Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia

Dự trữ dầu quốc gia đã được Chính phủ định hướng trong Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu

(2009 và 2017) với mục tiêu đến năm 2020, tổng quy mô hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam đạt tối thiểu

90 ngày nhập ròng, đáp ứng tiêu chí của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA).

Bài báo giới thiệu kinh nghiệm, quy mô và cơ cấu dự trữ của một số nước trên thế giới; trên cơ sở đó phân tích các cơ hội, thách

thức của Việt Nam trong việc thực hiện Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu đến 2025 và tầm nhìn

đến 2035.

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 1

Trang 1

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 2

Trang 2

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 3

Trang 3

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 4

Trang 4

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 5

Trang 5

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 6

Trang 6

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 7

Trang 7

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 6200
Bạn đang xem tài liệu "Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia

Dự trữ dầu chiến lược - cơ hội và thách thức của Việt Nam trong dự trữ dầu chiến lược quốc gia
51DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 
PETROVIETNAM
1979 - 1980 của việc gián đoạn cung cấp dầu đã làm cho 
tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc giảm tương ứng từ 
11,8% xuống 6,7% và từ 6,8% xuống -4,3% [1, 2]. 
Để đối phó với sự bất ổn của thị trường, vấn đề an 
ninh dầu mỏ đã được các nước quan tâm và xây dựng hệ 
thống dự trữ dầu mỏ để giảm thiểu tổn thất cho nền kinh 
tế trong trường hợp khủng hoảng xảy ra. 
2. Kinh nghiệm dự trữ dầu thô chiến lược của một số 
nước trên thế giới 
2.1. Hình thức dự trữ 
Dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu thường 
được các nước thực hiện dưới 2 hình thức/nhóm chủ thể 
và mục đích sau:
- Dự trữ doanh nghiệp (company petroleum 
reserves): Hình thức này phổ biến gồm (1) dự trữ/lưu kho 
nguyên liệu dầu thô đầu vào và sản phẩm đầu ra tại các 
nhà máy lọc dầu và (2) dự trữ/lưu kho các sản phẩm xăng 
dầu tại các kho/đầu mối kinh doanh xăng dầu. Hình thức 
dự trữ này trên thế giới rất ít hoặc không có quy định bắt 
buộc mà để các doanh nghiệp (nhà nước, tư nhân) tự cân 
đối và quyết định về khối lượng cũng như quy mô kho, tùy 
thuộc vào tình hình và điều kiện sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp (nếu dự trữ/lưu kho nhiều sẽ dẫn đến đọng 
vốn và dự trữ/lưu kho ít sẽ không đủ ứng phó với các biến 
động về thị trường...).
Ngày nhận bài: 31/7/2019. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 31/7 - 6/9/2019. 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 9/9/2019.
DỰ TRỮ DẦU CHIẾN LƯỢC - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM 
TRONG DỰ TRỮ DẦU CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA 
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số 9 - 2019, trang 51 - 58
ISSN-0866-854X
Hoàng Thị Phượng1, Nguyễn Thị Mai Lê1, Nguyễn Thị Thanh Lê1, Phạm Thu Trang1, Nguyễn Thùy Linh2
1Viện Dầu khí Việt Nam
2Bộ Công Thương
Email: phuonght@vpi.pvn.vn
Tóm tắt
Dự trữ dầu quốc gia đã được Chính phủ định hướng trong Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu 
(2009 và 2017) với mục tiêu đến năm 2020, tổng quy mô hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam đạt tối thiểu 
90 ngày nhập ròng, đáp ứng tiêu chí của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). 
Bài báo giới thiệu kinh nghiệm, quy mô và cơ cấu dự trữ của một số nước trên thế giới; trên cơ sở đó phân tích các cơ hội, thách 
thức của Việt Nam trong việc thực hiện Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu đến 2025 và tầm nhìn 
đến 2035.
Từ khóa: Dự trữ, dầu thô, sản phẩm xăng dầu, quy hoạch, chiến lược. 
1. Giới thiệu 
Với mọi nền kinh tế, dầu thô và các sản phẩm xăng 
dầu là mặt hàng mang tính chiến lược. Tại khu vực châu 
Á - Thái Bình Dương, các nước ngày càng phụ thuộc vào 
dầu mỏ (dầu thô và các sản phẩm xăng dầu). Dự báo đến 
năm 2020, tỷ lệ nhập khẩu dầu ở khu vực châu Á có thể 
đạt tới trên 83% tổng nhu cầu, trong đó Nhật Bản và Hàn 
Quốc gần như nhập khẩu 100% nhu cầu, còn Trung Quốc 
dao động trong khoảng 70 - 75% [1]. Trong khi đó, nguồn 
cung dầu mỏ này chủ yếu từ khu vực Trung Đông, Mỹ, Liên 
bang Nga - các khu vực tiềm ẩn nhiều bất ổn về chính trị, 
địa chính trị (giữa các nước lớn và các nước có nguồn tài 
nguyên dầu mỏ dồi dào). 
Thị trường dầu mỏ thế giới luôn biến động, chỉ tính 
từ năm 1951 - 2015 đã trải qua 21 cuộc khủng khoảng 
nguồn cung dầu mỏ lớn với thời gian trung bình là 8,1 
tháng/cuộc và lượng cung dầu mỏ thiếu hụt trung bình 
3,7%/cuộc. Việc gián đoạn nguồn cung dầu mỏ đã ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến các nước nhập khẩu dầu, do 
thiếu hụt nguồn cung khiến sản xuất kinh doanh đình trệ, 
giá dầu bị đẩy lên cao dẫn đến gia tăng chi phí sản xuất. Ví 
dụ điển hình về 2 cuộc khủng khoảng dầu khí 1973 - 1974, 
52 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ
- Dự trữ chiến lược/quốc gia (strategic petroleum 
reserves - SPR) là hình thức dự trữ mang tính chiến lược 
của nhà nước/chính phủ mỗi nước để phòng ngừa và 
khắc phục/giảm thiểu các tổn thất, bất trắc xảy ra khi có 
khủng hoảng nguồn cung (thiếu nguồn dầu thô để cung 
cấp cho các nhà máy lọc dầu và thiếu nguồn sản phẩm 
xăng dầu để cung cấp cho thị trường) hoặc khi có xung 
đột về giá dầu mỏ thế giới đối với nền kinh tế của mỗi 
nước. Ngoài ra, có một số nước dự trữ chiến lược với mục 
đích thao túng giá dầu quốc tế hoặc đầu cơ khi giá dầu 
biến động lớn. 
Trên thế giới, các nước đã thực hiện dự trữ dầu thô và 
các sản phẩm xăng dầu, trong đó triển khai có định hướng 
và quy củ nhất chủ yếu là các nước thành viên thuộc IEA. 
IEA được thành lập từ năm 1974 (sau cuộc khủng hoảng 
dầu mỏ 1973) quan tâm đến vấn đề an ninh năng lượng 
toàn cầu với trọng tâm là ổn định nguồn cung cấp và giá 
cả dầu mỏ. Khi một quốc gia ký kết gia nhập IEA thì phải 
cam kết là có nguồn dự trữ dầu mỏ. Khi mới thành lập, 
IEA yêu cầu các nước thành viên ít nhất cũng phải có khả 
năng dự trữ dầu mỏ trong 60 ngày nhập ròng, chủ yếu là 
dự trữ dầu thô. Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 2 
(trong thập niên 80 của thế kỷ 20), IEA yêu cầu các nước 
thành viên tăng dự trữ dầu mỏ lên đến 90 ngày nhập 
ròng. IEA đã xây dựng chương trình phối hợp để đối phó 
với tình trạng khẩn cấp theo 3 cấp độ giảm nguồn cung 
(< 7%, từ 7 - 12% và trên 12%), đồng thời thành lập nhóm 
thường trực các vấn đề khẩn cấp (Standing Emergency - 
SEQ) để điều hành các hoạt động ứng phó khi xảy ra gián 
đoạn nguồn cung cấp [1].
Hiện tại IEA đã có 30 nước thành viên chủ yếu là các 
nước có hoạt động sản xuất, xuất/nhập dầu thô như: Anh, 
Áo, Bỉ, Canada, Séc, Đan Mạch, Estonia, Đức, Pháp, Phần 
Lan, Italia, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Luxembourg, Hà Lan, Mexico, New Zeland, Na Uy, Ba Lan, 
Bồ Đào Nha, Cộng hòa Slovak, Tây Ban Nha, Thụy Điển, 
Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ, Australia (Trung Quốc và Ấn Độ 
không tham gia). Các nước thành viên IEA đều cam kết dự 
trữ dầu tối thiểu 90 ngày nhập ròng, ngoại trừ 2 nước xuất 
khẩu ròng dầu thô (Canada và Na Uy) không phải cam kết 
dự trữ dầu. Tuy nhiên, thực tế các nước này đều dự trữ 
vượt ngưỡng 90 ngày nhập ròng của năm trước.
Đối với nhóm các nước thuộc Diễn đàn Hợp tác ... ên tại các nhà máy phải đạt khoảng 25 ngày sản xuất 
(tương đương 30 - 35 ngày nhập ròng giai đoạn 2019 - 
2025), trong đó, cần tối thiểu đạt 15 ngày sản xuất đối với 
dầu thô và 10 ngày sản xuất đối với sản phẩm xăng dầu.
 + Dự trữ thương mại: gồm dự trữ xăng dầu thương 
mại tại các kho đầu mối nhập khẩu xăng dầu nhằm bảo 
đảm ổn định nhu cầu thị trường trong nước và do các 
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu thực hiện. Lượng 
xăng dầu thương mại cần lưu chứa thường xuyên tối thiểu 
phải đạt 30 ngày nhu cầu (tương đương 2,5 triệu tấn vào 
năm 2015 và 4,1 triệu tấn vào năm 2020).
 + Dự trữ quốc gia/chiến lược: gồm dầu thô và sản 
phẩm xăng dầu các loại do nhà nước sở hữu và quyết định 
để điều phối thị trường khi có các tình huống khẩn cấp. 
Lượng dự trữ đạt 30 ngày nhập ròng (22,8 ngày nhu cầu) 
từ năm 2015, trong đó gồm 63% là dầu thô (~2,2 triệu tấn) 
và 37% là sản phẩm xăng dầu (1,3 triệu tấn). Đến 2035 quy 
mô vẫn cần duy trì khoảng từ 25 - 30 ngày nhập ròng. Về 
hình thức dự trữ, sẽ thuê kho của các đầu mối kinh doanh 
xăng dầu lớn trong cả nước để dự trữ sản phẩm, còn đối 
với kho dầu thô, ưu tiên bố trí xây dựng hệ thống các kho 
gần/liền kề các nhà máy lọc hóa dầu để thuận lợi cho việc 
cung ứng trong các trường hợp khẩn cấp (xây dựng kho 
chứa ngầm ở các khu vực Quảng Ngãi, Vân Phong - Khánh 
Hòa, Long Sơn).
Ngoài các quy định về số lượng và cơ cấu dự trữ, quy 
hoạch cũng đã định rõ lộ trình thực hiện từ việc xây dựng 
văn bản pháp lý, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện (xây/
thuê kho, mua dầu, bảo quản và sử dụng dầu). 
Như vậy, ngoài các quy định về dự trữ sản xuất và 
thương mại (bắt buộc các doanh nghiệp lọc hóa dầu và 
kinh doanh xăng dầu thực hiện) thì việc dự trữ dầu mang 
tính chiến lược đã được Chính phủ định hướng thực hiện 
với quy mô không nhỏ (trên 3 triệu tấn dầu thô và xăng 
dầu các loại). Tuy nhiên, một số nội dung trong Quy hoạch 
đã không thực hiện được. Dự trữ sản xuất và dự trữ thương 
mại do các doanh nghiệp lọc hóa dầu và các đầu mối kinh 
doanh xăng dầu thực hiện nên cơ bản đều đảm bảo/gần 
đảm bảo được như quy hoạch nhưng dự trữ dầu mỏ quốc 
gia chưa triển khai được, cụ thể:
 + Đối với sản phẩm xăng dầu dự trữ chiến lược: chỉ 
được gia tăng rất ít so với giai đoạn trước năm 2009, chủ 
yếu do khó cân đối tài chính. Tính đến cuối năm 2016, 
tổng xăng dầu dự trữ mới chỉ đạt khoảng 400 nghìn tấn/
m3 (tăng 50 nghìn tấn/m3 so với giai đoạn trước năm 2009, 
mới đạt khoảng 30% so với quy hoạch 1,3 triệu tấn/m3). 
 + Đối với dầu thô dự trữ chiến lược: Năm 2015 - 2016, 
Bộ Công Thương phối hợp cùng Bộ Tài chính xem xét việc 
thuê kho của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất để dự trữ dầu 
thô quốc gia, song vì năng lực/sức chứa kho dầu thô của 
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất chưa đảm bảo, các quy định 
pháp lý nên việc này không được triển khai. Ngoài ra, việc 
xúc tiến nghiên cứu xây dựng kho ngầm dầu thô tại Dung 
Quất (kho được quy hoạch vào năm 2020) cũng không 
được triển khai (mới dừng ở việc xem xét cách thức tổ 
chức nghiên cứu khả thi kho tại khu vực Quảng Ngãi) do 
thiếu kinh nghiệm, thiếu nguồn tài chính 
Như vậy, hoạt động dự trữ dầu chiến lược tại Quy 
56 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ
hoạch năm 2009 gần như chưa được thực hiện, trong đó 
nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn.
- Giai đoạn từ năm 2017 đến nay 
Từ cuối năm 2014 đến nay, các bất ổn/xung đột chính 
trị xảy ra ở Trung Đông, Venezuela, Mỹ - Nga, Mỹ - Trung; 
sự suy thoái của nền kinh tế tài chính thế giới làm cho 
nguồn cung dầu biến động và giá dầu thô thế giới giảm 
mạnh, có lúc giảm sâu xuống dưới mức 30 USD/thùng 
(giảm đến 70% so với 3 năm trước đó). Năm 2017, Chính 
phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ 
dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam đến 2025 
và định hướng đến 2035 với mục tiêu tổng quát là: Tổng 
quy mô hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng 
dầu của Việt Nam cần đạt tối thiểu 90 ngày nhập ròng, đáp 
ứng tiêu chí của IEA từ năm 2020 và vẫn duy trì 3 loại hình 
dự trữ (sản xuất, thương mại và quốc gia), trong đó giữ 
nguyên quy định đối với dự trữ sản xuất và thương mại, 
riêng dự trữ quốc gia có sự thay đổi (Bảng 1).
Như vậy, Quy hoạch mới đã thay đổi quy định về dự 
trữ dầu chiến lược quốc gia theo hướng giảm số ngày 
dự trữ quốc gia cho giai đoạn đến năm 2025 (từ 30 ngày 
xuống 20 ngày nhập ròng) và thay đổi cơ cấu dự trữ (giảm 
tỷ lệ dầu thô, tăng tỷ lệ sản phẩm xăng dầu trong tổng 
lượng dự trữ).
Về hình thức dự trữ: Đối với sản phẩm xăng dầu, tiếp 
tục duy trì hình thức thuê kho xăng dầu đầu mối tại các 
khu vực/vùng trong cả nước; với các kho dầu thô, vẫn quy 
hoạch tại các khu vực gần/liền kề các nhà máy lọc hóa dầu 
(gồm kho Dung Quất - Quảng Ngãi, kho Nghi Sơn - Thanh 
Hóa và kho Long Sơn - Bà Rịa Vũng Tàu, với sức chứa mỗi 
kho khoảng 1 triệu m3 dầu thô).
 Sau hơn 2 năm triển khai Quy hoạch, song tiến độ 
xây dựng hệ thống dự trữ quốc gia vẫn còn chậm, chủ yếu 
đang trong giai đoạn chuẩn bị ban đầu về các quy định 
pháp lý và tổ chức quản lý (từ Bộ chủ quản).
3.2. Cơ hội và thách thức trong xây dựng hệ thống dự trữ 
dầu thô và các sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam
Với Quy hoạch dự trữ dầu mỏ chiến lược đã điều chỉnh 
nói trên, mặc dù đã tính đến việc giảm bớt khối lượng dự 
trữ nhưng để tổ chức thực hiện được Quy hoạch (đảm bảo 
Quy hoạch có tính hiện thực), tác giả cho rằng trong điều 
kiện hiện tại Việt Nam sẽ phải đối mặt với các thách thức 
lớn. 
- Về cân đối nguồn tài chính cho dự trữ: Theo Báo 
cáo Quy hoạch năm 2017 [8], vốn đầu tư cần thiết cho hệ 
thống dự trữ dầu mỏ chiến lược quốc gia đến năm 2025 
ước tính vào khoảng 2,2 tỷ USD cho xây dựng kho ngầm, 
trên 0,27 tỷ USD cho thuê kho sản phẩm và khoảng 1,2 
- 1,5 tỷ USD mua dầu dự trữ (với giả thiết giá dầu thô ở 
ngưỡng 65 USD/thùng). Tuy nhiên theo Wood Mackenzie, 
giá dầu thô trong dài hạn đến năm 2025 dự báo dao động 
trong khoảng 60 - 78 USD/thùng (trung bình 70 USD/
thùng), cao hơn mức giả định trong Quy hoạch, do đó 
kinh phí cần thiết để mua dầu dự trữ có thể sẽ cao hơn 
kế hoạch (khoảng 1,3 - 1,6 tỷ USD). Như vậy, tổng kinh phí 
cần thiết cho cả hệ thống dự trữ ước khoảng trên 3,77 - 
4,07 tỷ USD, đây thực sự là bài toán rất khó cân đối ngân 
sách của Chính phủ hiện nay. 
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp 
lý và tổ chức quản lý hoạt động dự trữ: Các nước có kinh 
nghiệm dự trữ dầu thô (như Nhật Bản, Hàn Quốc) cần 
hàng chục năm để xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn 
Bảng 1. Một số thay đổi về dự trữ dầu quốc gia trong Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam 2009 và 2017 [9, 10]
Tiêu chí Quy hoạch (2009) Quy hoạch (2017) Nhận xét 
Mục tiêu 
tổng quát 
Từ năm 2015, tổng quy mô dự trữ đạt 
tối thiểu 90 ngày nhập ròng 
Từ năm 2020, tổng quy mô dự trữ đạt 
tối thiểu 90 ngày nhập ròng 
- Giữ nguyên mục tiêu dự trữ đạt 90 
ngày nhập ròng nhưng đẩy thời 
gian đạt từ năm 2015 thành năm 
2020 
Quy mô dự trữ 
chiến lược đến 
năm 2025 
Đến năm 2025: đạt 30 ngày nhập ròng
(~22,8 ngày nhu cầu), trong đó gồm: 
+ 12,4 ngày dự trữ dầu thô (~2,2 triệu 
tấn) 
+ 10,4 ngày dự trữ sản phẩm xăng 
dầu (~1,3 triệu tấn) 
Giai đoạn 2017 - 2025: đạt 20 ngày 
nhập ròng, trong đó gồm: 
+ 6 ngày dự trữ dầu thô (~1 - 1,7 triệu 
tấn) 
+ 14 ngày dự trữ sản phẩm xăng dầu 
(~1,2 - 1,4 triệu tấn) 
- Giảm số ngày dự trữ chiến lược từ 
30 ngày xuống 20 ngày 
- Giảm tỷ lệ dầu thô dự trữ, tăng tỷ lệ 
sản phẩm xăng dầu trong tổng 
lượng dự trữ 
Quy mô dự trữ 
chiến lược đến 
năm 2035 
Chưa quy hoạch 
Đến năm 2035: Tiếp tục phát triển hệ 
thống dự trữ dầu thô và sản phẩm 
xăng dầu với quy mô đạt khoảng từ 25 
- 30 ngày nhập ròng 
- Mở rộng thời gian quy hoạch đến 
năm 2035 
57DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 
PETROVIETNAM
bản pháp luật cũng như củng cố bộ máy tổ chức quản lý 
hệ thống dự trữ. 
- Xây dựng các kho chứa: Theo Quy hoạch, đến năm 
2025 phải có ít nhất 1 kho ngầm và sẵn sàng dự trữ dầu 
thô. Trong điều kiện Việt Nam, các khâu từ việc tư vấn lập 
hồ sơ mời thầu (khảo sát sơ bộ lập báo cáo tiền khả thi, 
lập báo cáo đầu tư, đấu thầu EPC) đến tổ chức đấu thầu 
và quản lý quá trình thực hiện/đầu tư xây dựng..., xin phê 
duyệt chủ trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng ký 
đầu tư cũng như thẩm định/thẩm tra thiết kế... theo quy 
định mất nhiều thời gian. Ngoài ra, do tính phức tạp của 
kho ngầm dưới lòng đất nên thời gian thi công xây dựng 
kho, cảng sẽ dài (theo kinh nghiệm của Nhật Bản thường 
từ 4 - 6 năm). Như vậy, tiến độ như Quy hoạch đề ra vẫn 
khó đạt được.
Việc triển khai dự trữ dầu mỏ của Việt Nam cũng sẽ 
có cơ hội đáng kể, có thể giảm thiểu nhất định nguồn tài 
chính cho dự trữ, đó là xu hướng giá dầu thế giới đã và 
đang trong chu kỳ giá thấp. Giá dầu dự báo trung bình 
dài hạn (theo Wood Mackenzie, tháng 1/2019) khoảng 70 
USD/thùng, trong đó có giai đoạn/thời điểm giá dầu sẽ 
xuống thấp hơn, đó là lúc có thể mua dầu để dự trữ. Các 
nước có dự trữ dầu mỏ thường tranh thủ lợi thế này khi 
thực hiện dự trữ (giai đoạn cuối năm 2015 đầu năm 2016 
khi giá dầu thế giảm sâu, Nhật Bản và Trung Quốc đã mua 
bổ sung rất nhiều dầu dự trữ chiến lược). 
4. Kết luận
Với mục tiêu giảm thiểu các thách thức, tranh thủ cơ 
hội để góp phần đảm bảo tính hiện thực cho Quy hoạch 
dự trữ dầu chiến lược đã đề ra của Chính phủ, nhóm tác 
giả đưa ra một số đề xuất cho Việt Nam trong việc thực 
hiện dự trữ dầu mỏ quốc gia như sau:
- Chính phủ và các bộ/ngành (Bộ Công Thương, Bộ 
Tài chính) xúc tiến nhanh hơn các công việc chuẩn bị cho 
hoạt động dự trữ, trong đó ưu tiên:
 + Nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp lý, quy định 
để quản lý hoạt động dự trữ dầu thô quốc gia như: Quy 
chế quản lý mặt hàng dầu thô và các ấn phẩm xăng dầu 
dự trữ quốc gia; quy chuẩn quốc gia về dầu thô dự trữ 
quốc gia (tại kho nổi và kho ngầm); định mức kinh tế - kỹ 
thuật trong hoạt động dự trữ dầu quốc gia (từ mua dầu, 
xây kho, thuê kho, hao hụt dầu, bảo quản dầu, xuất dầu...); 
cơ chế chính sách trong thực hiện dự trữ (cơ chế tài chính 
dự trữ, cơ chế mua/xuất dầu...).
 + Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý hệ 
thống dự trữ quốc gia dầu thô và các sản phẩm xăng dầu 
(trong đó phân công vai trò trách nhiệm và cơ chế phối 
hợp từ Chính phủ tới các bộ/ngành quản lý, đơn vị quản 
lý/thực hiện dự trữ liên quan).
 + Xúc tiến các hoạt động nghiên cứu và xây dựng 
kho dự trữ quốc gia như: Nghiên cứu xác định địa điểm 
xây dựng kho; nghiên cứu lập các dự án xây dựng kho; tổ 
chức đầu tư xây dựng kho... để đơn vị quản lý kho có thể 
nhận chuyển giao và bắt đầu dự trữ (mua dầu, bảo quản 
dầu).
- Bộ Công Thương quản lý hệ thống dự trữ quốc gia 
về dầu mỏ nên xây dựng lộ trình và kế hoạch mua dầu dự 
trữ (dầu thô và các sản phẩm) với việc đảm bảo được tính 
linh hoạt về thời điểm mua dầu vào dự trữ (mua vào khi 
giá dầu thế giới ở mức thấp để giảm thiểu chi phí). Theo 
đó, trong khi kho ngầm dầu thô còn trong quá trình đầu 
tư xây dựng thì có thể ưu tiên lập kế hoạch mua trước các 
sản phẩm xăng dầu (vì việc thuê các kho xăng dầu đầu 
mối để dự trữ có tính linh hoạt cao hơn).
- Sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế/giải pháp hình 
thành nguồn tài chính cho dự trữ dầu mỏ quốc gia. Trong 
đó, có thể xem xét đến việc thu phí/thuế tiêu thụ đối với 
dầu thô sản xuất tại các nhà máy lọc dầu và thuế tiêu thụ 
xăng dầu nội địa theo nguyên tắc các đơn vị/cá nhân được 
hưởng lợi từ việc ổn định thị trường (người sử dụng xăng 
dầu và các nhà máy) thì đều phải có trách nhiệm chia sẻ 
tài chính để thực hiện hoạt động đó (như kinh nghiệm đã 
thực hiện tại Nhật Bản và Hàn Quốc).
Tài liệu tham khảo
1. International Energy Agency (IEA). www.iea.org.
2. Viện Dầu khí Việt Nam. Báo cáo Quy hoạch phát 
triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của 
Việt Nam đến 2015 và định hướng đến 2025. 2009.
3. U.S. Energy Information Administration (EIA). www.
eia.gov.
4. Petroleum Association of Japan (PAJ). www.paj.
gr.jp. 2019.
5. KNOC. www.knoc.co.kr.
6. JOGMEC. Petroleum & LP Gas Stockpiling. www.
jogmec.go.jp. 2018.
7. Viện Dầu khí Việt Nam. Báo cáo Nghiên cứu đề xuất 
các giải pháp quản lý chất lượng và định mức kinh tế - kỹ 
thuật dầu thô dự trữ quốc gia. 2014. 
8. Bộ Công Thương. Báo cáo Quy hoạch phát triển hệ 
58 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ
Summary
National oil stockpiling has been oriented by the Government of Vietnam in the Master Plan for National Crude Oil and Petroleum 
Products Stockpiling System Development (2009 and 2017) with a goal that by 2020, the total size of the system will reach at least 90 
days of net import, meeting the criteria of the International Energy Agency (IEA).
The article presents the experience, scale and structure of stockpiling of some countries in the world, and on that basis, analyses the 
opportunities and challenges for Vietnam in implementing the Master plan for national crude oil and petroleum products stockpiling 
system development until 2025 and vision to 2035.
Key words: Stockpiling, crude oil, petroleum products, master plan, strategy.
NATIONAL STRATEGIC STOCKPILING OF CRUDE OIL AND PETROLEUM 
PRODUCTS - OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAM
Hoang Thi Phuong1, Nguyen Thi Mai Le1, Nguyen Thi Thanh Le1, Pham Thu Trang1, Nguyen Thuy Linh2
1Vietnam Petroleum Institute
2Ministry of Industry and Trade 
Email: phuonght@vpi.pvn.vn
thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt 
Nam đến 2025 và định hướng đến 2035. 2017.
9. Thủ tướng Chính phủ. Quy hoạch phát triển hệ 
thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt 
Nam đến 2015 và định hướng đến 2025. Quyết định số 
1139/QĐ-TTg. 31/7/2009.
10. Thủ tướng Chính phủ. Quy hoạch phát triển hệ 
thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt 
Nam đến 2025 và định hướng đến 2035. Quyết định số 
1030/QĐ-TTg. 13/7/2017.
11. EIA. Annual energy outlook 2019. Tháng 1/2019.

File đính kèm:

  • pdfdu_tru_dau_chien_luoc_co_hoi_va_thach_thuc_cua_viet_nam_tron.pdf