Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930

Hà Nam là một tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng, nghề trồng lúa chiếm vai trò chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp. Sau các cuộc đánh chiếm, bình định của thực dân Pháp, các đồn điền không ngừng mọc lên ở đây. Đến năm 1902, toàn tỉnh có 12 đồn điền, Đến năm 1914, số lượng đồn điền giảm xuống còn 11.

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 1

Trang 1

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 2

Trang 2

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 3

Trang 3

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 4

Trang 4

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 5

Trang 5

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 6

Trang 6

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 08/01/2024 5540
Bạn đang xem tài liệu "Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930

Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0099
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 144-150
This paper is available online at 
ĐỒN ĐIỀN Ở HÀ NAM TỪ NĂM 1890 ĐẾN NĂM 1930
Mai Thị Tuyết
Khoa Lí luận Chính trị và Giáo dục Công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Hà Nam là một tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng, nghề trồng lúa chiếm vai trò chủ
đạo trong sản xuất nông nghiệp. Sau các cuộc đánh chiếm, bình định của thực dân Pháp,
các đồn điền không ngừng mọc lên ở đây. Đến năm 1902, toàn tỉnh có 12 đồn điền, Đến
năm 1914, số lượng đồn điền giảm xuống còn 11. Tuy nhiên, diện tích đồn điền lại tăng
lên gần 10 ha; đồng thời, tên điền chủ có sự thay đổi ít nhiều, do diễn ra quá trình chuyển
nhượng. Sau Chiến tranh (1919), chính quyền thực dân khuyến khích phát triển kinh tế đồn
điền. Do vậy, diện tích đồn điền không ngừng được mở rộng. Tính đến năm 1930, toàn tỉnh
có 8 đồn điền, nhưng diện tích lại tăng lên vượt bậc (13.122 ha). Trâu, bò, ngựa, cừu, dê,
cà phê là những vật nuôi, cây trồng quan trọng và hiệu quả ở các đồn điền.
Từ khóa: Hà Nam, đồn điền, thực dân Pháp.
1. Mở đầu
Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương kí quyết định thành lập tỉnh Hà Nam. Dưới tác động
của chính sách khai thác thuộc địa, kinh tế Hà Nam có nhiều chuyển biến, trong đó có sự xuất hiện
của kinh tế đồn điền. Xoay quanh chủ đề này, có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong
và ngoài nước. Điển hình có thể kể đến: Economie agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp
Đông Dương, Y.Henry, 1932); Le Tonkin en 1909 (Bắc Kỳ năm 1909, G.Dauphinot); Le Tonkin
(Bắc Kỳ, P.Gourou, 1931); La Culture du riz dans le delta du Tonkin (Nghề trồng lúa ở đồng bằng
Bắc Kỳ, René Dumont, 1935); Les paysans du delta tonkinois (Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ,
P.Gourou, 1936); Đồn điền của Pháp ở Bắc Kỳ (Tạ Thị Thúy, 1996); Việc nhượng đất, khẩn hoang
ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945 (Tạ Thị Thúy, 2001); Monographie de la province de Ha Nam (Địa chí
tỉnh Hà Nam)... Các công trình nghiên cứu trên mới đề cập đến những vấn đề chung liên quan đến
Hà Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về đồn điền ở Hà Nam thời Pháp thuộc. Tuy vậy, tất
cả đều có giá trị tham khảo tốt. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, bài
viết đi sâu vào tìm hiểu quá trình ra đời, phát triển và sản xuất kinh tế đồn điền ở Hà Nam từ năm
1890 đến 1930.
Ngày nhận bài: 15/3/2017. Ngày sửa bài: 11/5/2017. Ngày nhận đăng: 20/7/2017
Liên hệ: Mai Thị Tuyết, e-mail: tuyetmai4589@gmail.com
144
Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đồn điền Hà Nam từ 1890 đến 1919
Năm 1873, thực dân Pháp tấn công Lý Nhân (Hà Nam) [17;tr.303], sau đó, từng bước bình
định quân sự trên phạm vi toàn tỉnh. Theo sau những cuộc đánh chiếm của thực dân Pháp ở Bắc
Kỳ, cũng như Hà Nam là những nhà tư bản Pháp. Công cuộc bình định của kẻ xâm lược đến đâu là
sự cướp đoạt ruộng đất của các nhà tư bản Pháp đối với người bản xứ diễn ra đến đó. Từ năm 1897
đến 1902, thực dân Pháp đã chiếm đoạt khoảng 120.000 hecta, trong đó có tới 50.000 hecta thuộc
những vùng đông dân, trù phú lớn của Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang [4;tr.179]. Do
có vị trí địa lí chiến lược, giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên, Hà Nam trở thành một trong những
địa phương đầu tiên ở Bắc Kỳ bị thực dân Pháp chiếm đánh, cướp đoạt đất đai thành lập các đồn
điền. Tiên phong cho công cuộc cướp đất, xây dựng đồn điền ở Hà Nam là hai anh em Guillaume
và Louis Borel. Năm 1883, hai anh em Guillaume và Louis Borel đã vào vùng Kẻ Sở, Quyển Sơn
khai thác đá, thăm dò lập đồn điền. Đến năm 1896, chúng đã chiếm 200 ha đất ở vùng Đồng Tâm.
Ngày 13/6/1898, thực dân Pháp tiếp tục cấp cho anh em họ 1000 ha ở Hà Nam. Năm 1907, Boren
được cấp tiếp 100 ha ở Đồng Tâm [17;tr.312]. Theo số liệu thống kê, tính tới năm 1902, ở Hà Nam
có 12 đồn điền. Riêng hai anh em Guillaume và Louis Borel đã chiếm 6 đồn điền, diện tích là
1.935 ha, trên tổng số 2.788 ha, 1.564m2 toàn tỉnh (chiếm trên 69%).
Bảng 1. Diện tích đồn điền ở Hà Nam năm 1902 [1;tr.152]
TT Năm thànhlập Tên điền chủ
Diện tích
(hecta) Địa điểm
1 1897 Guillaume và Louis Borel 300 Hà Nam
2 1887 Guillaume và Louis Borel 25 Vũ Xá (Hà Nam)
3 1891 Guillaume và Louis Borel 30 Vũ Xá, Lang Lương (Hà Nam)
4 1893 Guillaume và Louis Borel 80 Rược, Vũ Xá (Hà Nam)
5 1893 Guillaume và Louis Borel 1.200 Hòa Bình, Phủ Lý
6 1896 Guillaume và Louis Borel 300 Hòa Bình, Phủ Lý
7 1896 Roux và Schaller 250 Cốc Thôn (Hà Nam)
8 1897 Roux và Schaller 240 Bông Bông (Hà Nam)
9 1895 Souvignet 1.564m2 Phủ Lý (Hà Nam)
10 1899 Gendreau 1 Phủ Lý (Hà Nam)
11 1900 Guyet 337 Cốc Thôn, Tam Chúc (Hà Nam)
12 1901 Laurcutie 25 Thôn Cốc, Thủy Lôi (Hà Nam)
Tổng 2.788ha;1.564m2
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong vòng 14 năm, các đồn điền liên tục mọc lên ở Hà Nam với
khoảng cách thời gian dày đặc. Điều đó chứng tỏ, sự ráo riết của chính quyền thuộc địa và cá nhân
các nhà tư bản Pháp trong việc cướp đoạt ruộng đất của người dân Hà Nam để lập đồn điền. Số
liệu trên cũng cho chúng ta biết, diện tích các đồn điền của người Pháp ở Hà Nam khá lớn. Theo
quy định của chính quyền thực dân, đồn điền có diện tích từ 50 ha trở lên được coi là đại đồn điền;
dưới 50 ha là tiểu đồn điền. Như vậy, ở Hà Nam thời điểm này có tới 7 đại đồn điền và 5 tiểu đồn
điền. Cá biệt, đồn điền của Guillaume và Louis Borel thành lập năm 1893 đã vượt xa diện tích quy
định của chính quyền cho phép (Nghị định Toàn quyền kí ngày 5 tháng 9 năm 1888 chỉ cho phép
diện tích tối đa của các đồn điền là 100 ha). Vì nhiều đồn điền vi phạm diện tích tối đa (tính trên
toàn lãnh thổ), nên chính quyền thực dân đã ra văn bản thứ hai kí ngày 24 tháng 4 năm 1895, xoá
145
Mai Thị Tuyết
bỏ mức quy định diện tích xin “di nhượng” tối đa 100 ha. Vì vậy, diện tích của các đồn điền ở Hà
Nam nói riêng, cả nước nói chung được đẩy vọt lên. Đây là tình trạng chung của Bắc Kỳ ở thời
điểm này [16;tr.99]. Tuy nhiên sau đó, một số chủ đồn điền do thiếu kinh nghiệm quản 

File đính kèm:

  • pdfdon_dien_o_ha_nam_tu_nam_1890_den_nam_1930.pdf