Tóm tắt Luận án Nghiên cứu xu hướng nhập khẩu thuốc và một số yếu tố ảnh hưởng giai đoạn 2006 - 2014
Nhu cầu sử dụng thuốc của Việt Nam ngày càng tăng cao, tiền
thuốc bình quân đầu người tăng gần 6 lần sau 15 năm từ 2000-2014,
trong khi đó, công nghiệp dược trong nước mới chỉ chiếm 45% trong
tổng chi phí thuốc và đang có xu hướng bị thay thế bởi thuốc nhập
khẩu do năng lực cạnh tranh kém, thể hiện sự trùng lắp về dạng bào
chế và các nhóm thuốc, không tận dụng hết năng lực sản xuất nhà
máy. Sự phụ thuộc của ngành Dược vào thuốc nhập khẩu là một
trong những nguyên nhân khiến cho chi phí tiền thuốc bình quân trên
đầu người trong tổng chi y tế của Việt Nam năm 2009 ở mức cao gần
2 lần so với trung bình của các quốc gia Châu Á và cao trên 3 lần so
với trung bình của các quốc gia châu Âu.
Để giảm gánh nặng của chi tiêu cho thuốc, Bộ Y tế luôn luôn
nhấn mạnh mục đích của việc nhập khẩu là nhập khẩu bổ sung các
thuốc trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa
đáp ứng đủ nhu cầu điều trị (nhập khẩu bổ sung) và nhập khẩu thay
thế các thuốc sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu (nhập
khẩu thay thế). Để đạt được mục tiêu này, cần phải có các bằng
chứng rõ ràng để hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách trong việc
xây dựng các chính sách nhằm điều tiết hoạt động nhập khẩu thuốc.
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
1. Phân tích xu hướng nhập khẩu thuốc vào Việt Nam giai đoạn
2006-2014.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng nhập khẩu
thuốc vào Việt Nam giai đoạn 2006-2014
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu xu hướng nhập khẩu thuốc và một số yếu tố ảnh hưởng giai đoạn 2006 - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI Chu Quốc Thịnh NGHIÊN CỨU XU HƯỚNG NHẬP KHẨU THUỐC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG GIAI ĐOẠN 2006-2014 CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƯỢC MÃ SỐ: 62.72.04.12 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC Hà Nội, năm 2017 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Dược Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Quốc Cường PGS. TS. Nguyễn Thị Thái Hằng Phản biện 1: .. .. Phản biện 2: .. .. Phản biện 3: .. .. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá cấp Trường họp tại . vào hồi .....giờ..ngày.thángnăm Có thể tìm hiểu thêm tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện Trường Đại học Dược HN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nhu cầu sử dụng thuốc của Việt Nam ngày càng tăng cao, tiền thuốc bình quân đầu người tăng gần 6 lần sau 15 năm từ 2000-2014, trong khi đó, công nghiệp dược trong nước mới chỉ chiếm 45% trong tổng chi phí thuốc và đang có xu hướng bị thay thế bởi thuốc nhập khẩu do năng lực cạnh tranh kém, thể hiện sự trùng lắp về dạng bào chế và các nhóm thuốc, không tận dụng hết năng lực sản xuất nhà máy. Sự phụ thuộc của ngành Dược vào thuốc nhập khẩu là một trong những nguyên nhân khiến cho chi phí tiền thuốc bình quân trên đầu người trong tổng chi y tế của Việt Nam năm 2009 ở mức cao gần 2 lần so với trung bình của các quốc gia Châu Á và cao trên 3 lần so với trung bình của các quốc gia châu Âu. Để giảm gánh nặng của chi tiêu cho thuốc, Bộ Y tế luôn luôn nhấn mạnh mục đích của việc nhập khẩu là nhập khẩu bổ sung các thuốc trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu điều trị (nhập khẩu bổ sung) và nhập khẩu thay thế các thuốc sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu (nhập khẩu thay thế). Để đạt được mục tiêu này, cần phải có các bằng chứng rõ ràng để hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng các chính sách nhằm điều tiết hoạt động nhập khẩu thuốc. Đề tài được thực hiện với các mục tiêu: 1. Phân tích xu hướng nhập khẩu thuốc vào Việt Nam giai đoạn 2006-2014. 2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng nhập khẩu thuốc vào Việt Nam giai đoạn 2006-2014. Từ đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt hơn việc nhập khẩu thuốc và góp phần nâng cao việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thuốc của ngành công nghiệp dược Việt Nam. 2 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 1.1. Thực trạng nhập khẩu thuốc của Việt Nam Tiền thuốc bình quân đầu người của Việt Nam tăng 6 lần sau 15 năm từ 5,40 USD/người năm 2006 lên 32,22 USD/người năm 2014. Mặc dù xét về mặt số lượng, thị phần thuốc sản xuất trong nước tại Việt Nam đang ở mức cao nhất (74%) nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (Malaysia: 45%, Thailand: 72%, Indonesia: 70%, Philippines: 57%) nhưng xét về mặt giá trị, tỷ trọng thuốc sản xuất trong nước thấp hơn và đang có xu hướng bị thay thế bởi thuốc nhập khẩu; ngành công nghiệp dược trong nước đang thể hiện sự trùng lắp về dạng bào chế và nhóm thuốc (tập trung vào nhóm thuốc thông thường, dạng bào chế đơn giản), nhà máy trong nước vẫn chưa được sử dụng hết công suất thiết kế (mới đạt khoảng 47%). Bối cảnh này dẫn đến việc nhập khẩu thuốc của Việt Nam là điều tất yếu và cần thiết. Việt Nam là quốc gia nhập siêu với khoảng hơn 50% thuốc thành phẩm và 90% nguyên liệu dùng để sản xuất trong nước phải nhập khẩu. Thuốc nhập khẩu bao phủ tất cả các nhóm tác dụng dược lý, trong đó tỷ trọng SĐK của nhóm thuốc chống nhiễm khuẩn-ký sinh trùng chiếm tỷ lệ cao nhất là 28,89%; tiếp theo là nhóm thuốc tim mạch (7,05%), nhóm thuốc tác động lên dạ dày-ruột (6,68%). Về vấn đề vi phạm chất lượng của thuốc nhập khẩu đang là vấn đề đáng báo động, trong đó theo báo cáo của Cục Quản lý Dược, từ năm 2011 đến tháng 7/2014, hai quốc gia Ấn Độ và Hàn Quốc có tỷ lệ thuốc vi phạm chất lượng nhiều nhất (chiếm 73,78% và 11,59% tổng số 164 lô thuốc nhập khẩu vi phạm chất lượng). Điều này đặt ra cho các nhà quản lý cần có các biện pháp để hạn chế nhập khẩu các thuốc từ các quốc gia này. 3 1.2. Chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam Kể từ khi gia nhập chính thức Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 11/2006, chính sách quản lý nhập khẩu thuốc của Việt Nam đã có những điều chỉnh nhất định để có thể vừa đảm bảo mục đích của việc nhập khẩu (nhập khẩu bổ sung những mặt hàng trong nước không sản xuất được hoặc không đủ nhu cầu; hoặc nhập khẩu thay thế các mặt hàng trong nước sản xuất kém hiệu quả, không có lợi bằng nhập khẩu) vừa phải cân đối một cách hợp lý việc bảo hộ thị trường nội địa, đồng thời vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại theo quy định của WTO. Chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam được tóm tắt trong sơ đồ sau: Hình 1.1: Các chính sách quản lý nhập khẩu thuốc tại Việt Nam 1.3. Tổng quan về phương pháp phân tích xu hướng Trong lĩnh vực y tế, mục tiêu cơ bản của phân tích xu hướng là để dự báo cho sự thay đổi của sự kiện/hiện tượng, chẳng hạn như chi tiêu cho thuốc, cho y tế trong tương lai. Các phương pháp sau đây thường được áp dụng: Chính sách quản lý nhập khẩu thuốc Chính sách thuế Chính sách phi thuế quan Tác động lên thương nhân Hàng rào kỹ thuật Hạn chế số lượng Thương mại tạm thời Hành chính 4 1.3.1. Mô tả chuỗi số thời gian Mô tả chuỗi thời gian sử dụng các chỉ số như: giá trị trung bình qua thời gian; lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc, lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình; tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển định gốc, tốc độ phát triển trung bình, tốc độ tăng (giảm) liên hoàn, tốc độ tăng (giảm) định gốc, tốc độ tăng (giảm) trung bình. Sau đó, sử dụng các chỉ số này để dự báo cho các giá trị trong tương lại, với giả định các chỉ số này ít có sự thay đổi trong giai đoạn tiếp theo. 1.3.2. Sử dụng các mô hình xu hướng Đối với mô hình xu hướng đơn biến, có 3 mô hình p ... an...). Các nhà quản lý cần phải lưu ý điều này vì thuốc xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 (Ấn Độ, Hàn Quốc) có tỷ lệ vi phạm chất lượng cao nhất. Đối với nhóm thuốc điều trị bệnh truyền nhiễm, sản xuất trong nước hiện vẫn đóng góp chính vào nhu cầu tiêu thụ của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm kháng sinh nhập khẩu đang có tốc độ tăng nhanh hơn so với kháng sinh sản xuất trong nước. Đây là một chỉ báo đáng lo ngại cho ngành công nghiệp dược trong nước vì kháng sinh là mặt hàng đang được các doanh nghiệp trong nước tập trung sản xuất và có năng lực sản xuất. So sánh liều DID của nhóm thuốc này sử dụng tại Việt Nam với các quốc gia Châu Âu và Hàn Quốc, mức độ tiêu thụkháng sinh ở Việt Nam cao gấp 2- 3 lần so với trung bình các quốc gia Châu Âu, gấp 3,5-6,5 lần so với nước Châu Âu có mức tiêu thụ kháng sinh thấp nhất (Hà Lan), gấp gần 2 lần so Hàn Quốc. Việc sử dụng quá mức 18 nhóm kháng khuẩn tác dụng toàn thân là một trong nguyên nhân gây ra tình trạng kháng thuốc. Vì vậy, cần có những chính sách để hạn chế nhập khẩu và sử dụng thuốc nhập khẩu kháng sinh, đặc biệt với những nhóm trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu điều trị. Đối với nhóm điều trị đái tháo đường và tăng huyết áp, khi so sánh với dữ liệu thuốc sản xuất trong nước nhận thấy, năng lực sản xuất trong nước còn hạn chế, Việt Nam vẫn phụ thuộc vào thuốc nhập khẩu. Thuốc nhập khẩu đái tháo đường và tăng huyết áp đã bao phủ tất cả các nhóm điều trị theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế. Kết quả phân tích theo nguồn gốc xuất xứ cho thấy, đối với cả hai nhóm này, nhập khẩu chủ yếu có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2, tuy nhiên ngày càng có xu hướng chuyển dịch sang các quốc gia nhóm 1. Điều này thể hiện sự bất hợp lý trong việc nhập khẩu nhóm thuốc này và sự bất cập của nền công nghiệp dược trong nước. Ngay cả đối với các nhóm thuốc năng lực sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng nhu cầu như Biguanid, Sulphonylurea và thuốc chẹn kênh canxi, liều DDD thuốc sản xuất trong nước vẫn giảm nhanh. 4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới nhập khẩu thuốc tại Việt Nam Một trong các yếu tố được chỉ ra là có liên quan một cách có ý nghĩa thống kê đến KNNK thuốc nói chung trong nghiên cứu này là cơ cấu dân số trên 65 tuổi (thể hiện mức độ dân số “già” của một quốc gia). Trong nghiên cứu này, trong cả ngắn hạn và dài hạn, tỷ trọng dân số trên 65 tuổi được chỉ ra là có mối liên hệ thuận chiều với KNNK nói chung, hay nói cách khác, sự gia tăng dân số ở nhóm tuổi từ 65 trở lên sẽ dẫn đến sự gia tăng về KNNK thuốc nói chung. Kết quả này khá tương đương với một số kết luận về mối liên quan giữa sự già hóa và chi tiêu y tế đã được nghiên cứu trên thế giới. 19 Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy tâm lý “thích dùng thuốc ngoại” “sợ thuốc nội” của cả cán bộ y tế và người dân Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến xu hướng nhập khẩu thuốc. Vấn đề này đã được nhìn nhận bởi các nhà quản lý ngành y tế Việt Nam nhưng rất cần những nỗ lực thực sự để giải quyết. Kết quả nghiên cứu về các yếu tố liên quan tới bệnh tật tới nhập khẩu thuốc của ba nhóm bệnh chính: nhiễm khuẩn, tim mạch và ung thư đã cho thấy, có mối liên hệ giữa tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết do bệnh năm trước đó với nhập khẩu thuốc điều trị nhóm bệnh đó vào năm tiếp theo. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu tại Iran vào năm 2013, theo đó, tại quốc gia này, sự chuyển đổi mô hình dịch tễ từ các bệnh truyền nhiễm sang các vấn đề về ung thư và các bệnh không truyền nhiễm đã ảnh hưởng đến cơ cấu và xu hướng nhập khẩu theo hướng tăng tỷ trọng của nhóm thuốc điều trị bệnh không truyền nhiễm. Có khá nhiều quốc gia sử dụng các mô hình kinh tế y tế, trong đó có các chỉ số đo lượng về bệnh tật như tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong để ước lượng chi tiêu cho y tế (hay chi tiêu dành cho thuốc) của một số bệnh cụ thể, đặc biệt là nhóm bệnh không truyền nhiễm hoặc các yếu tố nguy cơ của nhóm bệnh này. Quản lý việc sử dụng thuốc thông qua mô hình bệnh tật đã được chứng minh là biện pháp có hiệu quả nhằm tiết kiệm ngân sách dành cho chi phí sử dụng thuốc tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam việc sử dụng các dữ liệu về mô hình bệnh tật để dự đoán sử dụng thuốc, từ đó điều tiết vấn đề nhập khẩu thuốc cũng như sản xuất trong nước vẫn chưa được các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Ngay cả các doanh nghiệp nhập khẩu hay sản xuất 20 trong nước cũng chưa quan tâm nhiều đến mô hình bệnh tật trong nước ảnh hưởng như thế nào đến xu hướng các thuốc nhập khẩu. Kết quả này đã cho thấy các thuốc sản xuất trong nước cạnh tranh với các thuốc có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1 (có tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ sản xuất tương tự Việt Nam) trong việc cung ứng thuốc tại Việt Nam. Còn thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2 đang có “sân chơi” riêng tại thị trường Việt Nam. Điều này cũng là hợp lý trong bối cảnh năng lực của công nghiệp dược trong nước còn hạn chế, chưa sản xuất được các thuốc có dạng bào chế hiện đại, chuyên khoa đặc trị và không có thuốc phát minh nên các thuốc này vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu từ quốc gia nhóm 2. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra hiệu quả ban đầu của các quy định mới trong chính sách đấu thầu thuốc tại Việt Nam trong việc điều chỉnh cơ cấu thuốc nhập khẩu: làm tăng giá trị nhập khẩu thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2 và làm giảm giá trị nhập khẩu của của thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1. Đây là các kết quả thể hiện tác động tích cực bước đầu của chính sách và cũng phù hợp với phản hồi của xã hội trong thời gian áp dụng chính sách này. Kết quả nghiên cứu về tỷ trọng thuốc biệt dược gốc trong tổng giá thuốc nhập khẩu vào Việt Nam cho thấy thuốc biệt dược gốc chiếm tỷ trọng trị khá cao (48-58%). Cùng với kết quả nghiên cứu định tính về ảnh hưởng của chính sách cho thấy, hiện nay Việt Nam không những đang thiếu các chính sách thúc đẩy sử dụng thuốc generic, các quy định về đấu thầu thuốc hiện đang thực thi lại tạo một sân chơi riêng cho nhóm thuốc biệt dược gốc. Điều này có thể sẽ làm cho tình trạng sử dụng thuốc biệt dược gốc ngày càng gia tăng nếu không có những điều chỉnh phù hợp. Trong khi đó, tại nhiều quốc gia trên thế giới, chính sách thúc đẩy sử dụng thuốc generic đã được chứng minh 21 là làm giảm tỷ lệ sử dụng thuốc biệt dược gốc do đó tiết kiệm được chi phí sử dụng thuốc quốc gia. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN - Về xu hướng nhập khẩu thuốc giai đoạn 2006-2014 Trong giai đoạn 2006-2014, KNNK thuốc có mức tăng tổng và mức tăng hàng năm tương ứng là 252,0% và 17,5%, cao hơn mức tăng của thuốc sản xuất trong nước. Trong tổng số 1.811 hoạt chất được nhập khẩu vào Việt Nam giai đoạn 2006-2004, có 843 hoạt chất (tương ứng 46,83%) công nghiệp dược trong nước chưa sản xuất được. Trong 843 hoạt chất này có 67 hoạt chất thuộc danh mục thuốc thiếu yếu. Nhập khẩu thuốc vào Việt Nam phù hợp với xu hướng bệnh tật tuy nhiên còn một số điểm chưa phù hợp. Bao gồm: còn trùng lắp với sản xuất trong nước, chủ yếu nhập khẩu thuốc xuất xứ từ các quốc gia có tiêu chuẩn kỹ thuật tương tự Việt Nam, tỷ trọng thuốc mang tên thương mại, biệt dược gốc cao (tương ứng trên trên 95% và khoảng 50%), tỷ trọng thuốc thiết yếu không có xu hướng giảm. Nhóm kháng kháng sinh nhập khẩu có xu hướng tăng cả về KKNK và liều DDD, trong đó tốc độ tăng liều DID cao hơn so với sản xuất trong nước (tăng 179,3% so với tăng 38,5% trong 9 năm). Tuy nhiên, liều DDD của kháng sinh sản xuất trong nước gấp 3,5-7 lần so với nhập khẩu, đóng góp chính vào tiêu thụ của người dân. Tổng tiêu thụ kháng sinh của Việt Nam ở mức cao so với các nước Châu Âu và Hàn Quốc và có xu hướng ngày càng tăng. Các quốc gia nhóm 2 cung cấp vào Việt Nam chủ yếu các nhóm cần thiết cho nhu cầu điều trị trong khi đó, các quốc gia nhóm 1 cung ứng vào Việt Nam chủ yếu nhóm thuốc không cần thiết khi trong 22 nước đã đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu thụhoặc nhóm thuốc cần thiết nhưng năng lực trong nước có khả năng đáp ứng. KNNK và liều DID nhóm thuốc điều trị đái tháo đường và điều trị tăng huyết áp nhập khẩu tăng nhanh sau 9 năm (thuốc điều trị đái tháo đường KNNK tăng gần 4 lần và DID tăng 2 lần; con số này đối với nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp là 4 lần và 3 lần). Thuốc sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hết các nhóm thuốc trong hướng dẫn điều trị của Bộ y tế, tiến tới phụ thuộc vào các quốc gia nhóm 1. Mức tiêu thụ thuốc cả hai nhóm thuốc điều trị đái tháo đường (4,79-8,70DID) và tăng huyết áp (12,57–33,41DID) đang có xu hướng tăng nhưng đang ở mức thấp so với các quốc gia có cùng tỷ lệ mắc bệnh. - Về một số yếu tố liên quan đến xu hướng nhập khẩu thuốc Nghiên cứu định lượng đã chỉ ra ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê của sự gia tăng dân số ở nhóm tuổi từ 65 trở lên (thể hiện mức độ “già” hoá dân số) dẫn tới sự gia tăng về KNNK thuốc. Điều này dự báo về khả năng chi tiêu dành cho thuốc sẽ tăng nhanh trong thời gian tới do dân số Việt Nam đang già hoá. Ngoài ra, nghiên cứu định tính cũng cho thấy tâm lý thích dùng thuốc ngoại, không tin tưởng vào thuốc sản xuất trong nước cũng tác động đến xu hướng nhập khẩu thuốc. Tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết do bệnh có ảnh hưởng tới KNNK của nhóm thuốc điều trị bệnh đó năm tiếp theo. Chiều của mối quan hệ tuỳ thuộc vào bản chất của bệnh cấp tính hay mãn tính và khả năng dự phòng của bệnh. Đối với bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết do bệnh càng tăng sẽ dẫn tới tăng KNNK trong năm tiếp theo. Đối với bệnh mãn tính, dễ phát hiện, có biện pháp dự phòng bằng thuốc (bệnh đái tháo đường), tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ chết do bệnh càng giảm sẽ dẫn tới tăng KNNK trong năm tiếp theo. Còn đối với bệnh mãn tính, phát hiện muộn, không có biện pháp dự 23 phòng bằng thuốc (ung thư), tỷ lệ hiện mắc tăng và tỷ lệ chết do bệnh giảm sẽ làm tăng KNNK trong năm tiếp theo. Năng lực sản xuất trong nước có tác động tới xu hướng nhập khẩu thuốc xuất xứ từ quốc gia nhóm 1. Đối với các thuốc thông thường, năng lực sản xuất trong nước càng tăng, xu hướng nhập khẩu nhóm thuốc này từ quốc gia nhóm 1 càng giảm. Còn đối với các thuốc chuyên khoa đặc trị hoặc có dạng bào chế hiện đại, năng lực sản xuất trong nước càng tăng, xu hướng nhập khẩu thuốc này từ quốc gia nhóm 1 vẫn tăng và với tốc độ nhanh hơn so với sản xuất trong nước. Các quy định mới về đầu thuốc tại Thông tư 01 & Thông tư 36 đã có tác động tích cực trong việc điều chỉnh xu hướng nhập khẩu thuốc: làm tăng giá trị và liều DID nhập khẩu thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 2 và làm giảm giá trị và liều DID nhập khẩu của của thuốc có nguồn gốc từ quốc gia nhóm 1, thể hiện rõ tác động ở các nhóm thuốc sử dụng nhiều tại các cơ sở khám chữa bệnh. Tuy nhiên, các quy định này tiềm ẩn nguy cơ làm tăng tỷ trọng của thuốc biệt dược gốc. Các chính sách liên quan đến thuốc thiết yếu, thuốc generic và thuốc mang tên gốc gần như chưa có tác dụng điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu thuốc. KIẾN NGHỊ * Đối với Bộ Y tế: Thường xuyên cập nhật và công bố hoạt chất trong nước chưa bao phủ được để định hướng cho doanh nghiệp sản xuất trong nước. Đối với hoạt chất thuộc danh mục thuốc thiết yếu trong chưa bao phủ được, Bộ Y tế xem xét phân công doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất đồng thời tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư và cấp phép nhanh thuốc sản xuất trong nước. Đưa các thuốc hiện sử dụng nhiều, được nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia nhóm 1 và doanh nghiệp dược trong nước có năng lực sản 24 xuất vào danh sách thuốc trong nước đáp ứng nhu cầu điều trị không chào thầu nhập khẩu đối với thuốc có xuất xứ từ quốc gia nhóm 1. Dự đoán cụ thể mức gia tăng chi tiêu dành cho thuốc nói riêng và cho y tế nói chung trong bối cảnh tốc độ già hoá dân số của Việt Nam khá nhanh để từ đó có các chính sách đáp ứng phù hợp. Sử dụng các dữ liệu về mô hình bệnh tật để dự đoán mức độ sử dụng và chi tiêu dành cho thuốc, từ đó điều tiết vấn đề nhập khẩu thuốc cũng như sản xuất trong nước. Tiếp tục theo dõi để đánh giá tác động dài hạn của chính sách đấu thầu thuốc để phát huy các điểm tích cực, đồng thời có giải pháp điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu đối với thuốc biệt dược gốc.Tăng cường việc thực hiện chính sách thuốc thiết yếu và chính sách kê đơn thuốc mang tên gốc để điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu thuốc. Triển khai các biện pháp hạn chế sử dụng thuốc phát minh như giảm giá thuốc phát minh thanh toán bảo hiểm y tế thông qua đàm phán giá thuốc hoặc quy định thuốc phát minh đấu thầu cạnh tranh với nhóm thuốc tương đương về tiêu chuẩn kỹ thuật thay vì được tham gia gói thầu riêng. * Đối với doanh nghiệp: Các doanh nghiệp sản xuất trong: ưu tiên sản xuất hoạt chất trong nước chưa sản xuất được ngay khi Cục Quản lý dược công bố. Dự báo xu hướng nhập khẩu sử dụng các chỉ số về kinh tế, xã hội và bệnh tật để nhập khẩu thuốc phù hợp với bối cảnh Việt Nam. * Các nhà nghiên cứu: Tiếp tục theo dõi và phân tích dữ liệu trong thời gian dài hơn. Tận dụng bộ số liệu để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đối với việc nhập khẩu của từng hoạt chất hoặc phân nhóm nhỏ. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Chu Quốc Thịnh, Điều Huy Quân Anh, Nguyễn Vĩnh Nam (2015), “Trends in the consumption of imported diabetic agent in Vietnam from 2006-2011: a quantitative study”, The 1st International Conference on Pharmacy Education and Research Network of Asean, Bangkok, pp.107-111. 2. Chu Quốc Thịnh, Hứa Thanh Thủy (2016), “Tiêu thụ kháng sinh tại Việt Nam và mức độ đáp ứng của công nghiệp dược trong nước giai đoạn năm 2006-2014”, Tạp chí dược học Số 487, tr.2-8. 3. Chu Quốc Thịnh, Hứa Thanh Thủy (2016), “Tiêu thụ thuốc điều trị đái tháo đường nhập khẩu tại Việt Nam và mức độ đáp ứng của công nghiệp dược trong nước giai đoạn năm 2006-2014.”, Tạp chí dược học Số 488, tr.65-69.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_xu_huong_nhap_khau_thuoc_va_mot_s.pdf