_cac_khu_dan_cu_do_thi.pdf