Tổ chức quản lý không gian công cộng thành phố Hà Nội có sự tham gia của cộng đồng - Hướng tới mô hình thành phố đáng sống
Không gian công cộng (KGCC) là một thành tố không thể thiếu trong đời sống xã hội của đô thị. KGCC có
chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để có được một cuộc sống đô thị phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần,
làm cho đô thị trở nên đáng sống đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình đô thị hoá và
sự gia tăng dân số, KGCC tại các đô thị lớn của Việt Nam ngày càng bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng.
Thành phố Hà Nội hiện nay cũng đang đối mặt với các vấn đề liên quan đến KGCC và việc tổ chức quản lý để
nâng cao chất lượng KGCC phục vụ người dân, góp phần tạo ra các cơ hội phát triển kinh tế và du lịch. Bài viết
này sẽ tổng hợp khung lý luận về KGCC, sự tham gia của cộng đồng (TGCĐ) trong việc tái thiết KGCC và các
kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước, từ đó chỉ ra các yếu tố cần thiết để huy động sự TGCĐ và các bên
liên quan nhằm nâng cao chất lượng KGCC của thành phố Hà Nội, hướng tới mục tiêu thành phố đáng sống.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổ chức quản lý không gian công cộng thành phố Hà Nội có sự tham gia của cộng đồng - Hướng tới mô hình thành phố đáng sống
Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, NUCE 2021. 15 (2V): 136–154 TỔ CHỨC QUẢN LÝ KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI CÓ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG - HƯỚNG TỚI MÔ HÌNH THÀNH PHỐ ĐÁNG SỐNG Tạ Quỳnh Hoaa,∗ aKhoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng, 55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 13/04/2021, Sửa xong 01/05/2021, Chấp nhận đăng 06/05/2021 Tóm tắt Không gian công cộng (KGCC) là một thành tố không thể thiếu trong đời sống xã hội của đô thị. KGCC có chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để có được một cuộc sống đô thị phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần, làm cho đô thị trở nên đáng sống đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình đô thị hoá và sự gia tăng dân số, KGCC tại các đô thị lớn của Việt Nam ngày càng bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Thành phố Hà Nội hiện nay cũng đang đối mặt với các vấn đề liên quan đến KGCC và việc tổ chức quản lý để nâng cao chất lượng KGCC phục vụ người dân, góp phần tạo ra các cơ hội phát triển kinh tế và du lịch. Bài viết này sẽ tổng hợp khung lý luận về KGCC, sự tham gia của cộng đồng (TGCĐ) trong việc tái thiết KGCC và các kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước, từ đó chỉ ra các yếu tố cần thiết để huy động sự TGCĐ và các bên liên quan nhằm nâng cao chất lượng KGCC của thành phố Hà Nội, hướng tới mục tiêu thành phố đáng sống. Từ khoá: không gian công cộng; sự tham gia của cộng đồng; thành phố đáng sống. MANAGING PUBLIC SPACES WITH COMMUNITY PARTICIPATION IN HANOI CITY TOWARDS UR- BAN LIVEABILITY Abstract Public space is an indispensable element in the social life of the city. High-quality public space is a prereq- uisite for a good urban life, physically and mentally, making the city to be livable for all. However, under the impact of urbanization and population growth, public spaces in major cities of Vietnam are decreasing in both quantity and quality aspects. The city of Hanoi currently is facing problems related to the quantity of public spaces, the management to improve the quality of public spaces that serve its people as well as to create oppor- tunities for economic and tourism development.This article will synthesize the theoretical framework of public spaces, community participation in the regenerating urban spaces and practical experiences domestically and internationally. Besides, the research also highlights the essential elements to mobilize the participation of the community and stakeholders to improve quality of public spaces in Hanoi capital city towards urban livability. Keywords: public spaces; community participation; livable city. https://doi.org/10.31814/stce.nuce2021-15(2V)-11 © 2021 Trường Đại học Xây dựng (NUCE) 1. Giới thiệu – Bối cảnh Không gian công cộng (KGCC) là một thành tố không thể thiếu trong đời sống xã hội của đô thị. Theo Henri Lefebvre [1], thành phố là một tuyệt tác tập thể, và trong tuyệt tác tập thể ấy thì KGCC được ví như một “phòng khách” với những quảng trường, công viên, khu tượng đài, phố đi bộ, vỉa hè, ∗Tác giả đại diện. Địa chỉ e-mail: hoatq@nuce.edu.vn (Hoa, T. Q.) 136 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng đại siêu thị, làng trong phố, khu tập thể, khu đô thị mới ... Đấy là những không gian không chỉ để thở mà còn là tài sản văn hóa của người dân. Nhưng tiếc thay, giờ đây dưới tác động của quá trình đô thị hóa nhanh chóng trong hai thập kỷ qua, “phòng khách” ấy của các thành phố lớn của Việt Nam như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh . . . đã có sự biến đổi rất nhanh và ngày càng bị thu hẹp dần, suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Tại thủ đô Hà Nội, với quá trình gia tăng dân số và sự mở rộng ranh giới thành phố về phía Nam và Tây Nam sau khi quy hoạch tổng thể thành phố Hà Nội được phê duyệt năm 2011 [2], KGCC đã bị sụt giảm nghiêm trọng cả về diện tích và chất lượng [3]. Thống kê của Viện Quy hoạch Đô thị và Quốc gia năm 2017 cho thấy diện tích KGCC chỉ chiếm 0,3% tổng diện tích đất của thành phố và diện tích KGCC bình quân đầu người chỉ dưới 2 m2, bằng 1/10 so với chỉ số tại các nước phát triển (khoảng 20 m2/người) [4]. Trong một nghiên cứu gần đây, Julie-Anne Boudreau [5, 6] đã chỉ ra các KGCC phân bố không đồng đều, cả khu vực cây xanh và mặt nước cũng như các cơ sở thể thao và vui chơi không đáp ứng nhu cầu dân cư đô thị. Ngoài ra, việc sở hữu và quản lý cũng như duy tu, cải thiện KGCC cũng chưa được quan tâm xem xét và có giải pháp phù hợp mặc dù điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng của KGCC [7]. Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến với bề dày lịch sử và văn hoá còn là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Trong những năm đây, Hà Nội luôn được một số tạp chí Du lịch uy tín hàng đầu Thế giới như Travel and Leisure (Mỹ), Smart Travel Asia (HKG) tổ chức bình chọn và đạt danh hiệu Top 10 điểm đến Du lịch hấp dẫn nhất châu Á. Đáng lưu ý, Hà Nội vinh dự là một trong 19 ứng cử viên hạng mục “Thành phố là điểm đến hàng đầu thế giới 2019” để bình chọn tại giải thưởng World Travel Awards - giải thưởng có uy tín nhất của tổ chức du lịch thế giới. Thủ đô Hà Nội còn được UNESCO chính thức công nhận gia nhập vào mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO ở lĩnh vực thiết kế. Trong đó, không gian công cộng là nơi biểu đạt rõ nhất các giá trị vật thể và phi vật thể của một thành phố, về con người và mối tương tác của con người với không gian mà họ đang sống. Điều này đã đặt ra cho những người hoạch định chính sách của thành phố, các nhà quản lý và các chuyên gia quy hoạch cũng như những nhà hoạt động xã hội một câu hỏi lớn “Làm sao để tạo lập (making), tổ chức quản lý (managing) các KGCC của thành phố để góp phần nâng cao chất lượng môi trường sống của cộng đồng và đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch của thành phố, hướng tới các tiêu chỉ của thành phố sống tốt, thân thiện với mọi người? Cộng đồng có vai trò như thế nào trong việc tạo lập nét đặc trưng của KGCCvà quản lý, duy trì các KGCC tại thành phố Hà Nội?” Bài viết này dựa trên cá ... xanh trên tuyến phố Hình 17. Hiện trạng sử dụng vỉa hè và các tiện ích công cộng trên tuyến phố - Bước 4. Phân tích – Tìm giải pháp - Lựa chọn hoạt động ưu tiên: nhóm cộng đồng, CB Phường, CB chuyên môn. Tổ chức cuộc họp toàn thể cộng đồng lần 2: giới thiệu kết quả và các hoạt động ưu tiên, kế hoạch huy động nguồn lực. Các công cụ cho phương pháp TGCĐ đã áp dụng trong dự án (xem Hình 18): Công cụ 1: Thu thập tài liệu thứ cấp. Thu thập các tài liệu đã có, các đánh giá đã tiến hành về cảnh quan tuyến phố, các tài liệu liên quan đến các chủ trương, chính sách của địa phương và việc thực hiện chủ trương đó liên quan đến những nội dung về cảnh quan, môi trường mà phương pháp đã lựa chọn. Công cụ 2: Họp – thảo luận. Trong nghiên cứu thí điểm, có 2 hình thức họp cơ bản: Họp – thảo luận trên nguyên tắc trao đổi ý kiến, thống nhất, đi đến quyết định giữa cán bộ tư vấn và nhóm nòng cốt. Họp cộng đồng với mục đích thông báo những nội dung đã hoặc đang triển khai và lấy ý kiến phản hồi. Công cụ 3: Quan sát trực tiếp. Dạo quanh tuyến phố, quan sát và ghi nhận những vấn đề liên quan đến cảnh quan tuyến phố. Mục đích của công cụ này là giúp cộng đồng và nhóm công tác xác định nhanh các yếu tố có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến cảnh quan; tạo ra sự đồng cảm, hiểu biết lẫn 149 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng nhau và là cơ sở để những ngày sau đó cả hai bên (tư vấn và người dân) cùng tiến hành những hoạt động cụ thể tại cộng đồng thuận lợi và hiệu quả. Công cụ 4: Vẽ bản đồ, đánh dấu các thông tin, các yếu tố tác động đến cảnh quan tuyến phố lên bản đồ. Công cụ 5: Xếp hạng ưu tiên – So sánh cặp đôi. Xếp hạng ưu tiên theo tầm quan trọng và theo các tiêu chí khác nhau (thời gian, tài chính) thông qua cho điểm. Hình 18. Các hoạt động TKĐT tuyến phố Hàng Buồm với sự TGCĐ [23, 24] Kết quả đầu ra: Sau một thời gian ngắn phối hợp, viễn cảnh của phố Hàng Buồm đã được xây dựng và thống nhất như sau “Hàng Buồm sẽ là một trong những tuyến phố văn minh thương mại hấp dẫn nhất của Hà Nội và của KPC với phố xá sạch đẹp, ngăn nắp, ấn tượng, thể hiện rõ nét đặc trưng văn hóa lịch sử của riêng mình". Để đạt đến viễn cảnh trên cần thực hiện nhiều hành động cụ thể cả dài hạn và ngắn hạn. Trong thời gian 01 tháng và nguồn kinh phí cho phép, nhóm nòng cốt đã đề xuất 3 hoạt động ưu tiên làm trước, đó là: 1) Lắp đặt đồng bộ hệ thống mái hiên di động nhằm cải thiện cảnh quan tuyến phố (Hình 19 và 20); 2) Bố trí các thùng rác công cộng cố định trên tuyến phố và mua thiết bị thu gom rác thải cho khu vực; 3)Thu nhỏ các biển hiệu, biển quảng cáo với kích thước quá lớn, hình thức xấu, đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho người dân để làm cảnh quan tuyến phố thêm đẹp. Các hoạt động khác như chỉnh trang lớp lát vỉa hè, cải tạo mặt đứng một số ngôi nhà cổ cũ nát, ngầm hóa hệ thống cống hở, ngầm hóa đường dây điện là những hoạt động dài hạn cũng đều được nêu trong chương trình hành động. 150 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Hình 19. Hiện trạng mái hiên di động trên tuyến phố Hàng Buồm trước khi cải tạo Hình 20. Mô phỏng hệ thống mái hiên di động trên tuyến phố Hàng Buồm sau khi được thiết kế đồng bộ 4. Kết luận Từ các nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản, Canada về quản lý phát triển các KGCC và dự án TKĐT thực tiễn với phố Hàng Buồm - Hà Nội, chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau đây: Nếu lôi kéo được sự TGCĐ một cách thực sự vào các dự án TKĐT cải tạo chỉnh trang các KGCC, phát triển kinh tế địa phương thì mới có thể đạt được kết quả thực tiễn và bền vững, nên có sự TGCĐ là một xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, vấn đề là cần phải có sự tham gia một cách thực chất, không phải là lôi kéo cộng đồng tham gia một cách hình thức. Để có sự tham gia thực chất và hiệu quả, cần phải gắn được quyền lợi của cộng đồng vào quyền lợi chung. Bản chất của sự TGCĐ là làm thế nào để lợi ích của cộng đồng phải được toàn xã hội nhận thức và đề cao, trong đó quyền lợi của cộng đồng không chỉ bao gồm quyền lợi về vật chất mà cả các quyền lợi về mặt tinh thần (duy trì được các giá trị phi vật thể của khu vực, tăng lòng tự hào của cộng đồng đối với khu vực mà họ đang sống). Nếu như cộng đồng chưa tự nhận thức được quyền lợi của họ gắn liền với các không gian thực thể này (như các không gian đường phố, cảnh quan tuyến phố, các quảng trường, công viên, vườn hoa ...) thì cần phải chỉ rõ quyền lợi cần được bảo vệ (Hình 21). Nhưng yếu tố quyết định chính là sự đồng thuận và quyết tâm nhìn về cùng một hướng của các bên liên quan trong đó có cộng đồng. Các yếu tố cần thiết hoặc cần chuẩn bị để có được sự TGCĐ hiệu quả: - Yếu tố nguồn lực: cần phải tồn tại các nguồn lực của cộng đồng: tiền, sức lao động, về kiến thức, kỹ năng, sự lãnh đạo, hệ thống tổ chức xã hội tốt. Chất lượng nguồn lực, đặc biệt là kỹ năng tổ chức, quản lý và lập kế hoạch sẽ được tăng lên rõ rệt khi có những kinh nghiệm tham gia trong các dự án phát triển. Càng có nhiều sự TGCĐ trong lĩnh vực TKĐT thì càng có nhiều lợi ích hơn cho cộng đồng và vì thế họ lại càng sẵn sàng đầu tư các nguồn lực của mình. Như vậy yếu tố nguồn lực có tác động mang tính “hữu cơ” thúc đẩy sự TGCĐ. - Trình độ nhận thức và sự nỗ lực tham gia của cộng đồng: Sự nỗ lực tham gia của người dân bằng óc sáng tạo và tính tự chủ tối đa để cải thiện điều kiện cảnh quan, môi trường sống. Khi cộng đồng có nhận thức tốt, có trình độ hiểu biết thì việc triển khai thực hiện các dự án liên quan đến quyền lợi cộng đồng sẽ có nhiều thuận lợi. Có thể thu nhận được những sáng kiến nảy sinh trong quá trình tham gia của CĐ, vấn đề quan trọng là làm sao huy động được sự TGCĐ. - Trách nhiệm của nhà quản lý, lãnh đạo và Chính phủ trong việc huy động và thúc đẩy sự TGCĐ: Các nhà quản lý, lãnh đạo cần có nhận thức đúng đắn về sự TGCĐ và mức độ TGCĐ. Vấn đề các nhà 151 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Hình 21. Cộng đồng tham gia góp ý kiến trong triển lãm “Ý tưởng quy hoạch và thiết kế đô thị khu vực Hồ Gươm và phụ cận” quản lý mong muốn cộng đồng tham gia ở mức độ thế nào như: chỉ thông báo để quần chúng biết hay mong muốn quần chúng đóng góp thực sự vào quá trình từ khâu xác định ý tưởng, lập dự án, triển khai dự án ... để qua đó thu thập những ý tưởng tốt của cộng đồng vào nội dung của dự án, tất cả đều phụ thuộc chủ quan vào người lãnh đạo. Sự quan tâm và quyết tâm của các nhà lãnh đạo là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy sự TGCĐ. Vận động cộng đồng là vấn đề phức tạp và phải dần dần từng bước, do vậy người quản lý phải biết chờ đợi, biết lắng nghe và thương thuyết. Trong quá trình triển khai cũng thường phức tạp nên phải có quyết tâm theo mục tiêu đã được cả hai bên Chính quyền và cộng đồng thống nhất. - Có sự trợ giúp về kỹ thuật, nguồn lực và dịch vụ của Chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận hay các tổ chức doanh nghiệp xã hội để khuyến khích óc sáng tạo, sự giúp đỡ lẫn nhau và tính tự lực của cộng đồng (Hình 22 và 23). Hình 22. Thiết kế, cải tạo sân chơi cho trẻ em – dự án của doanh nghiệp XH Think Playground [25] Hình 23. Dự án nghệ thuật công cộng Phúc Tân ven sông Hồng với sự tham gia của các nghệ sĩ đến từ Tây Ban Nha, Australia và Việt Nam [26] Thông qua hoạt động thí điểm tại tuyến phố Hàng Buồm, chúng ta đã phần nào đã kiểm chứng được tính khả thi của sự tham gia của cộng đồng. Trên thực tế nguồn kinh phí từ nhà nước cho các hoạt động nâng cấp chính trang đô thị đã đang và sẽ luôn eo hẹp, cho nên “nhà nước và nhân dân cùng làm"trong TKĐT, cải thiện KGCC là con đường đi bất khả kháng nếu chúng ta muốn nhanh chóng 152 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng cải tạo nâng cao chất lượng các thành phố của chúng ta. Bài học kinh nghiệm cụ thể của Việt Nam có thể rút ra là: - Việc vận động cộng đồng một cách khéo léo là yếu tố quyết định cho sự thành công. Cộng đồng cần thấy được hiệu quả của hoạt động: việc cải thiện KGCC, mỹ quan khu phố không những tăng lòng yêu mến tự hào của họ với khu phố mình mà còn thu hút khách du lịch, khách mua hàng đến nhiều hơn, đồng thời quảng bá được rộng rãi văn hóa lịch sử tuyến phố. - Cộng đồng đã được quyền tham gia vào các quyết định của hoạt động trong suốt tiến trình dự án. Họ được công khai thông tin, được đóng góp ý kiến, được tham gia quyết định. Chính vì vậy họ đã đóng góp ý tưởng, công sức và kinh phí cho việc chăm sóc cảnh quan chung của khu vực mình sinh sống. - Có sự đồng thuận của Chính quyền Phường và cộng đồng trong việc triển khai hoạt động. Chính từ sự đồng thuận này, người dân cảm thấy vai trò của họ được đề cao, họ tự ý thức nhiều hơn về sự tham gia của mình và tự nguyện góp tay cùng nhà nước vào việc chung của khu phố. - Cần những sự trợ giúp rất hiệu quả từ bên ngoài: đó là sự tham gia hỗ trợ từ đầu đến cuối của các tư vấn trong và ngoài nước, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật huy động sự hỗ trợ từ các tổ chức NPOs, NGOs, các doanh nghiệp xã hội. Qua nghiên cứu về KGCC, chúng ta thấy cần làm rõ, bổ sung các khái niệm, vai trò của KGCC trong hành lang pháp lý về quy hoạch để những tư duy về tạo lập và quản lý KGCC có thể được phản ánh sâu rộng trong tất cả các loại đồ án quy hoạch. Cần tăng cường các nghiên cứu về quản ly đô thị vì bên cạnh công tác thiết kế, công tác quản lý có ý nghĩa quyết định trong việc duy trì chất lượng KGCC trong đô thị. Bên cạnh đó, cần tiến hành những khóa tập huấn về thiết kế và quản lý KGCC và sự tham gia của cộng đồng để tăng cường nhận thức, kỹ năng và thái độ cho các KTS, nhà quy hoạch, TKĐT trong các đơn vị tư vấn, các cơ quan quản lý và lập chính sách của nhà nước, cùng với tất cả các đối tượng quan tâm khác. Quy trình tạo lập, duy trì và quản lý KGCC với sự tham gia của cộng đồng cũng cần được biên tập thành sổ tay hướng dẫn đơn giản, dễ hiểu, để giới thiệu cho cộng đồng dân cư trong quá trình triển khai các dự án QH và TKĐT trên địa bàn của người dân, đặc biệt là các khu vực đô thị lịch sử như KPC Hà Nội, Khu phố Pháp, vừa phục vụ cộng đồng và góp phần thúc đẩy du lịch, hướng tới đô thị đáng sống. Tài liệu tham khảo [1] Lefebvre, H. (1991). The production of space. Blackwell: Oxford. [2] Số 1259/QĐ-TTG (2011). Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể thủ đô Hà Nội đến 2030, Tầm nhìn 2050. Chính Phủ Việt Nam. [3] Nguyen, Q. M., Doan, T. T., Ta, Q. H., Nguyen, M. T., Phan, T. H., Chu, N. H., Pham, T. T. H. (2020). Identifying and Assessing the Attractiveness of Public Spaces for the Youth as a Key Factor to Help Establish Social Sustainability—Case Studies from Hanoi. ICSCEA 2019- Proceedings of the Interna- tional Conference on Sustainable Civil Engineering and Architecture - Lecture Note in Civil Engineering, Springer Singapore, 159–173. [4] Tuan, D. Q. (2017). The integration between inner city and peri- urban areas of Hanoi in the development process, Journal of Construction and Planning. No. 89+90, Ministry of Construction Hanoi, Vietnam. [5] Boudreau, J. A., Labbé, D., Geertman, S., Charton, L., Pham, T. T. H., Dang, N. A. (2005). Hanoi youth public space. Social Sciences and Humanities Research Council of Canada, 15–17. [6] Tran, T. H. G. (2015). Old villages and new streets - Stories about public space: Public space system in Trung Hoa - Nhan Chinh new town. Journal of Construction, (74):52–53. [7] Dũng, T. A., Manfredini, M. (2016). Thành phố sáng tạo và không gian công cộng. Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, (28):79–81. 153 Hoa, T. Q. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng [8] Loan, P. T. (2016). Không gian công cộng trong đô thị - Từ lý luận đến thiết kế. Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, (18). [9] Irwin, A., Erwin, H. Z. (2012). Public Places and Spaces. Springer, Berlin, Heidelberg. [10] Arendt, H. (2010). The Idea of Public Sphere. Lexington Books. [11] Debra, E., Tran, T. K. T. H., Pham, T. H. (2009). Public Spaces: How They Humanize Cities, HealthBridge - WBB Trust Dhaka. [12] Thomas, M. (1991). The Demise of Public Space. Town Planning Responses to City Change, 209–224. Avebury: Aldershot. [13] Gelh, J. (2011). Cities for People. Island Press. [14] Số 38/2010/NĐ-CP (2010). Nghị định về quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Chính Phủ Việt Nam. [15] Số 22/2019/TT-BXD (2019). Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia về Quy hoạch xây dựng. Bộ Xây dựng. [16] Douglass, M. (2009). Livable Cities: Conviviality Versus Neo-Developmentalism in Pacific Asia’s Urban Future. The Korea Spatial Planning Review, 59:3–36. [17] Gelh, J. (2013). Life between Buildings. Island Press. [18] Douglass, M. (2013). Livable Cities as Public Cities – The Challenge of City-making in a Global Age in Asia. Asia Research Institute National University of Singapore. [19] Feldman, R. M., Westphal, L. M. (2000). Sustaining human settlement: A challenge for the new millen- nium. Great Britain: Urban International Press. [20] Hoa, T. Q. (2011). Báo cáo kinh nghiệm quốc tế trong việc huy động sự tham gia cộng đồng, dự án quốc tế về Bảo tồn và phát triển bền vững Khu phố cổ Hà Nội. Phối hợp giữa trường Đại học Xây dựng, Đại học Chiba và Đại học nữ Showa (Nhật Bản). [21] Ngân, V. D. (2011). Xây dựng thương hiệu địa phương cho các đô thị nhìn từ thành phố Regina, Canada. Tạp chí Phát triển kinh tế - Xã hội, Đà Nẵng. [22] Hoa, T. (2018). Quy hoạch đô thị có sự tham gia của cộng đồng – Các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Tạp chí Quy hoạch Xây dựng- Bộ Xây dựng, (93):56–63. [23] Hoa, T. Q. (2012). Tổ chức giám sát, đánh giá cơ chế huy động sự tham gia của người dân trong quy hoạch đô thị tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (KHCNXD) - ĐHXD, 6(2):33– 44. [24] Hoa, T. Q. (2009). Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng đồng - Những vấn đề cần nghiên cứu cho việc áp dụng phương pháp tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (KHCNXD) - ĐHXD, 3 (3):54–61. [25] Thuỷ, N. T. (2020). Think Playgrounds: Sân chơi cho trẻ em - “cuộc chiến” giành lại ký ức của thế hệ mai sau. [26] Gia Phú (2020). Độc đáo con đường nghệ thuật Phúc Tân. 154
File đính kèm:
- to_chuc_quan_ly_khong_gian_cong_cong_thanh_pho_ha_noi_co_su.pdf