Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ nhũ tương sữa dừa đóng lon
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định chế độ đồng hóa, nồng độ hỗn hợp chất nhũ
hóa sucrose ester và chất ổn định CMC và chế độ tiệt trùng đến tính ổn định của hệ nhũ
tương sữa dừa. Sữa dừa được đồng hóa ở các tốc độ (0, 8000, 9000, 10000, 11000, 12000
vòng/phút) và thời gian (1, 3, 5, 7 phút) khác nhau. Hệ nhũ tương sữa dừa được ổn định
bằng sucrose ester (0; 0,05; 0,1; 0,15 và 0,2%) và CMC (0; 0,4; 0,6; 0,8 và 1%). Sữa dừa
đóng lon được tính toán chế độ tiệt trùng và thẩm tra sao cho đạt được giá trị tiệt trùng
thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ nhũ tương sữa dừa ổn định (độ tách pha,
kích thước và phân bố hạt) khi đồng hóa ở tốc độ 10.000 vòng/phút trong thời gian 3 phút.
Sử dụng chất ổn định CMC 1% kết hợp với chất nhũ hóa sucrose ester 0,15% giúp cải
thiện đáng kể tính ổn định của hệ nhũ tương. Chế độ tiệt trùng 121oC trong 31 phút đã
được tính toán và thẩm tra đảm bảo an toàn về mặt vi sinh và peroxít, sản phẩm sữa dừa
đóng lon có độ trắng và giá trị cảm quan cao.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ nhũ tương sữa dừa đóng lon
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 146 KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA HỆ NHŨ TƯƠNG SỮA DỪA ĐÓNG LON Phạm Thị Hồng Thư1, Nguyễn Trường Giang2, Kha Chấn Tuyền3 1 2 3Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh 3khachantuyen@hcmuaf.edu.vn Ngày nhận bài: 02/05/2019, Ngày duyệt đăng: 07/09/2019 Tóm tắt Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định chế độ đồng hóa, nồng độ hỗn hợp chất nhũ hóa sucrose ester và chất ổn định CMC và chế độ tiệt trùng đến tính ổn định của hệ nhũ tương sữa dừa. Sữa dừa được đồng hóa ở các tốc độ (0, 8000, 9000, 10000, 11000, 12000 vòng/phút) và thời gian (1, 3, 5, 7 phút) khác nhau. Hệ nhũ tương sữa dừa được ổn định bằng sucrose ester (0; 0,05; 0,1; 0,15 và 0,2%) và CMC (0; 0,4; 0,6; 0,8 và 1%). Sữa dừa đóng lon được tính toán chế độ tiệt trùng và thẩm tra sao cho đạt được giá trị tiệt trùng thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ nhũ tương sữa dừa ổn định (độ tách pha, kích thước và phân bố hạt) khi đồng hóa ở tốc độ 10.000 vòng/phút trong thời gian 3 phút. Sử dụng chất ổn định CMC 1% kết hợp với chất nhũ hóa sucrose ester 0,15% giúp cải thiện đáng kể tính ổn định của hệ nhũ tương. Chế độ tiệt trùng 121oC trong 31 phút đã được tính toán và thẩm tra đảm bảo an toàn về mặt vi sinh và peroxít, sản phẩm sữa dừa đóng lon có độ trắng và giá trị cảm quan cao. Từ khóa: sucrose ester, CMC, tiệt trùng, hệ nhũ tương sữa dừa Effects of several factors on stability of canned coconut milk emulsion Abstract The research aimed to determine the most suitable conditions of homogenization, the concentration of emulsifier sucrose ester and stabilizer CMC, and sterilization conditions for high stability of coconut milk emulsion. The emulsion was homogenized at different high speeds (0, 8000, 9000, 10000, 11000 and 12000 rpm) and times (1, 3, 5 and 7 minutes). Different concentrations of sucrose ester (0, 0.05, 0.1, 0.15 and 0.2%) and CMC (0, 0.4, 0.6, 0.8 and 1%) were studied to stabilize the emulsion. The sterilization conditions for canned coconut milk were also calculated in order to achieve the commercial sterility. The results indicated that the high stability of coconut milk in terms of separation index, particle size mean and particle distribution was obtained as homogenized at the speed of 10000 rpm for 3 minutes. The concentration of sucrose ester (0.15%) and CMC (1%) was found to be the most suitable for the emulsion stabilization. Sterilization at 121oC for 31 minutes was validated and confirmed for the high stability of canned coconut milk in terms of micro-organism and peroxide value. The resultant product had high whiteness index and sensorial characteristics. Keywords: sucrose ester, CMC, sterilization, coconut milk emulsion VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 147 1. Đặt vấn đề Sữa dừa hay nước cốt dừa là hệ nhũ tương (dầu trong nước) tự nhiên được trích ly (bằng phương pháp ép) từ phần cơm dừa có hoặc không có thêm nước. Theo CODEX STAN 240 (2003), các sản phẩm dừa (ở dạng lỏng) được chia thành 4 loại: sữa dừa uống (hàm lượng béo 5%), sữa dừa (hàm lượng béo 10%), cốt dừa (hàm lượng béo 20%) và cốt dừa cô đặc (hàm lượng béo 30. Sữa dừa là thành phần nguyên liệu quan trọng trong các bữa ăn của người dân châu Á cũng như trên thế giới, bởi vì sữa dừa có hương vị đặc trưng, trong đó Trung Quốc là một thị trường lớn và tiềm năng, theo ước tính khoảng 25% sữa dừa được trên thế giới được tiêu thụ ở Trung Quốc (Tipvarakarnkoon và cộng sự, 2010). Hệ nhũ tương sữa dừa thường không ổn định, bị tách lớpsau 5 đến 10 giờ ở điều kiện môi trường, làm giảm đáng kể giá trị cảm quan nói riêng và chất lượng của sản phẩm nói chung. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ nhũ được nghiên cứu như hàm lượng chất béo, loại và lượng chất nhũ hoá, chất ổn định, áp suất và thời gian đồng nhất (Phungamngoen và cộng sự, 2004). Khi những hạt béo chuyển động va chạm và kết hợp lại với nhau thành những mảng có kích thước lớn, hoặc do sự mất ổn định về hàm lượng và chất lượng protein trong sữa dừa nên không đủ để ổn định các hạt chất béo (Tansakul và cộng sự, 2006). Theo Lê Văn Việt Mẫn (2011), đồng hóa là một phương pháp tối ưu để giải quyết ổn định các hạt chất béo, trong đó phương pháp đồng hóa tốc độ cao là đơn giản nhất và chi phí đầu tư thấp. Một số nghiên cứu gần đây về hệ nhũ tương dầu trong nước cho thấy đồng hóa kết hợp sử dụng chất ổn định và chất nhũ hóa giúp tăng tính ổn định của hệ nhũ tương do làm giảm sức căng bề mặt và hạn chế sự kết hợp của các hạt béo do chuyển động va chạm. Ariyaprakai và cộng sự (2013), đã nghiên cứu so sánh hiệu quả ổn định hệ nhũ tương của sữa dừa bổ sung chất nhũ hóa Tween 60 và sucrose ester cho thấy sucrose ester có khả năng ổn định hệ nhũ tương sữa dừa tốt hơn so với Tween 60 ở các nhiệt độ khác nhau. Sữa dừa có pH là 6,1 thuộc nhóm sản phẩm có độ axít thấp, theo quy định của FDA (Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Mỹ) nhóm sản phẩm này cần được xử lý ở nhiệt độ lớn hơn 100oC (tiệt trùng), nhằm tiêu diệt cả bào tử của vi sinh vật, góp phần bảo quản sữa dừa trong thời gian dài. Phương pháp Ball là một trong những phương pháp tính toán chế độ tiệt trùng thực tế được sử dụng phổ biến, thông qua việc sử dụng các thông số của quá trình thâm nhập nhiệt nhằm xác định thời gian cần thiết để đạt được giá trị tiệt trùng F. Vì thế, mục tiêu của nghiên cứu là xác định nồng độ hỗn hợp chất nhũ hoá sucrose ester và chất ổn định CMC (Carboxy Methyl Cellulose), chế độ đồng hoá tốc độ cao và chế độ tiệt trùng đến tính ổn định của hệ nhũ tương sữa dừa đóng lon. Nhằm đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và đặc biệt là xuất khẩu, quy trình công nghệ chế biến sản phẩm sữa dừa cần phải hoàn thiện, cụ thể là các thông số quan trọng trong quy trình sản xuất cần được nghiên cứu. 2. Vật liệu và phương pháp ... ) cũng đã báo cáo kết quả tương tự, ông cho rằng độ tách phacủa hệ nhũ tương giảm dần khi tăng nồng độ CMC bổ sung. Về chỉ tiêu kích thước hạt, kết quả phân bố kích thước hạt thể hiện ở Hình 8 và kết quả phân tích thống kê cho thấy, nồng độ CMC bổ sung có ảnh hưởng đến kích thước hạt béo (p < 0,05). Kích thước hạt béo trung bình dao động trong khoảng TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 156 13,12- 27,67 µm. Nồng độ CMC tăng (0; 0,4; 0,6; 0,8 và 1%), kích thước hạt béo có xu hướng giảm với các giá trị lần lượt được ghi nhận là 27,67; 23,79; 14,91; 13,62; 13,12µm. Khi quan sát dưới kính hiển vi cũng thu kết quả tương tự được thể hiện ở Hình 9, kết quả cho thấy khi bổ sung 0% CMC hạt có kích thước tương đối lớn và không đồng đều. Nhưng bắt đầu tăng dần nồng độ CMC lên 0,4% 0,6%; 0,8% và 1% thì kích thước hạt béo giảm xuống rõ rệt. Kết quả thí nghiệm này tương tự nghiên cứu của Jirapeangtong và cộngsự (2008), nghiên cứu này đã cho rằng khi sử dụng hàm lượng CMC 0,8 - 1% giúp ổn định hệ nhũ tương sữa dừa được tốt hơn. Như vậy, dựa vào những phân tích nêu trên cho thấy, nồng độ CMC 1% đạt giá trị kích thước hạt nhỏ nhất và độ tách pha đạt giá trị tối ưu nhất sau 7 ngày theo dõi. Hình 8. Ảnh hưởng của nồng độ CMC đến phân bố kích thước hạt béo sau một ngày Hình 9. Ảnh hưởng của nồng độ CMC đến kích thước hạt béo quan sát dưới kính hiển vi sau một ngày (x 400) VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 157 3.4. Ảnh hưởng của nồng độ sucrose ester đến tính ổn định nhũ tương Để phát huy tác dụng của chất nhũ hóa sucrose ester, cần tiến hành hoạt hóa chất này trước khi cho vào hệ nhũ tương sữa dừa, chất hoạt động bề mặt này có thể bảo vệ các giọt dầu. Chất nhũ hóa tạo sự phân tán đồng nhất cho sản phẩm, khi thêm chất nhũ hóa giúp các hạt béocó kích thước nhỏ sau đồng hoá được phân tán đồng đều hơn, giảm sức căng bề mặt. Trong sucrose ester có chứa nhóm sucrose monolaurate ưa nước liên kết với axít lauric có trong sữa dừa, tạo hệ nhũ càng ổn định hơn. Sau 7 ngày theo dõi về độ tách pha, kết quả quan sát ghi nhận được cho thấy đối với các mẫu sữa dừa bổ sung sucrose ester với gia tăng nồng độ đã cải thiện đáng kể hiện tượng tách pha. Kết quả về phân bố kích thước hạt béo cho thấy nồng độ chất nhũ hóa sucrose ester có ảnh hưởng đến kích thước hạt béo ở độ tin cậy 95%. Kích thước hạt béo trung bình dao động trong khoảng 11,29 – 23,99 µm. Cụ thể, theo chiều tăng dần các nồng độ 0%; 0,05%; 0,1%; 0,15%; 0,2% của Dk ester F160 thì kích thước hạt béo có xu hướng giảm với các giá trị ghi nhận lần lượt là 23,99 µm; 19,44µm; 13,49µm; 11,29 µm; 11,52 µm. Theo đó mẫu không bổ sung sucrose ester cho kích thước hạt béo trung bình lớn nhấtvà nhỏ nhất khibổ sung nồng độ Dk ester F160 0,15% với các giá trị ghi nhận lần lượt là 23,99 µm và 11,29 µm, có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (p < 0,05). Hình 10. Ảnh hưởng của nồng độ sucrose ester đến phân bố kích thước hạt sau thời gian một ngày Kết quả quan sát dưới kính hiển vi được thể hiện ở Hình 11 cho kết quả tương tự, khi không được bổ sung sucrose ester, hệ nhũ tương có xuất hiện các hạt béo có kích thước lớn. Kích thước hạt béo được giảm đáng kể khi nồng độ sucrose ester tăng lên. Việc tăng nồng độ chất nhũ hóa và chất ổn định làm giảm đáng kể độ phân tách của hệ nhũ tương. Các hạt béo nhỏ hơn sẽ được hình thành sau quá trình đồng hóa, khi bổ sung sucrose ester với vai trò là một chất nhũ hóa khi hòa tan vào dung dịch, chúng sẽ hấp phụ trên bề mặt các hạt béo, hướng các đầu kỵ nước vào các hạt chất béo và hướng các đầu ưa nước vào nước hình thành nên các hạt micelle, sự tích tụ phân tử như thế ở bề mặt các hạt béo sẽ làm giảm đáng kể sức căng bề mặt TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 158 của hạt béo nhỏ mới được hình thành. Đồng thời, kết hợp với chất ổn định làm tăng độ nhớt của pha liên tục làm chậm lại quá trình các hạt nhỏ đến gần và kết hợp lại với nhau (Tipvarakarnkoon và cộng sự, 2010; Israelachvili, 2011; Zhao và cộng sự, 2014; Lê Ngọc Tú, 2015). Ngoài ra, McClements (2015) đã giải thích sucrose ester có tính chất là một chất nhũ hóa không ion giúp ổn định nhũ tương bằng cách tạo ra các lực đẩy ngăn các hạt béo đến quá gần nhau, từ đó ngăn cản các hạt sát nhập vào nhau. Chính vì thế, khi tăng nồng độ sucrose ester thì kích thước hạt béo giảm. Hình 11. Ảnh hưởng của nồng độ sucrose ester đến kích thước hạt béo quan sát dưới kính hiển vi sau một ngày (x 400) 3.5. Ảnh hưởng của chế độ tiệt trùng đến chất lượng sữa dừa đóng lon 3.5.1. Tính toán chế độ tiệt trùng Kết quả tính toán và kiểm tra chế độ tiệt trùng sản phẩm sữa dừa được trình bày qua Bảng 1. Thời gian giữ nhiệt của nồi ở nhiệt độ 121 và 116oC để đạt được giá trị tiệt trùng Fo = 5 phút lần lượt là 31 và 61 phút. Tiến hành kiểm tra hai chế chế độ tiệt trùng bằng cách tính F thực tế và so sánh với Fo sao cho Fthực tế ≥ Fo. Kết quả kiểm tra chế độ tiệt trùng ở 1210C và 116oC cho thấy, Fthực tếở 2 chế độ lớn hơn Fo. Điều này cho thấy chế độ tiệt trùng tại 121oC trong 31 phút và 116oC trong 61 phút đã đạt giá trị tiệt trùng Fo (an toàn về mặt vi sinh).Kết quả kiểm tra vi sinh (Bảng 2) cho thấy sau quá trình tiệt trùng ở 2 chế độ 116oC trong 61 phút và 121oC trong 31 phút không phát hiện vi khuẩn hiếu khí, vi khuẩn kỵ khí khử sulfite và vi sinh vật kỵ khí. Vậy nên có thể kết luận cả 2 chế độ 116oC trong 61 phút và 121oC trong 31 phút đã an toàn về vi sinh vật. VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 159 Bảng 1. Kết quả tính toán thời gian tiệt trùng cho giá trị tiệt trùng Fo khi nhiệt độ nồi tiệt trùng 121oC và 116oC và kết quả kiểm tra Tính toán Kiểm tra Tham số 121oC 116oC Tham số 121oC 116oC Khối lượng mẫu (g) 165 165 tB (phút) 52 80 Fo (phút) 5 5 fh (phút) 76,8 115,2 fh (phút) 62,2 76,8 jh 0,96 0,67 jh 1,11 1,10 To ( oC) 66 65 To ( oC) 65 68 TR ( oC) 121 116 TR ( oC) 121 116 L 0,98 0,31 L 0,98 0,31 TR-To 55 51 TR - To ( oC) 56 48 jh*(TR-To) 52,8 34,2 jh*(TR-To) 61,6 52,8 log[jh*(TR-To)] 1,72 1,53 log[jh*(TR-To)] 1,79 1,72 tB/fh 0,68 0,69 R = (fh*L)/Fo 12,16 4,74 log(g) 1,04 0,84 log(g) 0,99 0,73 R 14,64 6,69 log[jh*(TR-To)]-log(g) 0,79 0,99 Fthực tế (phút) 5,12 5,32 Thời gian xử lý nhiệt Ball (phút) 52 80 Fo (phút) 5 5 Thời gian giữ nhiệt của nồi (phút) 31 61 To: nhiệt độ ban đầu của sản phẩm; TR: nhiệt độ nồi tiệt trùng; L: tỉ lệ tử vong; tB: thời gian xử lý nhiệt Ball Bảng 2. Kết quả kiểm tra vi sinh tại 2 chế độ tiệt trùng khác nhau Chế độ tiệt trùng Chỉ tiêu Đơn vị Kết quả 116oC trong 61 phút Tổng số vi sinh vật hiếu khí CFU/g < 10 Tổng số vi sinh vật khử sulfite CFU/g < 10 Tổng số vi sinh vật kị khí CFU/g < 10 121oC trong 31 phút Tổng số vi sinh vật hiếu khí CFU/g < 10 Tổng số vi sinh vật khử sulfite CFU/g < 10 Tổng số vi sinh vật kị khí CFU/g < 10 <10: nghĩa là không phát hiện TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 160 3.5.2. Ảnh hưởng của chế độ tiệt trùng đến độ trắng, cảm quan, peroxít Độ trắng Hình 12 thể hiện giá trị màu sắc đo được ở 2 chế độ tiệt trùng 116oC trong 61 phút và 121oC trong 31 phút. Kết quả cho thấy, độ trắng ở 2 chế độ tiệt trùng có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở độ tin cậy 95%. Thực phẩm có hàm lượng axít thấp như sữa dừa (pH khoảng 6,1) khi xử lý ở nhiệt độ cao (> 100oC) là điều kiện thích hợp cho các phản ứng sậm màu không enzyme xảy ra như phản ứng Maillard (Ames và cộng sự, 2001). Theo tính toán đã trình bày ở trên, với nhiệt độ tiệt trùng 116oC và 121oC để đạt được giá trị tiệt trùng Fo = 5 phút thì phải cần thời gian giữ nhiệt khác nhau lần lượt là 61 phút và 31 phút. Lý do là nhiệt độ xử lý thấp cần nhiều thời gian hơn để đạt giá trị Fo. Do đó, chế độ tiệt trùng 116oC trong 61 phút có khoảng thời gian xử lý nhiệt dài hơn để phản ứng sậm màu xảy ra. Điều này dẫn đến làm giảm giá trị độ trắng cho sản phẩm. Hình 12. Giá trị độ trắng ở hai chế độ tiệt trùng khác nhau Trong cùng một biểu đồ các số liệu có kí tự khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p <0,05) Cảm quan Kết quả (Bảng 3) cho thấy có sự khác biệt về chỉ tiêu mùi vị và điểm tổng khi sản phẩm được tiệt trùng ở 2 chế độ khác nhau (p < 0,05). Tuy nhiên, màu sắc không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 161 Bảng 3. Ảnh hưởng của chế độ tiệt trùng đến điểm cảm quan Chế độ tiệt trùng (nhiệt độ, oC - thời gian, phút) Cảm quan Peroxít Màu sắc Mùi vị Điểm tổng 116 - 61 5,62a ± 0,52 4,50b ± 0,75 4,75b ± 0,46 KPH 121 - 31 5,62a ± 0,52 5,75a ± 0,46 5,75a ± 0,46 KPH Các ký tự khác nhau trên cùng một cột thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở độ tin cậy 95%. Điểm trung bình càng lớn thì mức độ yêu thích càng cao Kết quả Bảng 3 cũng cho thấy điểm tổng giữa 2 chế độ tiệt trùng 116oC trong 61 phút và 121oC trong 31 phút có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (p < 0,05). Trong đó, chỉ tiêu mùi vị có ảnh hưởng đáng kể đến điểm cảm quan điểm tổng của sản phẩm. Mẫu tiệt trùng ở 116oC trong 61 phút có điểm mùi vị thấp hơn mẫu tiệt trùng ở 121oC trong 31 phút, dẫn đến điểm tổng của sản phẩm thấp hơn. Cũng theo nhận xét của các cảm quan viên, chế độ 116oC trong 61 phút có mùi nấu nhiều hơn khiến họ không ưa thích. Chỉ số peroxít Kết quả phân tích (Bảng 3) cho thấy không phát hiện chỉ số peroxít của mẫu sữa dừa đóng lon khi tiệt trùng ở chế độ 121oC và 116oC. Điều này cho thấy quá trình oxy hóa không xảy ra khi xử lý ở 2 chế độ tiệt trùng. 4. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ nhũ tương sữa dừa ổn định (độ tách pha, kích thước và phân bố hạt) khi đồng hóa ở tốc độ 10.000 vòng/phút trong thời gian 3 phút. Sử dụng chất ổn định CMC 1% kết hợp với chất nhũ hóa sucrose ester 0,15% giúp cải thiện đáng kể tính ổn định của hệ nhũ tương. Nghiên cứu đã tính toán và kiểm tra chế độ tiệt trùng sao cho đạt được giá trị tiệt trùng thương mại. Chế độ tiệt trùng 121oC trong 31 phút đã được kiểm tra đảm bảo an toàn về mặt vi sinh và peroxít, sản phẩm sữa dừa đóng lon có độ trắng và giá trị cảm quan cao. Tài liệu tham khảo Ames, J. M., and Hofmann, T. F. (2001). Chemistry and physiology of selected food colorants. Washington, DC: ACS, p. 227. Ariyaprakai, S., Limpachoti, T. and Pradipasena, P. (2013). Interfacial and emulsifying properties of sucrose ester in coconut milk emulsions in comparison with Tween. Food Hydrocolloids, 30 (1), pp. 358-367. CODEX STAN 240 (2003). Codex Standard for Aqueous Coconut Products Coconut Milk and Coconut Cream. FAO/ WHO Food Standards Programme. Israelachvili, J. (2011). Intermolecular and Surface Forces. 3rd. London, UK, Academic Press. Caivano, J. L. and Buera, M. D. P. (2012). Color in Food: Technological and Psychophysical aspects. Boca Raton, Florida: CRC Press. Jafari, S. M., Assadpoor, E., He. Y. and Bhandari, B. (2008). Re-coalescence of emulsion droplets during high-energy emulsification. Food Hydrocolloids, 22 (7), pp. 1191-1202. Jirapeangtong, K., Siriwatanayothin, S. and Chiewchan, N. (2008). Effects of coconut sugar and stabilizing agents on stability TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 162 and apparent viscosity of high fat coconut milk. Journal of Food Engineering, 87, pp. 422-427. Lakhotia, S. and Papoutsakis, E. T. (1992). Agitation induced cell injury in microcarrier cultures.Protective effect of viscosity is agitation intensity dependent: Experiments and modeling. Biotechnology and Bioengineering, 39, pp. 95-107. Lê Văn Việt Mẫn (2011). Công nghệ chế biến thực phẩm. Nhà Xuất bản Đại học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 291. McClements, D. J. (2015). Food emulsions: principles, practices, and techniques. 3rd, CRC Press, Boca Raton, p. 714. McKenna, B. M. (2003). Texture in food, Vol 1: Semi - Solid Foods. 3rd, Woodhead Publishing, p. 448. Phungamngoen, C., Chiewchan, N., Siriwatanayothin S. (2004). Effect of some stabilizers on the quality of canned high fat coconut milk. Journal of KMUTT’s Research and Development, 27, pp. 376-390. Stoforos, N. G. (2010). Thermal Process Calculations Through Ball’s Original Formula Method: A Critical Presentation of the Method and Simplification of its Use Through Regression Equations. Food Engineering Reviews, 2 (1), pp. 1-16. Tangsuphoom N. and Coupland N. J., 2008. Effect of surface active stabilizers on the microstructure and stability of coconut milk emulsions. Food Hydrocolloids, 22, pp. 1233–1242. Tansakul, A. and Chaisawang, P. (2006). Thermophysical properties of coconut milk. Journal of Food Engineering, 73, pp. 276–280. Tipvarakarnkoon, T., Einhorn-Stoll, U. and Senge, B. (2010). Effect of modified Acacia gum (SUPER GUMTM) on the stabilization of coconut o/w emulsions. Food Hydrocolloids, 24, pp. 595-601. TCVN 6121:2010 (ISO 3960:2007). Dầu mỡ động vật và thực vật - xác định trị số peroxít - phương pháp xác định điểm kết thúc chuẩn độ iốt (quan sát bằng mắt thường). TCVN 6688-3:2007 (ISO 8262-3:2005). Xác định hàm lượng chất béo bằng phương pháp khối lượng Weibull-Berntrop (Phương pháp chuẩn) - Phần 3: Các trường hợp đặc biệt. Hà Duyên Tư (2000). Kỹ thuật phân tích cảm quan thực phẩm. Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, tr. 90-93. Zhao, Q., Liu, D., Long, Z., Yang, B., Fang M., Kuang, W and Zhao, M. (2014). Effect of sucrose ester concentrations on the interfacial characteristics and physical properties of sodium caseinate stabilized oil in water emulsions. Food Chemistry, 151, pp. 506-513.
File đính kèm:
- khao_sat_cac_yeu_to_anh_huong_den_tinh_on_dinh_cua_he_nhu_tu.pdf