Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh)

Sài Gòn-TP.HCM và di sản đô thị còn tồn tại, bên cạnh là

động lực cho sự phát triển kinh tế địa phương còn là nơi lưu giữ

ký ức của nhiều thế hệ đóng vai trò gắn kết cộng đồng. Tuy vậy,

trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang gia tăng, nguy cơ các di sản

bị tàn phá ở tầm mức đáng báo động. Bài viết tiếp cận bảo tồn ở

góc độ thích ứng cho thấy việc nhận thức tầm quan trọng của

thích ứng và xây dựng đô thị thích ứng có thể mang đến những

triển vọng to lớn cho công tác bảo tồn, hướng đến phát triển bền

vững đô thị

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 1

Trang 1

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 2

Trang 2

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 3

Trang 3

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 4

Trang 4

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 5

Trang 5

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh) trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 9320
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh)

Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng (Điển cứu trường hợp Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh)
 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 15 
Bảo tồn di sản đô thị: Tiếp cận từ thích ứng 
(Điển cứu trường hợp Sài Gòn – TP.Hồ Chí Minh) 
Dương Trường Phúc1* 
1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-TP. Hồ Chí Minh 
*Tác giả liên hệ, Email: duongtruongphuc@gmail.com 
THÔNG TIN TÓM TẮT 
Ngày nhận: 25/05/2020 
Ngày nhận lại: 21/07/2020 
Duyệt đăng: 23/08/2020 
Từ khóa: 
di sản đô thị, đô thị thích ứng, 
thích ứng biến đổi khí hậu 
Keywords: 
urban heritage, urban 
adaptation, climate change 
adaptation 
Sài Gòn-TP.HCM và di sản đô thị còn tồn tại, bên cạnh là 
động lực cho sự phát triển kinh tế địa phương còn là nơi lưu giữ 
ký ức của nhiều thế hệ đóng vai trò gắn kết cộng đồng. Tuy vậy, 
trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang gia tăng, nguy cơ các di sản 
bị tàn phá ở tầm mức đáng báo động. Bài viết tiếp cận bảo tồn ở 
góc độ thích ứng cho thấy việc nhận thức tầm quan trọng của 
thích ứng và xây dựng đô thị thích ứng có thể mang đến những 
triển vọng to lớn cho công tác bảo tồn, hướng đến phát triển bền 
vững đô thị. 
ABSTRACT 
Saigon-Ho Chi Minh City and urban heritage still exist, 
besides being the motivation for local economic development, it 
is also a place to keep the memories of many generations that 
play a role in connecting the community. However, in the context 
of climate change, the risk of heritage is devastated at an 
alarming level. The paper, which adaptation-based approach on 
preservation, showed that recognizing the importance of 
adapting and building an urban adaptation can bring great 
prospects for heritage preservation, towards urban sustainable 
development. 
1. Giới thiệu 
Đô thị là hình thái tổ chức xã hội tiêu biểu của nhiều quốc gia với mức độ tập trung cao về 
dân cư và hoạt động sản xuất quan trọng (Sassen, 2018). Có thể xem đô thị như hệ thống với các 
tiến trình khác nhau, trong đó nổi bật là hoạt động sáng tạo văn hóa của các thị dân đã tạo ra hệ 
thống các di sản (vật thể và phi vật thể). Những di sản đó, tồn tại và phát triển trong không gian 
đô thị nên được gọi là di sản đô thị. Di sản là nguồn sống và nguồn cảm hứng không thể thay thế, 
là tài sản kế thừa của nhân loại từ quá khứ, sống với chúng ta trong hiện tại và sẽ truyền lại cho 
các thế hệ tương lai (UNESCO, 2007). 
Sài Gòn-TP.HCM có lịch sử phát triển hơn 300 năm, trong quá khứ là “Hòn ngọc Viễn 
Đông” và ngày nay là “Trung tâm kinh tế-văn hóa-xã hội” lớn nhất cả nước. Trong suốt quá trình 
hình thành và phát triển đó, không thể nói một cách khiêm tốn về di sản đô thị Sài Gòn cả về vật 
 16 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 
thể và phi vật thể, đặc biệt là di sản thời Pháp thuộc nằm rải rác các quận trung tâm như Quận 1, 
Quận 3, Quận 5 phối nhuyễn với cảnh quan sông, hồ, công trình hiện đại, hoạt động của thị dân 
đã tạo nên nét khác biệt so với những đô thị trong khu vực Đông Nam Á. Tuy vậy, những thực tế 
không mong muốn đối với sự tồn tại của di sản đã và đang diễn ra. Bên cạnh làn sóng thương mại 
hóa bất động sản gay gắt như hiện nay, những di sản này còn phải đối mặt với thách thức từ biến 
đổi khí hậu khiến cho công tác bảo tồn gặp nhiều khó khăn và hơn hết không thể dự báo đầy đủ 
tác động và ước lượng đầy đủ thiệt hại của biến đổi khí hậu. 
Di sản đô thị chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu nhưng các hoạt động giảm 
thiểu tác động lại ít được triển khai. Chính sự hiểu biết còn ít về thích ứng đối với biến đối khí hậu 
đã trở thành rào cản trong bảo tồn di sản đô thị. Biến đổi khí hậu-vấn đề toàn cầu trong khi bảo 
tồn di sản đô thị-vấn đề địa phương phản ánh sự cần thiết về cách tiếp cận mới trong các hoạt động 
bảo tồn và bảo vệ di sản dưới tác động của biến đổi khí hậu với sự chuyển giao và chia sẻ kinh 
nghiệm ở mức độ toàn cầu và sự tham gia hợp tác đa ngành của tất cả các bên liên quan ở mức độ 
địa phương (UNESCO, 2007). Do đó, để giữ vững “di sản thương hiệu” của một đô thị hàng đầu, 
việc quản trị đô thị cần có chiến lược thích hợp bao gồm các việc thích ứng và ứng phó với những 
căng thẳng từ bên ngoài và cấu trúc phát triển bên trong. 
2. Biến đổi khí hậu: Thách thức cho bảo tồn di sản đô thị 
2.1. Bảo tồn di sản đô thị 
Di sản đô thị bao gồm các công trình mang tính tượng đài, các kiến trúc thông thường, di 
sản thiên nhiên, di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) được tạo ra trong quá trình hình thành và 
phát triển đô thị theo một chỉnh thể thống nhất mang dấu ấn của một giai đoạn lịch sử. Đây là dạng 
di sản phức hợp, quý giá và luôn không ngừng phát triển bởi tính nhị nguyên khi vừa là sản phẩm 
của sáng tạo văn hóa vừa là môi trường để sáng tạo văn hóa. Di sản đô thị có giá trị lịch sử-văn 
hóa, thành tạo bản sắc và thương hiệu của một đô thị. Do đó, gắn di sản với phát triển đô thị mở 
ra những triển vọng phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và quốc gia. 
Trong diễn thế văn hóa của một quốc gia nói chung và đô thị nói riêng, di sản đô thị đóng 
vai trò kết nối liên thế hệ và nền tảng để sáng tạo những giá trị mới và tiếp biến văn hóa (Quang 
Minh and Nguyen, 2012). Tuy vậy, trong bối cảnh hiện đại, tồn tại nhiều thách thức cho việc bảo 
tồn di sản đô thị ở những tầm mức khác nhau như hội nhập và toàn cầu hóa; biến đổi khí hậu; đô 
thị hóa Những thách thức này dẫn đến những hệ quả không mong muốn về việc bảo tồn di sản 
đô thị và đòi hỏi những nỗ lực nhiều hơn trong công tác bảo tồn, bảo tàng. 
Bảo tồn di sản về bản chất là xác lập phương thức dung hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và 
phát triển. Bảo tồn không có nghĩa là giữ nguyên các công trình và ngừng các hoạt động của khu 
vực dân cư để biến thành bảo tàng, mà ngược lại có thể là một động thái đa mục tiêu như nỗ lực 
tôn tạo, tái sử dụng và phát triển đồng thời bảo tồn những giá trị văn hóa của di sản, đảm bảo khu 
vực di sản hòa hợp với nhu cầu của dân cư và các hoạt động kinh tế. Việc bảo tồn dựa vào bối 
cảnh của di sản là cần thiết để duy trì cấu trúc vật chất của di sản ở một mặt, và đồng thời cải tạo, 
tái sử dụng, thích ứng các giá trị vật thể và phi vật thể của di sản vào dòng chảy văn hóa. Định giá 
trị di sản đô thị bằng phương pháp Tổng giá trị kinh tế (Total economic value) cho thấy những di 
sản này ngoài mang giá trị lịch sử-văn hóa còn mang giá trị kinh tế có thể ước lượng thành tiền. 
Việc lượng hóa bằng tiền tệ đối với di sản nhằm mục đích nhấn mạnh tầm quan trọng của nhóm 
di sản này và thúc đẩy ý thức, niềm tin về công tác bảo tồn. 
2.2. Mối nguy từ biến đổi khí hậu 
Biến đổi khí hậu chính là thách thức lớn nhất cho sự phát triển trong thế kỷ XXI bởi những 
tác động tiềm tàng trên nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội (WEF, 2018). 
 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 17 
Các mối đe dọa dựa trên biến đổi khí hậu (climate change-based threat) đối với di sản văn hóa có 
thể gây thiệt hại lớn về ký ức văn hóa của nhân loại và ngày càng được công nhận là mối đe dọa 
đối với xã hội (Harvey & Perry, 2015). Đây là điều chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại và những 
ý nghĩa thiết thực của di sản như hình thành bản sắc cộng đồng, phát triển du lịch văn hóa có thể 
bị đánh mất (Scott, Hall, & Gössling, 2016). 
Sự biến thiên nhiệt độ giữa ngày và đêm do sự mất cân bằng trong phân phối hơi nước và 
ẩm độ không khí có thể gây ra những rạn nứt, co giãn vì nhiệt của các công trình, bảo tàng. Sự 
tăng giảm bất thường của lượng mưa có thể gây ra khô hạn dẫn đến hỏa hoạn, co ngót công trình 
hay gây ra ngập lụt cuốn trôi, sạt lở, xói mòn các di tích. Cộng hưởng giữa thay đổi chế độ nhiệt, 
chế độ mưa cùng sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra tổn thương đối với di sản 
dẫn đến tốc độ xuống cấp, lụi tàn nhanh hơn. Điều này cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận 
trong phiên họp lần thứ 29 tại Paris của Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO, 2007). 
Biến đổi khí hậu còn làm tình trạng ô nhiễm không khí và nguồn nước thêm trầm trọng 
làm giảm giá trị các di tích, có thể làm gia tăng sự phát triển nấm mốc, côn trùng gây hại cho công 
trình. Ngoài ra, biến đổi khí hậu có thể làm cư dân địa phương gặp thêm khó khăn trong sinh kế 
và cư trú dẫn đến các dòng di dân khiến các đặc điểm văn hoá phi vật thể bị biến dạng và pha trộn, 
thậm chí có thể bị mai một và tiêu vong (Le, 2012). 
3. Giải pháp nào cho bảo tồn di sản đô thị trong bối cảnh biến đổi khí hậu? 
3.1. Thích ứng với biến đổi khí hậu 
Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã đặt ra yêu cầu giải 
quyết cả hai vấn đề giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo truyền thống, giảm thiểu 
đã được chú ý nhiều hơn trong nghiên cứu và chính sách biến đổi khí hậu hơn là thích ứng. Tuy 
nhiên, đã có sự quan tâm ngày càng tăng đối với nghiên cứu thích ứng từ cuối những năm 1990 
bên cạnh những nỗ lực đáng kể thúc đẩy các chiến lược giảm thiểu tác động do sự thừa nhận rằng 
khí hậu đã thay đổi và việc thích ứng với các tác động đã không thể tránh khỏi là rất quan trọng 
(Galderisi, 2014). 
Những lựa chọn trước thay đổi môi trường rất quan trọng đối với một cộng đồng/một hệ 
thống. Thích ứng cũng được xem là một lựa chọn phản hồi quan trọng (Kane & Shogren, 2000). 
Do đó, thích ứng được xem như những điều chỉnh trong hành vi và các đặc tính của hệ thống làm 
tăng khả năng đối phó với căng thẳng bên ngoài và việc phát triển các chiến lược thích ứng theo 
kế hoạch để đối phó với những rủi ro được coi là bổ sung cần thiết cho các hoạt động giảm nhẹ 
tổn thương (Brooks, 2003). 
Trọng tâm của sự thích ứng ở đô thị bắt nguồn từ nhận thức ngày càng tăng về tác động 
của biến đổi khí hậu sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở khu vực này do sự tập trung cao về con người và 
tài sản (Brugmann, 2012). Đồng thời, độ phơi nhiễm cao của hạ tầng đô thị (bao gồm cả những 
công trình di sản) với sự thay đổi về mô hình mưa, độ ẩm và nhiệt độ, cũng như các sự kiện thời 
tiết khắc nghiệt đã dẫn đến nhu cầu thích ứng của di sản đô thị với biến đổi khí hậu. 
3.2. Đô thị thích ứng: triển vọng về bảo tồn di sản đô thị 
Biến đổi khí hậu với những bất trắc không thể đoán trước đặt ra thách thức trong việc xác 
định đầy đủ các tác động tiềm tàng đối với di sản đô thị nói riêng và công trình đô thị nói chung, 
phát triển các giải pháp thích ứng, đảm bảo nguồn lực để tài trợ cho các hoạt động thích ứng. Sự 
bất trắc này cũng làm cho những đánh đổi trong các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn đối với quy 
hoạch đô thị trở nên phức tạp. Do vậy, các giải pháp thích ứng có hiệu quả rất được mong đợi và 
cân nhắc về các tác động tiềm tàng của biến đối khí hậu là điều tối quan trọng, phải được tích hợp 
 18 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 
trong các viễn cảnh quy hoạch hiện nay (Bollinger et al., 2014). 
Đô thị hóa đã làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ giữa xã hội và môi trường, và ảnh hưởng 
đến tính bền vững và khả năng phục hồi của các thành phố theo những cách phức tạp với tốc độ 
đáng báo động (Romero-Lankao, Gnatz, Wilhelmi, & Hayden, 2016). Trong những thập kỷ qua, 
tính bền vững, tổn thương, thích ứng và khả năng phục hồi đã trở thành những khái niệm chính 
nhằm tìm hiểu động lực đô thị hiện tại và đáp ứng một loạt các thách thức hiện ra do đô thị hóa và 
thay đổi môi trường (Pelling, 2010). 
Đô thị thích ứng (urban adaptation) là khả năng thay đổi trong quy trình, thông lệ, hoặc 
cấu trúc của đô thị nhằm giảm nhẹ hoặc bù đắp các thiệt hại tiềm ẩn hoặc tận dụng các cơ hội liên 
quan đến tổn thương (Smit & Pilifosova, 2003). Phát triển đô thị thích ứng là thiết kế, xây dựng 
và phát triển liên tục của các khu vực đô thị để dự đoán và phản ứng với những thay đổi trong môi 
trường và xã hội. Những thay đổi này bao gồm cả các quy trình trong chính thành phố và các phát 
triển bên ngoài (Graaf, 2012). Việc thích ứng bao gồm bốn thành phần chính (1) đặc điểm của mối 
nguy, (2) đặc điểm của hệ thống, (3) các cấp độ thích ứng và (4) phản ứng thích ứng (Bryant et 
al., 2000). Thảo luận về các giới hạn về thích ứng thường được xây dựng trên ba khía cạnh: giới 
hạn về sinh lý, giới hạn về kinh tế và giới hạn về công nghệ (Adger et al., 2009). 
Các đô thị có khả năng thích ứng rất khác nhau, trong đó đô thị ở các nước đang phát triển 
có mức độ thích ứng thấp hơn. Nguyên nhân là do có sự khác biệt ở tầm quản lý, các tổ chức xã 
hội, công nghệ, sự giàu có và chiến lược phát triển của những đô thị đó. Vì vậy, khả năng thích 
ứng tăng lên khi các đô thị có nhiều khả năng phục hồi và giảm xuống khi các đô thị dễ bị tổn 
thương (Folke, Carpenter, Elmqvist, & Gunderson, 2002). 
Từ bằng chứng Nam Bộ là khu vực có mức độ tổn thương cao với biến đổi khí hậu (Yusuf 
& Francisco, 2009, 2010) và TP.HCM nằm trong danh sách 10 thành phố dễ tổn thương nhất 
(Stern, 2008) thì việc thay đổi cách tiếp cận trong phát triển đô thị cũng rất quan trọng. Nhiều 
chiến lược và giải pháp thích ứng được nêu ra trong các cuộc thảo luận về phát triển đô thị thường 
đề cập đến khía cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và đáp ứng các dịch vụ đô thị nhằm hỗ trợ thị dân có 
nguồn lực để thích ứng với những thay đổi bên ngoài. Song, việc nhận thức lại cách tiếp cận đô 
thị với tư cách phát triển vùng có thể gián tiếp hỗ trợ đô thị thích ứng tốt hơn trong tương lai và 
mang đến nhiều triển vọng về bảo tồn di sản đô thị. 
4. Kết luận 
Sài Gòn-TP.HCM là đô thị mang đậm bản sắc trong khu vực Đông Nam Á nhờ vào hệ 
thống di sản từ thời Pháp thuộc, các trục di sản phối với cảnh quan sông nước tạo nên không gian 
đô thị thật sự khác biệt. Bên bên cạnh là động lực cho phát triển kinh tế quốc gia, di sản đô thị còn 
lưu giữ ký ức của nhiều thế hệ. Tuy vậy trong thế kỷ này, những di sản đó đang phải đối mặt với 
những thách thức cho phát triển liên quan đến biến đổi khí hậu. Một trong những rào cản của việc 
bảo tồn kém hiệu quả là nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của thích ứng với biến đổi khí 
hậu. Trên cơ sở đó, việc phát triển đô thị thích ứng mang đến những triển vọng cho công tác bảo 
tồn, lồng ghép những vấn đề toàn cầu với nhiệm vụ địa phương trong các bên liên quan hướng đến 
bảo tồn bền vững di sản đô thị. 
 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 19 
Tài liệu tham khảo 
Adger, N. W., Dessai, S.,Goulden, M.,Wreford, A. (2009). Are there social limits to adaptation 
to climate change?, Climatic Change. Springer, 93(3/4), 335-354. doi:10.1007/s10584-008-
9520-z 
Bollinger, L. A., Bogmans, C. W. J., Chappin, E. J. L., Tavasszy, L. A. (2014). Climate 
adaptation of interconnected infrastructures: A framework for supporting governance. 
Regional Environmental Change, 14(3), 919-931. 
Brooks, N. (2003). Vulnerability, risk and adaptation: A conceptual framework (Tyndall Centre 
Working Paper, No. 38). Norwich, UK: Tyndall Centre for Climate Change Research, 
University of East Anglia. 
Brugmann, J. (2012). Financing the resilient city. Environment and Urbanization, 24(1), 215-232. 
doi:10.1177/0956247812437130 
Bryant, C. R., Smit, B., Brklacich, M.,  Singh, B. (2000). Adaptation in Canadian agriculture to 
climatic variability and change. Climate Change, 45(1), 181-201. 
Folke, C., Carpenter, S., Elmqvist, T., & Gunderson, L. H. (2002). Resilience and sustainable 
development: Building adaptive capacity in a world of transformations. AMBIO: A Journal 
of The Human Environment, 31(5), 437-440. 
Galderisi, A. (2014). Adapting cities for a changing climate: An integrated approach for 
sustainable urban development. WIT Transactions on Ecology and the Environment, 191, 
549-560. 
Graaf, D. R. (2012) Adaptive urban development: A symbiosis between cities on land and water 
in the 21st century. Holland, Netherlands: Rotterdam University Press. 
Harvey, D., & Perry, J. (2015). The future of heritage as climates change: Loss, adaptation and 
creativity. London, UK: Routledge. 
Kane, S., & Shogren, J. F. (2000) Linking adaptation and mitigation in climate change policy. 
Climate Change, 45(1), 75-102. doi:10.1007/978-94-017-3010-5_6 
Le, T. A. (2012). Tác động của biến đổi khí hậu lên di sản văn hoá và bảo tàng ở lưu vực sông 
Mekong [Impacts of climate change to the cultural heritages and museums in the Mekong 
River basin]. Paper presented at Hội thảo Quốc tế: “Bảo Tàng với Di Sản Văn Hóa ở Lưu 
Vực Sông Mê Kông và Sông Hằng Trong Bối Cảnh Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu”, Huế. 
Pelling, M. (2010). Adaptation to climate change: From resilience to transformation. London, 
UK: Routledge. 
Quang Minh & Nguyen, T. T. T. (2012). Vai trò của cộng đồng nhìn từ góc độ bảo tồn di sản văn 
hóa [The role of the community from the perspective of cultural heritage conservation]. Tạp 
chí Di sản văn hóa, 4(41), 18-23. 
Romero-Lankao, P., Gnatz, D. M., Wilhelmi, O., & Hayden, M. (2016). Urban sustainability and 
resilience: From theory to practice. Sustainability, 8(12), 12-24. doi:10.3390/su8121224 
Sassen, S. (2018). Cities in a world economy. New York, NY: Sage Publications. 
Scott, D., Hall, C. M., & Gössling, S. (2016). A report on the Paris climate change agreement and 
its implications for tourism: Why we will always have Paris? Journal of Sustainable 
Tourism, 24(7), 933-984. 
 20 Dương Trường Phúc. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 15-20 
Smit, B., & Pilifosova, O. (2003). Adaptation to climate change in the context of sustainable 
development and equity. Sustainable Development, 8(9), 1-9. 
Stern, N. (2008). The economics of climate change. American Economic Review, 98(2), 1-37. 
UNESCO. (2007). Climate change and world heritage: Report on predicting and managing the 
impacts of climate change on World Heritage and Strategy to assist States Parties to 
implement appropriate management responses. Paris, France: UNESCO World Heritage. 
WEF. (2018). The global risks report 2018. Geneva, Sweeden: World Economic Forum. 
Yusuf, A. A., & Francisco, H. (2009). Climate change vulnerability mapping for southeast Asia. 
Singapore: Economy and Environment Program for Southeast Asia (EEPSEA). 
Yusuf, A. A., & Francisco, H. (2010). Hotspots! Mapping climate change vulnerability in 
Southeast Asia. Singapore: Economy and Environment Program for Southeast Asia 
(EEPSEA). 

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_di_san_do_thi_tiep_can_tu_thich_ung_dien_cuu_truong.pdf