Bước đầu xác định địa giới hành chính một số phường thuộc nội vi kinh thành Huế (đầu thế kỷ XX - 1945)
Kinh Thành Huế được xem là trung tâm chính trị của cả nước, là biểu trưng quyền lực của vương triều nhà Nguyễn. Nếu như khu vực Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được liệt vào hàng thâm nghiêm, cấm địa thì nội vi Kinh Thành được coi là nơi cấm mật, tuyệt nhiên bất khả xâm phạm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bước đầu xác định địa giới hành chính một số phường thuộc nội vi kinh thành Huế (đầu thế kỷ XX - 1945)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu xác định địa giới hành chính một số phường thuộc nội vi kinh thành Huế (đầu thế kỷ XX - 1945)
* Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. ** Khái niệm Nội thành hoặc Thành Nội là cách nói của người Huế dùng để chỉ toàn bộ khu vực Kinh Thành Huế. ĐMĐ. BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH MỘT SỐ PHƯỜNG THUỘC NỘI VI KINH THÀNH HUẾ (ĐẦU THẾ KỶ XX - 1945) Đỗ Minh Điền* 1. Hệ thống các phường Nội thành trước thời điểm tu chỉnh dưới thời vua Duy Tân (1907 - 1916) Kinh Thành Huế được xem là trung tâm chính trị của cả nước, là biểu trưng quyền lực của vương triều nhà Nguyễn. Nếu như khu vực Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được liệt vào hàng thâm nghiêm, cấm địa thì nội vi Kinh Thành được coi là nơi cấm mật, tuyệt nhiên bất khả xâm phạm. Chính vì thế, trong bộ Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long) đã dành hẳn hơn 20 trang để nhấn mạnh sự tôn nghiêm của Kinh Thành, đồng thời quy định rất rõ các loại tội trạng, định hẳn chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với tất cả những ai tự tiện ra vào, xâm phạm địa giới Kinh Thành.(1) Được quy hoạch trên cơ sở đất đai của 8 làng trước đó, Kinh Thành Huế có diện tích mặt bằng khá rộng lớn. Ngoại trừ Hoàng Thành, kể từ thời vua Gia Long (1802 - 1820) trở đi, khu vực Kinh Thành là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầng lớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng bà chúa. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết, “nội địa Kinh Thành từ trước đến nay vốn đã có phân chia đất để làm các phủ đệ và nhà ở cho quan chức và các ty”.(2) Trong hồi ức về Huế vào đầu thế kỷ XIX, Michel Đức Chaigneau cũng xác nhận tầng lớp dân chúng chỉ được sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành,(3) ngoài những giai tầng nói trên, tuyệt đối cấm các đối tượng còn lại xây dựng nhà cửa, ẩn cư ở nội vi Kinh Thành. Quy định này, được thực thi nghiêm túc cho đến gần cuối thời vua Tự Đức. Phường trong Nội thành(**) được nhắc đến sớm nhất là vào năm 1837 dưới triều vua Minh Mạng. Tổ chức phường vào giai đoạn này tồn tại với tư cách như những đơn vị hành chính đặc biệt, đó là kết quả của sự phân định hệ thống các đồn canh, binh xá thuộc dinh vệ của các lực lượng quân đội. Có thể nói, hệ thống phường thời kỳ này mang nặng tính chất quân sự, được bố trí theo hình thức phân ô, cứ 10 phường trở thành 1 bảo 堡, chuyên trách tuần tra, canh giữ và kiểm soát toàn bộ địa bàn Kinh Thành. VĂN HÓA - LỊCH SỬ 3Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 4 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 Theo ghi chép của sách Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí, Kinh Thành có tất cả 95 phường.(4) Địa phận các phường tương ứng với đồn canh, dinh trại đồn trú bảo vệ 24 pháo đài, bao quanh 4 phía vòng thành và khu vực Trấn Bình Đài ở góc đông bắc Kinh Thành (Bảng 1). Bảng 1: Tên gọi 95 phường Nội thành dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1840) STT Đơn vị quản lý Tên phường Tổng 1 Đồn Tả Dực (Từ Đài Nam Thắng đến điện Thanh Hòa) thuộc doanh Vũ (Võ) Lâm. Hiệu Trung, Ninh Mật, Đoan Hòa, Ngưng Hy, Trung Thuận, Nhân Hậu, Tích Thiện, Dưỡng Sinh, Phú Văn, Thận Cần, Nghĩa Tích. 11 2 Đồn Hữu Dực (Từ Đài Nam Thắng đến điện Thanh Hòa) thuộc doanh Vũ (Võ) Lâm. Huệ Cát, Thuận Cát, Lý Cát, Trinh Cát, Tĩnh Nhất, An Tĩnh, Nhuận Đức, Phước Tuy. 8 3 2 vệ doanh Tiền Phong (Từ đài Đông Trường qua Đông Gia, Đông Phụ đến nửa đài Đông Vĩnh). Đông Phúc, Minh Thiện, Hóa Thành, Vĩnh An, Thuận Bình và Nhân Tiệm. 6 4 5 vệ dinh Long Võ (Từ đài Đông Vĩnh, Đông Bình, Định Bắc đến đài Bắc Hòa). Nhân Cơ, Học Hải, Phong Doanh, Nhiêu Dụ, Chiêm Ân, Thường Dụ, Đa Lộc, Tuyền Thanh, Ân Thực, Hà Thanh, Ninh Viễn, Tứ Dịch. 12 5 5 vệ dinh Thần Cơ (Từ đài Nam Thắng, Nam Hùng, Nam Minh đến đài Tây Trinh). Tích Khánh, Túc Võ, Vệ Quốc, Nam Trị, Nam An, Nam Ninh, Nam Cường, Đại Hữu. 8 6 6 vệ dinh Hổ Uy (Từ đài Tây Trinh đến Tây An, Tây Dực). Khánh Mỹ, Tư Trung, Địch Cần, Quả Nghị, Phục Lễ, An Mỹ, Bảo Hòa, Quy Hậu, Bảo Cư, Vụ Bản, Ngưng Tích, Nam Thọ. 12 7 5 vệ dinh Hùng Nhuệ (Từ đài Tây Dực qua Tây Tĩnh, Tây Tuy đến đài Tây Thành). Bảo Ninh, Đại Hanh, Sư Trinh, Tốn Vũ, Đôn Hóa, Thuận Tắc, Long Bình, Gia Mỹ, Thừa Đức, Gia Cầm, An Lạc, Huân Đạo, Ân Trạch, Hậu Sinh, Mộc Đức, Xử Nhân, Do Nghĩa, An Tây. 18 8 10 vệ Ngũ Bảo (Từ đài Tây Thành qua các đài Bắc Điện, Bắc Thuận, Bắc Trung, Bắc Thanh đến Bắc Hòa). Linh Ứng, Phú Thứ, Hòa Thái, Ngưỡng Trị, Tây Lộc, Quy Thiện, Tây Ninh, Vô Uổng, Tây Thành, Hàm Thanh, Đại Đồng, Khang Ninh, Tráng Cố, Diềm Tĩnh, Bắc Trường, Ninh Bắc. 16 9 4 vệ Kỳ Võ (Quanh khu vực Trấn Bình Đài). Thừa Thiên, Tuyên Hóa, Định Bắc và An Bắc. 4 95 Trong giai đoạn thịnh trị của vương triều Nguyễn, hoạt động kiểm soát dân cư Nội thành được thực hiện rất quy củ. Cho đến nay, chúng ta chưa tìm thấy bất kỳ nguồn tư liệu nào để có thể xác định chính xác tổng số dân binh sinh sống trong thành lúc bấy giờ. Căn cứ vào quy định về định ngạch binh lính, theo tác giả Phan Thuận An, thì bấy giờ quân số mỗi vệ là 600 người,(5) và như vậy sẽ có ít nhất 28.200 người đồn trú thường xuyên trong Kinh Thành. Sang đến thời vua Tự Đức, theo ghi nhận của các sử quan nhà Nguyễn, dân số trong thành tăng lên nhanh chóng. Sự lớn mạnh của cộng đồng cư dân là một gánh nặng rất lớn đặt lên vai bộ máy quan lại Nha Hộ thành. Hàng loạt các vụ hỏa hoạn, trộm cắp, dân ẩn lậu, gây rối an ninh thường xuyên xảy ra.(6) Đứng trước tình hình đó, năm 1860, vua Tự Đức đặc chuẩn ban hành quy định “Chỉnh lý” khu vực Nội thành. Đợt điều chỉnh này với mục tiêu là tăng cường binh lính cho các doanh vệ tuần phòng, tra xét tất cả các phường trong thành, kê khai nhân khẩu, đồng thời lập bản đồ, ghi chú rõ ràng để tiện bề theo dõi, kiểm tra. Kết quả tổng số phường tăng thêm 13 đơn vị so với trước đó (Bảng 2).(7) Bảng 2: Hệ thống các phường Nội thành sau đợt điều chỉnh năm 1860 STT Đơn vị quản lý Tên phường Tổng 1 Doanh Vũ Lâm Hiệp Trung, Ninh Mật, Trung Thuận, Thụy Bản, Thuần Hựu, Vĩnh Trinh, Hòa Lạc, Nhơn Hậu, T ... ình phường Vĩnh An: số 109 Ngô Đức Kế, [9] Đình phường Tây Linh: số 57 đường Thánh Gióng. Một số đình phường như Huệ An, Thái Trạch vẫn còn giữ được phong cách kiến trúc nguyên ủy. Bên cạnh đó, hữu sự vô thường, trải qua biết bao biến động thời cuộc (thiên tai, chiến tranh) một số đình nay đã xuống cấp trầm trọng, duy nhất đình Thuận Cát thì đã biến mất hoàn toàn sau năm 1975. Dấu vết đình phường Thuận Cát hiện nay chính là cái am nhỏ nằm chơ vơ trong khuôn viên Trường Tiểu học Thuận Hòa (số 89 đường Nguyễn Trãi). 3.5. Sau ngày triều Nguyễn cáo chung, cùng với những biến động chính trị, địa danh, địa giới đô thị Huế liên tục được điều chỉnh.(30) Ngày 11 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định mở rộng thành phố Huế.(31) Kết quả đợt mở rộng này, 10 phường khu vực Nội thành sáp nhập thành 4 phường. Phường Thuận Hòa hợp thành từ ba phường cũ: Tri Vụ, Thuận Cát, Huệ An; phường Thuận Thành: Trung Tích, Trung Hậu, Thái Trạch; phường Thuận Lộc: Vĩnh An, Phú Nhơn, Tây Linh. Riêng phường Tây Lộc cơ bản địa giới được giữ nguyên và tồn tại cho đến ngày hôm nay. “Nhà có số, phố có tên”, quá trình đô thị hóa địa bàn Nội thành khởi phát từ những năm đầu của thế kỷ XX. Sau hơn 100 năm hình thành và phát triển, diện mạo đô thị nơi đây biến chuyển không ngừng, gắn liền với những bước thăng trầm của lịch sử vùng đất Thừa Thiên Huế. Những tên đất, tên phường ngày ấy dần phai mờ theo năm tháng, nhưng những bài học về việc quản lý đô thị Huế dưới thời Nguyễn ở khu vực Nội thành thiết nghĩ vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Đ M Đ Đình phường Trung Tích, đường Ông Ích Khiêm, Huế. 19Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 20 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 CHÚ THÍCH 1. Viện Sử học (2009), Cổ luật Việt Nam, Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí dịch chú, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 519 - 531. 2. Nội Các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Chính biên, tập III [Bộ Hộ, quyển 59, mục Thiên chuyển dân cư], bản dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 489. 3. “Xem xét kỹ thì Kinh Thành Huế chỉ là một thành quách rộng mênh mông, ở đó tập trung toàn bộ vương quyền: nơi vua ở, với những binh đội bảo vệ, những đội súng thần công, kho tàng, xưởng đúc súng và kho xưởng. Trong vòng thành thứ nhất, ngoại trừ một số tư thất của quan lại, người ta không thấy nhà người dân thường nào cũng như dịch vụ buôn bán gì bên trong, nếu có thì chỉ là những quán bán trà lá hay thực phẩm cho lính tráng và gia nhân quan lại. Người buôn bán kiểu này thường ở trong những căn nhà tạm bợ tồi tàn, bằng tre có mái rơm, thay vì làm đẹp thành phố thì chỉ làm thêm xốn mắt. Mọi dịch vụ buôn bán, mọi nghề nghiệp cũng như nhà cửa phú hộ đều nằm hết ở những thị trấn hay ngoại thành lân cận”. Michel Đức Chaigneau (2016), Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX qua hồi ức của Michel Đức Chaigneau, bản dịch của Lê Đức Quang, Trần Đình Hằng, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 214 - 215. 4. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 5, bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 121 - 122. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, bản dịch Hoàng Văn Lâu, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 81- 83. 5. Phan Thuận An (1999), Kinh thành Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 308. 6. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tục biên, tập X [quyển 60, Nha Hộ thành, mục Tuần tra và Lệnh cấm], bản dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 170 - 177. 7. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, sđd, tr. 162 - 163. 8. Nguyễn Quang Trung Tiến (1999), “Đơn vị hành chính Huế trước năm 1945”, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 35, tr. 38 - 39. 9. [1] Lần mở rộng đầu tiên được tiến hành sau khi tờ dụ của vua Thành Thái (công bố ngày 22/6/1903) được nghị định Toàn quyền Đông Dương chuẩn y vào ngày 3/7/1903. Đợt mở rộng này, người Pháp chỉ “mở thêm giới hạn ở phía Nam sông Hương, và sát nhập vào thị xã Huế các vùng sau lưng trường Quốc Học lên cầu Nam Giao, ngang dốc chùa Báo Quốc, ven sông Phủ Cam đến dốc Bến Ngự”. [2] Ngày 9/5/1908, vua Duy Tân xuống dụ và Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y vào ngày 24/7/1908 cho phép mở rộng địa hạt Huế lần thứ 2. Theo đó, sẽ có tất cả là 7 phường thuộc phía bắc Sông Hương: phường Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Đệ Ngũ, Đệ Lục, Đệ Thất và 1 phường: Đệ Bát, thuộc hữu ngạn Hương Giang. Có thể nói đợt điều chỉnh này có quy mô rất lớn, đất đai của nhiều làng xã chính thức sáp nhập và “hành chính hóa” nội thuộc địa hạt thị xã Huế . [3] Đợt mở rộng, điều chỉnh thứ ba diễn ra dưới thời vua Khải Định. Vào ngày 4/11/1921, vị vua thứ 12 triều Nguyễn xuống dụ phân định lại ranh giới của thị xã Huế và hơn một năm sau đó, ngày 25/12/1922 Toàn quyền Đông Dương quyết định chuẩn y. Kết quả đợt này danh xưng “Phường Đệ Cửu” (giới hạn của phường kể từ khu vực miếu Lịch Đợi Đế Vương, bao quanh nhà Ga Huế, qua đến cầu Dã Viên) chính thức ra đời. 10. Nguyễn Quang Trung Tiến (2005), “Cuộc tiến công quân Pháp ở Kinh đô Huế, 5/7/1885”, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 69, tr. 74. 11. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, sđd, tr. 176 - 178. 12. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục chính biên, Đệ lục kỷ phụ biên, bản dịch Cao Tự Thanh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 581. 13. Nguyên văn: “L’intérieur de la Citadelle, c’est-à-dire toute la partie ressor tissant à l’Administration annamite, et non compris la Concession et le Mang-Ca, est divisé actuellement en 10 Phường 坊”. L. Cadière (1933), “La Citadelle de Hué: Onomastique”, Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH), tr. 74. 14. Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2013), Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần Dân cư và Hành chính, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 307. 15. Trong bài khảo cứu này, việc xác định địa giới giữa các phường chúng tôi tham khảo dựa trên những mô tả của Linh mục L. Cadière. Công trình dài hơi và tỉ mỉ này được tác giả đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Huế, vào năm 1933 dưới nhan đề “La Citadelle de Hué: Onomastique”, (Xin xem thêm Kinh thành Huế, Địa danh học, bản dịch Hà Xuân Liêm, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 111 - 188). Bên cạnh đó, nguồn tư liệu được chúng tôi đối chiếu chính là hệ thống các bản đồ do người Pháp lẫn người Việt đo vẽ trong khoảng thời gian từ những năm 1885 đến 1943. Đơn cử như bản đồ “Plan de la Citadelle de Hué. Fourni par le Hộ - thành”, ký hiệu XXII, do ông Nguyễn Thứ vẽ. Ngoài ra những ghi chép về các nha sở, dinh thự, đền miếu của sử quan nhà Nguyễn trong bộ Đại Nam nhất thống chí (bản in thời Duy Tân), bản đồ Kinh Thành Huế, hệ thống địa bạ, các cột mốc phân giới giữa các phường hiện tồn cũng là nguồn tư liệu đáng tin cậy. 16. Nguyên văn: “Le quartier de Tay-Loc est limité, à l’Ouest et au Nord par les murailles de la Citadelle, au Sud par le Canal Impérial, à l’Est parle Canal Impérial et une ligne prolongeant ce Canal jusqu’à la muraille Nord de la Citadelle”. L. Cadière (1933), “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 75. 17. Trong bài viết này, chúng tôi xin được lược qua một số di tích tiêu biểu từng tồn tại trên địa phận của mỗi phường. Bước đầu tìm hiểu, bên cạnh một số di tích hiện vẫn còn tồn tại như đàn Xã Tắc, điện Long An..., số khác đã có sự chuyển đổi công năng sử dụng, song phần lớn các công trình do nhiều lý do khác nhau đã bị triệt giải hoàn toàn. Do điều kiện và khuôn khổ bài viết chúng tôi chỉ dừng lại ở việc thống kê. 18. Xin xem thêm Thái Văn Kiểm (1994), Cố đô Huế, Di tích - Lịch sử - Thắng cảnh, Nxb Đà Nẵng, tr. 31 - 39. 19. Trong nhiều công trình nghiên cứu, bản đồ của các học giả nước ngoài khi viết về Kinh Thành Huế thường xuất hiện các danh xưng như: Vọng Lâu IV, Vọng Lâu V Vọng Lâu là cách gọi khác của người phương Tây về 10 cửa thành của Kinh Thành Huế, được tính theo đơn vị số đếm, bắt đầu từ Chánh Bắc Môn đến Đông Bắc Môn, theo chiều ngược của kim đồng hồ: Chánh Bắc Môn / Vọng Lâu I (tục gọi là Cửa Hậu); Tây Bắc Môn / Vọng Lâu II (cửa An Hòa); Chánh Tây Môn / Vọng Lâu III; Tây Nam Môn / Vọng Lâu IV (Cửa Hữu); Chánh Nam Môn / Vọng Lâu V (cửa Nhà Đồ); Quảng Đức Môn / Vọng Lâu VI; Thể Nhơn Môn / Vọng Lâu VII (Cửa Ngăn); Đông Nam Môn/ Vọng Lâu VIII (cửa Thượng Tứ); Chánh Đông Môn / Vọng Lâu IX (cửa Đông Ba); Đông Bắc Môn / Vọng Lâu X (cửa Kẻ Trài). 21Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 20. [Nguyên văn] “Ce quartier est limité à l’Ouest par le rempart de la Citadelle; au Nord par le Canal Impérial; au Sud par la voie qui aboutit à la Porte Tây-Nam, Mirador IV, et qui le sépare du quartier de Thuan-Cat; à l’Est par le quartier Hue-An, les deux quartiers étant réparés par la grande voie qui va de la Porte Chanh-Nam, Mirador V, à la porte Tay-Bac, ou Mirador II”. Xin xem thêm, L. Cadière (1933), “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 100. 21. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”, sđd, tr. 71 - 80. L. Cadière, “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 114 - 117. 22. L. Cadière, “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 109. 23. L. Cadière, “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 99. 24. Hồ Vĩnh (1995), “Tìm hiểu phường xưa Nội Thành Huế: Phường Phú Nhơn”, in trong Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 09.1995, tr. 89. 25. L. Cadière, “La Citadelle de Hué: Onomastique”, bđd, tr. 107. 26. Phan Thanh Hải (2003), “Quy hoạch nhà phố trong Kinh thành có từ bao giờ”, in trong Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 216 - 220. 27. Cũng cần nói thêm rằng, dưới thời nhà Nguyễn, Lý trưởng là người quản lý cấp xã, bắt đầu từ năm 1828 trở đi chức danh này được thay thế Xã trưởng. 28. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Đệ lục kỷ phụ biên, sđd, tr. 582. 29. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Đệ lục kỷ phụ biên, sđd, tr. 582. 30. Ngày 21/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 77, đặt Huế là thành phố trực thuộc Trung Kỳ. Toàn bộ thành phố Huế chia thành 8 khu phố. Trong đó, khu vực I và II bao gồm toàn bộ địa bàn Thành Nội. Đến năm 1947, Huế được phân chia thành 3 quận và 8 khu phố. Địa bàn Thành Nội thuộc về Quận 1. Sau ngày tái chiếm Đông Dương, thực dân Pháp tiếp tục điều chỉnh các đơn vị hành chính. Ngày 21/5/1947, Hội đồng Chấp chính lâm thời Trung Kỳ ra Nghị định số 84-NĐ thiết lập 3 Nha Bang tá ở thành phố Huế. Nha Bang tá Thành Nội tiếp tục quản lý địa phận 10 phường thuộc nội vi Kinh Thành. Sau Hiệp định Genève [1954], thể theo Nghị định số 2058-ND/PC ký ngày 23/10/1956, đô thị Huế chia thành 3 quận. Trong đó, quận Thành Nội gồm các phường: Tây Lộc, Tri Vụ, Thuận Cát, Huệ An, Trung Tích, Tây Linh, Thái Trạch, Phú Nhơn, Vĩnh An và Trung Hậu. Hơn 10 năm sau, chính quyền miền Nam ban hành Nghị định số 1455-NĐ/ ĐUHC (ký ngày 19/6/1967) để điều chỉnh địa phận Huế. Đúng một năm sau, ngày 4/8/1968, chính quyền Sài Gòn ra Nghị định số 319/BNV/NC/19 quy định thị xã Huế gồm 10 khu phố, 22 khóm và 11 vạn trực thuộc ba quận. Khu vực Thành Nội thuộc Quận Nhất gồm có 3 khu phố. Khu phố Thuận Hòa gồm các khóm: Tây Lộc, Tri Vụ, Huệ An, Thuận Cát. Khu phố Thuận Thành gồm 4 khóm: Thái Trạch, Trung Tích, Trung Hậu và Đại Nội. Khu phố Thuận Lộc: Tây Linh, Phú Nhơn và Vĩnh An. Vào khoảng năm 1973, dân số của địa bàn Quận Nhất gồm 69.448 người. Xin xem thêm: Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần Dân cư và Hành chính, sđd, tr. 359. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới hành chính, 1945 - 2002, Nxb Thông tấn, tr. 155. Phạm Xuân Thạch (2005), Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính ở Thừa Thiên Huế từ 1945 đến 2002, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Đại học Huế, tr. 18. 22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 23Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 31. Nguyễn Quang Trung Tiến (Chủ nhiệm đề tài), Biến đổi văn hóa xã hội và đời sống đô thị trong quá trình đô thị hóa ở Huế, 1975 - 2012, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở Đại học Huế, 2016, tr. 42. Dương Phước Thu (2005), Qua sông nhìn lại bến bờ, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 154. TÓM TẮT Chính thức được quy hoạch dưới thời vua Gia Long, Kinh Thành Huế được xem là biểu trưng quyền lực của vương triều Nguyễn. “Phường” trong Kinh Thành Huế trước thời điểm tu chỉnh dưới thời vua Duy Tân là dạng đơn vị hành chính đặc biệt, đây là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất quan lại và phủ đệ của các ông hoàng bà chúa. Những năm đầu thế kỷ XX, vua Duy Tân ban hành các quy định nhằm điều chỉnh lại toàn bộ địa giới các phường ở khu vực Kinh Thành. Đây là đợt điều chỉnh có ý nghĩa rất quan trọng, làm thay đổi toàn bộ diện mạo, dân cư, diện tích các phường khu vực Thành Nội. Thông qua một số nguồn tư liệu, bài viết góp phần xác định rõ ranh giới 10 phường nội thuộc Kinh Thành Huế dưới thời Nguyễn. ABSTRACT INITIAL DEFINITION OF THE ADMINISTRATIVE BOUNDARY OF SOME WARDS INSIDE HUE IMPERIAL CITADEL (FROM EARLY 20TH CENTURY TO 1945) Officially planned under the reign of Emperor Gia Long, Huế Imperial Citadel is considered the symbol of the power of the Nguyễn dynasty. The toponym of “Precinct” in the Imperial Citadel of Huế before the under the reign of Emperor Duy Tân, it was a special administrative unit where the administrative offices, military camps and workshops, residences of princes and princesses was located. In the early twentieth century, Emperor Duy Tân issued regulations to rearrange the entire boundary of the royal citadel. This is a significant renewal which changed the entire the population and area within the zone of the Citadel. Through a number of sources, the article helps to make clear the boundaries of 10 inner wards of the Huế Imperial Citadel under the Nguyễn dynasty.
File đính kèm:
- buoc_dau_xac_dinh_dia_gioi_hanh_chinh_mot_so_phuong_thuoc_no.pdf