Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị
Đô thị hóa đã giúp các thành phố trên thế giới phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành những
“đô thị hiện đại” với cách tiếp cận được đánh giá là (1) Phân khu chức năng quá mức khiến người dân cả
ngày phải di chuyển từ khu này sang khu khác; (2) Đô thị trở nên buồn chán, bị các đại lộ chia cắt, không
có phố phường; (3) Công năng đô thị yếu kém, nhiều người bỏ ra ở dọc các đường ngoại thành; (4) Truyền
thống văn hóa và lịch sử bị xem nhẹ do chủ trương triệt hạ các khu đô thị cũ để xây mới; (5) Khuyến khích
công trình kiến trúc mang tính tượng đài, xa rời môi trường chung quanh và tầm vóc con người; (6) Nhà ở lắp
ghép, đơn điệu; khu nhà ở bố trí như doanh trại, thiếu công năng hỗn hợp, đi lại dựa vào xe hơi; (7) Mạng
giao thông gồm các đại lộ và đường nhánh tạo ra tắc nghẽn giao thông
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến tạo nơi chốn an cư hấp dẫn cho các khu dân cư đô thị
SË 94 . 201872 Đặt vấn đề Đô thị hóa đã giúp các thành phố trên thế giới phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành những “đô thị hiện đại” với cách tiếp cận được đánh giá là (1) Phân khu chức năng quá mức khiến người dân cả ngày phải di chuyển từ khu này sang khu khác; (2) Đô thị trở nên buồn chán, bị các đại lộ chia cắt, không có phố phường; (3) Công năng đô thị yếu kém, nhiều người bỏ ra ở dọc các đường ngoại thành; (4) Truyền thống văn hóa và lịch sử bị xem nhẹ do chủ trương triệt hạ các khu đô thị cũ để xây mới; (5) Khuyến khích công trình kiến trúc mang tính tượng đài, xa rời môi trường chung quanh và tầm vóc con người; (6) Nhà ở lắp ghép, đơn điệu; khu nhà ở bố trí như doanh trại, thiếu công năng hỗn hợp, đi lại dựa vào xe hơi; (7) Mạng giao thông gồm các đại lộ và đường nhánh tạo ra tắc nghẽn giao thông [1]. Các đô thị Việt Nam cũng nằm trong xu hướng đó, thậm chí do ảnh hưởng của chế độ kinh tế tập trung bao cấp trước đây, còn được quy hoạch chủ yếu theo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, thiếu vắng các yếu tố xã hội [2]. Hiện nay, những quan điểm đó đã bắt đầu dần thay đổi, thế giới mong muốn đô thị là những nơi chốn tập trung dân cư thể hiện qua những giá trị mang tính cảm xúc và tinh thần của đô thị như bản sắc, lịch sử, đa dạng, thân thiện, sống tốt... Những đô thị, thay vì chỉ đơn thuần là sự kiến tạo vật chất không ngừng, cần trở nên “con người” hơn - của con người, do con người và vì con người - điều tưởng chừng là tất nhiên nhưng lại vô cùng khó thực hiện tại các thành phố vốn đang đề cao sự tăng trưởng đô thị. Thành phố trở thành những “bộ sưu tập” các nơi chốn an cư của mỗi cư dân, mỗi cộng đồng mà vẻ đẹp, tính hấp dẫn đô thị không chỉ đến từ những công trình, những không gian mà còn đến từ tinh thần, cảm giác mà nơi chốn đó mang lại. Nhiều khu dân cư mới ồ ạt được thiết lập dưới hình thức các dự án nhà ở số lượng lớn, hướng đến mục tiêu cung cấp bất động sản cho thị trường thể hiện qua những con số về diện tích, tầng cao, mật độ... nhiều hơn là cung cấp một nơi chốn an cư hấp dẫn và đáng sống cho người dân bởi sự thiếu thốn và không đồng bộ các hạ tầng kỹ thuật lẫn hạ tầng xã hội, bởi những thiết kế không xuất phát từ các yếu tố hay tỷ lệ nhân văn phù hợp với con người, bởi những môi trường cư trú đôi lúc mang lại sự bất an cho những người sống ở đó. Do đó, bài viết này nhằm tổng kết các khái niệm về nơi chốn cũng như các cách thức định lượng, các tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn nơi chốn cư trú, rút ra các vấn đề quan trọng trong việc kiến tạo nơi chốn để từ đó có thể học tập, thích ứng và áp dụng cho việc thiết kế những khu dân cư hấp dẫn và đáng sống tại các thành phố của Việt Nam. KIẾN TẠO NƠI CHỐN AN CƯ HẤP DẪN CHO CÁC KHU DÂN CƯ ĐÔ THỊ & TÁC GIẢ QUY HOẠCH TS.KTS. TrAàN MINH TUøNG, ThS.KTS. NGUYỄN THAøNH HƯNG “... Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn...” (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên) 73SË 94 . 2018 Các khái niệm dẫn nhập Nơi chốn - là “địa điểm đã được gán nghĩa” [3]. Theo Tuan Y-F. (1997) [4], nguyên gốc từ place có hai nghĩa: (1) Vị thế trong xã hội; (2) Vị trí trong không gian. Tuy nhiên, ông thấy rằng nơi chốn vượt lên trên cả hai nghĩa đó, với sự độc đáo riêng và có những quy luật riêng. Nơi chốn cư trú, còn gọi là chốn ở - địa điểm nơi mà con người cư trú. Nơi chốn cư trú thường mang hàm ý xác định một phạm vi không gian nhất định để đảm bảo mối liên hệ mật thiết, hỗ trợ giữa tiểu môi trường bên trong căn nhà (nhà ở) với đại môi trường cư trú bên ngoài (không gian cộng đồng, công cộng...) ở các cấp độ cao hơn đủ để người dân có cảm giác (về) nơi chốn hay ý thức được tinh thần (của) nơi chốn, ví dụ như khu phố, khu đô thị, thành phố... Kiến tạo nơi chốn - tạo ra một nơi nào đó với một bản sắc riêng biệt với các không gian sôi động mang lại hạnh phúc, niềm vui và nguồn cảm hứng. Thành công của việc kiến tạo có thể được đo bằng mức độ cải thiện cuộc sống, cảm giác hạnh phúc hơn và giá trị tài sản nâng cao hơn [5]. Cảm giác (về) nơi chốn - trải nghiệm đặc biệt của một người trong một môi trường đặc biệt [6] hay là mối quan hệ giữa con người và nơi chốn với sự khác nhau về cường độ, sự tinh tế và cách diễn đạt [5], có thể mang tính thẩm mỹ, xúc giác, hoặc tình cảm. Tinh thần (của) nơi chốn - sự kết hợp của các đặc tính mang lại cho một số địa điểm cảm giác hoặc tính cách đặc biệt [5]. Mối quan hệ với nơi chốn - những liên quan vô hình hay hữu hình giữa con người với một nơi chốn, thường xảy ra nhất với nơi chốn cư trú và sẽ là khác nhau với những nơi chốn cư trú khác nhau. Nơi chốn hấp dẫn và hấp dẫn nơi chốn nhìn từ các khu dân cư đô thị Đô thị luôn được xem là nơi quần cư của con người với các hoạt động tam giao - giao tiếp, giao thương và giao thông - diễn ra trong quá trình sinh sống, làm việc, vui chơi, giải trí... Tuy nhiên, với sự xuất hiện của các thiết bị hỗ trợ, các thiết bị giải trí cá nhân, sự trực tiếp trong mối quan hệ tam giao này ngày càng giảm. Internet với các mạng xã hội ảo lại thành một nơi thường xuyên lui tới của người dân đô thị nhiều hơn là các không gian thực tế. Thậm chí, sự phụ thuo ... cầu tiếp xúc, giao lưu, giải trí giữa con người với nhau, là động lực phát triển các không gian đô thị mạnh mẽ. Cách làm đô thị trước đây chủ yếu của Việt Nam là tổ chức phân vùng theo những công năng tách biệt. Tuy nhiên, hiện nay việc tách biệt nơi chốn này ngày càng có tính tương đối. Để tăng cường tính tiện nghi ngày càng cao của cuộc sống, tuy nơi chốn cư trú vẫn là quan trọng nhất, nhưng đã được tích hợp thêm nhiều yếu tố của hai nơi chốn kia thông qua tổ chức cấu trúc không gian thành phần dựa trên việc sử dụng đất đai hỗn hợp, đa năng hóa các không gian, đang trở thành một xu thế trong kiến tạo các khu dân cư đô thị tại Việt Nam, giúp các Quy hoπch & t∏c gi∂ SË 94 . 201874 nơi chốn cư trú hoàn thiện hơn, lôi kéo và “đẩy” con người ra khỏi nhà, ít nhất là có thể cảm nhận được cảm giác của không gian ngay xung quanh, bên ngoài ngôi nhà của mình, thay vì chỉ gia tăng tiện nghi bên trong ngôi nhà càng khiến con người lười ra ngoài và lười xây dựng những mối quan hệ xã hội trực tiếp kiểu tam giao truyền thống. Ngoài ra, một số nơi chốn khác cũng mang ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của người Việt Nam, chẳng hạn như các không gian tâm linh, không gian ký ức hoài niệm, không gian di sản... gắn liền với với quá trình tạo dựng các chốn ở cũng là các yếu tố hiện đang bị mai một qua quá trình phát triển mở rộng đô thị hiện nay. Vậy điều gì làm nên tính hấp dẫn của nơi chốn? Mulliner E., Maliene V. (2011) đã đưa ra một số tổng kết từ những nghiên cứu khác nhau, chẳng hạn như: (1) Sự hấp dẫn của một khu (cư trú) đô thị dường như tập trung vào chất lượng cuộc sống của người sử dụng; (2) Để nâng cao chất lượng cuộc sống, các nguyên tắc thiết kế đô thị, quy hoạch, tái sinh và các cộng đồng bền vững cần được quảng bá rộng rãi; (3) Thiết kế đô thị tốt là trọng tâm để tạo ra những nơi sinh sống và chất lượng cao; (4) Môi trường sống được hoạch định tốt, được thiết kế tốt và được quản lý tốt có thể tạo ra chất lượng cuộc sống vượt trội so với những người sống ở những nơi khác. Từ đó, các tác giả cũng hệ thống hóa chín yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến tính hấp dẫn của nơi chốn cư trú đô thị [10]: (1) Thiên nhiên và cảnh quan - Cảnh quan được coi là một phần trung tâm của bất kỳ hoạt động phát triển nào vì đó là điều cần thiết cho cuộc sống đô thị, làm cho các khu dân cư trở nên duyên dáng, mềm mại hơn để sinh sống. (2) Đa dạng hóa kiểu loại kiến trúc - Các khu đô thị hấp dẫn cung cấp nhiều loại tòa nhà, phong cách và kiểu dáng, thậm chí các tòa nhà bất thường cũng có thể xem như các điểm mốc kiến trúc. (3) Khả năng tiếp cận nội khu - Một hệ thống giao thông công cộng, mạng lưới đường bộ tăng cường khả năng đi bộ, đi xe đạp là những yếu tố quan trọng để tạo ra một nơi chốn hấp dẫn, đảm bảo an toàn cho người dân. (4) Phát triển chức năng hỗn hợp - Các khu vực nhà ở, làm việc, công trình công cộng, vui chơi giải trí... của khu dân cư nếu ở gần nhau, giảm thiểu việc di chuyển trên nguyên tắc khả năng đi bộ sẽ là nền tảng cho thành phố bền vững với ba cấp độ bán kính phục vụ cơ bản (200m, 400m và 800m). (5) Khu phố văn hoá và quảng trường công cộng - Những nơi này thành những không gian kết hợp các hoạt động, xây dựng hình thái đặc trưng và ý nghĩa, một điểm gặp gỡ, một nơi giao lưu hay phục vụ cho các sự kiện cộng đồng, sự kiện xã hội. (6) An toàn - Tội phạm và sự sợ hãi tội phạm có thể làm nản lòng người dân. Các biện pháp kiểm soát cưỡng bức (cổng, tường rào, nhân viên canh gác hay camera an ninh...) tuy cần thiết nhưng về lâu dài, cần có những biện pháp giám sát tự nhiên và bền vững. (7) Ánh sáng - Ánh sáng chất lượng, tự nhiên hay nhân tạo, cả ngày lẫn đêm có thể đóng góp đáng kể cho sự hấp dẫn của một khu vực, mang lại những lợi ích về sức khỏe cũng như cảm giác hạnh phúc. (8) Nhà ở - Các khu dân cư cần tạo ra nhiều lựa chọn nhà ở để đáp ứng nhu cầu đa dạng và thay đổi theo vòng đời của các gia đình, thúc đẩy sự đa dạng xã hội, tránh những khu nhà ở biệt cư. (9) Khả năng sinh kế - Việc tạo ra các khu vực cư trú hấp dẫn sẽ lôi kéo dân cư, làm gia tăng mật độ đô thị, tăng thêm cơ hội sinh kế cho cư dân thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề, đa dạng hóa nguồn thu nhập của người dân. Định lượng tính hấp dẫn của nơi chốn cư trú và chuyển hóa vào (tái) thiết kế khu dân cư tại các thành phố Việt Nam Sự hấp dẫn nơi chốn là một yếu tố vô hình và phụ thuộc nhiều vào cảm giác hay cảm nhận chủ quan của mỗi người. Lượng hóa được tính hấp dẫn của nơi chốn sẽ rất cần thiết để đoán định được cảm giác con người trong việc (tái) kiến tạo nơi chốn, thiết kế các khu dân cư và đô thị. Một trong những cách định lượng tính hấp dẫn chính dựa trên cảm giác trải nghiệm của con người tại nơi chốn đó. Người đại diện điển hình hiện nay cho việc theo đuổi cách thức định lượng này là Jan Gehl với “Thành phố dành cho con người” (Cities for People) để (tái) 75SË 94 . 2018 kiến tạo cảnh quan thành phố theo tỉ lệ con người (human scale) [11]. CBRE (2017) [5] đã sử dụng cách định lượng này (bảng 2). Berkeley Group - một tập đoàn chuyên xây dựng bất động sản của Anh, dưới góc độ là một chủ thể xây dựng trực tiếp các nơi chốn cư trú mới, năm 2014, đã đề xuất một bộ công cụ phục vụ cho việc kiến tạo thành công các nơi chốn cư trú trở thành các chuẩn mực cho những dự án dân cư của họ [12] (bảng 3). Trong tương lai, Việt Nam cần có hệ thống tiêu chí riêng của mình nhằm giúp các nhà thiết kế kiến trúc đô thị chuyển hóa vào thiết kế các dự án xây dựng mới hoặc tái cấu trúc các khu dân cư hiện hữu nhằm điều chỉnh các không gian chức năng thành phần, gia tăng tính hấp dẫn và đáng sống của nơi chốn cư trú. Việc xây dựng hệ thống tiêu chí định lượng này cần phải đảm bảo hướng đến những yếu tố quan trọng nhất sau đây: (1) Thiết kế cảnh quan - Nâng cao hình ảnh của khu vực cư trú và khuyến khích tạo ra một cảm giác đặc biệt của nơi chốn thay vì chỉ cung cấp bất động sản đơn thuần như một số dự án nhà ở hiện nay ở Việt Nam. Một thiết kế cảnh quan tốt sẽ phải dựa trên: (1) Những nguyên tắc và mục tiêu đề xuất; (2) Các cuộc khảo sát cùng những phân tích cảnh quan của địa điểm; (3) Đề xuất thiết kế cảnh quan hợp lý; (4) Các cách thức quản lý và bảo trì trong tương lai. (2) Các không gian mở - Các khu dân cư hiện tại của Việt Nam cũng đã chú ý đến các không gian mở này, tuy nhiên mới chỉ trên phương diện số lượng, còn chất lượng vẫn là một vấn đề. Do đó, việc thiết kế các không gian mở phải đảm bảo: (1) Cung cấp tiện nghi cho người Bảng 3. Bộ công cụ phục vụ kiến tạo nơi chốn thành công Nguồn: [12] Bảng 2. Các yếu tố định lượng cảm giác nơi chốn của một không gian (công cộng) theo trải nghiệm của con người Nguồn: [5] Quy hoπch & t∏c gi∂ SË 94 . 201876 dân; (2) Tăng cường sức hấp dẫn thị giác cho chính không gian lẫn khu vực; (3) Tăng cường các biện pháp, giải pháp an toàn, đặc biệt đối với trẻ nhỏ. (3) Các không gian dịch vụ, tiện ích công cộng cơ sở - Việt Nam cũng đã đưa ra các quy định về các không gian dịch vụ, tiện ích công cộng cơ sở cho các khu dân cư mới dưới hình thức “đơn vị ở”. Các không gian dịch vụ, tiện ích công cộng cơ sở này cần được đề xuất ngay ở giai đoạn đầu trong quá trình lập kế hoạch, lập dự án - với sự tham vấn của các nhà cung cấp dịch vụ và cộng đồng địa phương. (4) Nhà ở - Là mối quan tâm lớn nhất của người Việt Nam, nhà ở không chỉ là một không gian vật chất đơn thuần, mà còn được xem như một biểu tượng thể hiện vị thế, đẳng cấp, thẩm mỹ của chủ nhà. Mạng lưới nhà ở được thiết kế đa dạng tạo ra một cộng đồng cân bằng, cung cấp nhiều sự lựa chọn nhất, với nhiều hình ảnh và sự quan tâm của cư dân (5) Các không gian giao thông công cộng và giao thông nhẹ - Giao thông nội khu dân cư Việt Nam hiện vẫn dựa trên các phương tiện cá nhân có động cơ dùng xăng dầu. Các khu dân cư hoặc liên khu dân cư cần thiết lập các không gian giao thông công cộng và giao thông nhẹ hợp lý, thuận tiện để giúp giảm bớt việc sử dụng xe ô tô, khuyến khích đi bộ và đi xe đạp. (6) Mạng lướng đường giao thông - Các khu dân cư Việt Nam cần hạn chế tối đa số lượng và tốc độ các phương tiện giao thông cơ giới không mong muốn chạy xuyên qua, nhưng vẫn đảm bảo sự tiếp cận của các phương tiện này khi sự cố, hỏa hoạn, kết hợp với việc bố trí các bãi đỗ xe ngoại biên hợp lý. (7) Các trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật khu dân cư và đô thị - Gia tăng tiện nghi cho môi trường cư trú thông qua các hạ tầng kỹ thuật thiết yếu của khu dân cư và đô thị cũng như các trang thiết bị đường phố, đồng thời đề xuất các biện pháp lẫn tài chính cho việc vận hành và bảo trì đi cùng. Thay lời kết Thông qua những cách thức định lượng tính hấp dẫn của một nơi chốn cư trú, người thiết kế sẽ chuyển hóa vào trong cách thức kiến tạo, tổ chức không gian hướng đến những môi trường cư trú hấp dẫn: ■ Đối với các khu phố, khu dân cư cũ hiện hữu - Phát hiện các “chìa khóa” tạo nên sự hấp dẫn đang có, đồng thời là những nguy cơ gây tổn tại đến tính hấp dẫn nhằm có những điều chỉnh, những cải thiện khôi phục lại. ■ Đối với các khu phố, khu dân cư đang định hình - Giúp điều chỉnh cách thức kiến tạo các không gian hay tổ chức các hoạt động cho người dân, giúp chủ dự án hay chính quyền có thêm những cơ sở để chuyển đổi hay tăng cường tính thân thiện cho những không gian thường mang tính “hấp dẫn chủ quan” bởi quá trình thiết kế và người thiết kế. ■ Đối với các khu phố, khu dân cư sẽ phát triển trong tương lai - Tạo ra các định hướng, chiến lược phát triển các dự án thu hút dân cư nhanh 77SË 94 . 2018 hơn nhằm rút ngắn thời gian đầu tư xây dựng và thu hồi vốn, giúp thành phố có thêm nhiều dự án hấp dẫn, tạo dựng hình ảnh mới cho thành phố. Tiếp cận xã hội từ kiến tạo nơi chốn cư trú là một cách làm đang được xem là phù hợp cho sự phát triển nhân loại hiện nay, đặc biệt là tại các không gian đô thị, ngày càng trở nên to lớn, vượt quá tỉ lệ con người cả trên quy mô diện tích lẫn quy mô dân cư. Mỗi nơi chốn an cư hấp dẫn sẽ là một trải nghiệm tốt và trở thành những mẫu hình cho những phát triển tiếp theo, giúp thành phố trở thành một nơi chốn đáng sống hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO: [1] Jacobs, J. (1961), The Death and Life of Great American Cities, New York: Vintage Books, 480p. [2] PADDI (Trung tâm dự báo và nghiên cứu đô thị), Cơ quan Quy hoạch đô thị Lyon (2012), Làm thế nào để quy hoạch đô thị ở Việt Nam hiệu quả hơn? Trường hợp TP. Hồ Chí Minh, Tài liệu trình bày và thảo luận trong diễn đàn “Đô thị hóa bền vững vùng ven ở các thành phố của Việt Nam” do ADETEF và AFD tổ chức 03/2012 tại Hà Nội, truy cập ngày 30/04/2018 từ de_quy_hoach_do_thi_o_Viet_Nam_hieu_qua_hon.pdf. [3] Relph, E. (1976), Place and Placelessness, London: Pion, 174p. [4] Tuan, Y-F. (1979). Space and place: Humanistic pespective. p.387-427 in Gale, S., Olsson, Gunnar (Eds.) (1979). Philosophy in Geography. Michigan: D. Reidel Publishing Company, 469p. [5] CBRE (2017). Placemaking: Value and the public realm. CBRE Research, Retrieved April 30, 2018 from https://edco. on.ca/resources/Documents/Global%20Placemaking.pdf. [6] Fritz, S. (1981). The Sense of Place. Boston: CBI Publishing Company Inc. [7] Cross, J.E. (2001). What is sense of place?. Prepared for the 12th Headwaters Conference, Western State College, November 2-4, 2001, Retrieved April 30, 2018 from cross_ headwatersXII.pdf. [8] Jordan, T. (2014). Internet, Society and Culture: Communicative Practices Before and After the Internet. New York: Bloomsbury Academic, 176p. [9] Vũ Việt Anh (2016). Sự kết hợp giữa Kiến tạo nơi chốn và TOD - Mô hình phát triển không gian đô thị gắn với đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Kiến trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam), 257:09/2016, trang 22-26. [10] Mulliner, E., Maliene, V. (2011). An introductory review to the special issue: Attractive places to live. Urban Design International, (2011) 16, p.147-152. [11] Gehl, J. (2010). City for people. Washington, D.C.: Island Press, 288p. [12] Berkeley Group (2014). Creating successful places: A toolkit. 24p. Retrieved April 30, 2018 from https://www. berkeleygroup.co.uk/media/pdf/l/h/berkeley-social-sustainability-toolkit.pdf. Quy hoπch & t∏c gi∂
File đính kèm:
- kien_tao_noi_chon_an_cu_hap_dan_cho_cac_khu_dan_cu_do_thi.pdf