Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh
Không sử sách nào ghi chép các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong có lực lượng pháo binh từ lúc nào, mặc dù ta biết rằng quân đội các bên đã sử dụng súng rất sớm. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã kể một trận đánh năm 1620 giữa Tuyên Lộc hầu (Nguyễn Phúc Tuyên, cháu gọi chúa Sãi bằng
chú, con của Nguyễn Phúc Hà) và hai kẻ phản loạn (Văn Nham hầu Nguyễn Phúc Hiệp và Thạch Xuyên hầu Nguyễn Phúc Trạch, đều là anh của chúa Sãi)
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh
50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 * Thành phố Huế. QUÂN ĐỘI XỨ ĐÀNG TRONG: PHÁO BINH Lê Nguyễn Lưu* 1. Lực lượng pháo binh Không sử sách nào ghi chép các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong có lực lượng pháo binh từ lúc nào, mặc dù ta biết rằng quân đội các bên đã sử dụng súng rất sớm. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã kể một trận đánh năm 1620 giữa Tuyên Lộc hầu (Nguyễn Phúc Tuyên, cháu gọi chúa Sãi bằng chú, con của Nguyễn Phúc Hà) và hai kẻ phản loạn (Văn Nham hầu Nguyễn Phúc Hiệp và Thạch Xuyên hầu Nguyễn Phúc Trạch, đều là anh của chúa Sãi) như sau: “Nói đoạn, [Sãi vương] bèn lập đàn tấu cáo với trời đất, quỷ thần và các bậc tiên vương, rồi sai Tuyên Lộc làm tiên phong, chúa tự mình thống lĩnh đại quân thủy bộ đi sau tiếp ứng, thẳng tiến đến xứ Cồn Cát xã Ái Tử. Quân đôi bên đối trận đánh lớn, đạn bay như mưa, súng nổ ầm vang như sấm, nhưng chưa bên nào thắng bại. Tuyên Lộc cả giận múa tít tay đao sáng loáng như luồng chớp xông tới; Văn Nham, Thạch Xuyên cả kinh, liệu thế khó bề chống cự, vội vàng tháo lui, quân lính thua chạy tán loạn”.(1) Như vậy, hai bên đều có lính sử dụng súng, súng đại bác lẫn súng điểu thương, mà súng điểu thương chiếm phần nhiều, nên mới “đạn bay như mưa”. Có lính sử dụng súng, nhưng chưa chắc đã có những đội quân chuyên dùng súng, tức binh chủng pháo binh. Tuy nhiên ta biết hồi bấy giờ, đối với các chúa Nguyễn, nhu cầu phục vụ chiến tranh được đặt lên hàng đầu, nên song song với việc mua súng và đúc súng các loại, chúa Nguyễn cũng sớm thành lập các đội quân chuyên sử dụng súng, ngay trong thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614-1635). Họ không hoạt động độc lập. Một đạo bộ binh hay thủy binh thường phiên chế thêm một hay hai, ba đội (thuyền) súng, chẳng hạn binh Nội Bộ (đạo quân bộ của phủ chúa) có các thuyền Tả Vệ, Hữu Vệ, Nội Hoàng Kiếm, Trung Chi, Tiểu Chi, Tân Hậu Bộ, Trung Hậu Bộ..., Hữu Súng, Tả Súng, Tiền Súng, Hậu Súng, Toàn Nhất, Toàn Nhị..., hay binh Nội Thủy (đạo quân thủy của phủ chúa) có các thuyền Trung Kính, Trung Thủy, Tả Thủy, Hữu Thủy..., Tiền Trung Súng, Hậu Trung Súng, Nhuệ Súng, Trạch Đao.... Như thế là quân bộ hay quân thủy đều có những đơn vị súng kèm theo để hỗ trợ. Trong các đơn vị súng này, chắc vừa có lính sử dụng đại bác, vừa có lính sử dụng súng điểu thương. Súng điểu thương là loại súng “bắn chim”, tức súng tay, cũng gọi là súng hỏa mai, nhồi thuốc, nạp đạn rồi châm ngòi. Theo các chứng nhân phương Tây, 51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 lính xứ Đàng Trong sử dụng súng rất thành thạo. Giáo sĩ Friar Domingo Navarrette viết: “Quân lính của vương quốc này hoàn hảo nhất trong cả vùng, rất có kỷ luật. Nhà vua giữ lại ở triều đình 40.000 lính. Những người lính này tập bắn bia mỗi ngày và ai nhắm trúng nhất sẽ được thưởng một tấm lụa. Tôi đã nhiều lần nghe người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nói rằng họ đều là những nhà thiện xạ...”.(2) Chính quân đội này đã hai lần thị uy với tàu nước ngoài đến Thuận Hóa mon men gây sự, và lần nào cũng thắng lợi.(3) Giáo sĩ C. Borri cũng viết: “Họ tự huấn luyện để đảm bảo khả năng bằng các cuộc thực tập liên tục và các cuộc bắn bia; họ khá thành công vì thế họ kiêu ngạo về chuyện đó và tự tán tụng giá trị của mình; khi các tàu Âu châu đến hải cảng của họ, các thủy binh của nhà vua liền thách đố các xạ thủ của chúng ta, những người này biết rằng không thể so sánh với họ nên tránh cuộc thách thức chừng nào họ tránh được, vì do kinh nghiệm, họ biết rất rõ rằng những người lính thủy kia có thừa khả năng bắn trúng đích với đại bác của mình mà những người khác không làm được như với một khẩu súng hỏa mai được điều chỉnh chính xác”.(4) Cứ theo Đại Nam thực lục tiền biên, thì năm Nhâm Ngọ (1642), chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan sai đắp đất lập trường bắn tại xã Hoằng Phúc(5) để thao luyện thủy quân: “Một hôm, chúa ngự thuyền rồng đi chơi Cửa Eo, thấy thủy quân không được chỉnh tề, bèn ra lệnh cho ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang làm trường thao diễn thủy quân ở xã Hoằng Phúc (tức xã Hồng Phúc thuộc huyện Phú Vang bây giờ), đắp núi đất cao hơn 30 thước, rộng hơn 150 thước, cứ đến kỳ tháng 7 thì thao diễn phép bơi chèo và bắn súng, ai trúng thì thưởng vàng lụa”.(6) Lê Quý Đôn cũng nói đến việc này, nhưng hơi khác vài điểm: “Năm thứ 8, Nhâm Ngọ, sai binh dân ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang đắp trường tập thủy binh ở xã Hồng Phúc, đắp một gò đất cao hơn 30 thước, rộng hơn 120 thước, cứ đến tháng 7 thì thao luyện thủy quân, bơi thuyền bắn súng. Chiến thuyền bắn đại bác hễ trúng đích thì thưởng bạc lụa, bắn sai đích thì theo dấu mà tìm lấy đạn. Do đó thủy quân đều tinh thủy chiến”.(7) Đến năm Quý Mão (1663), vào tháng Năm, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần lại “cho rằng trong trận đánh ở Nhật Lệ, nghề bắn của quân ta chưa được tinh, muốn bắt chước phép tập bắn của Thái Tổ, sai đắp ụ ở Hoằng Phúc (chiều cao hơn 30 thước, chiều rộng hơn 130 thước), trước mặt đặt một cái xạ hầu, khiến thủy sư đi lại mà bắn thi, lấy bắn trúng hay không trúng mà định thưởng phạt. Từ đấy quân sĩ đều cố gắng, phép bắn ngày càng thêm tinh”.(8) Tất nhiên không riêng gì thủy quân mới tập bắn. Có lẽ lần này không phải làm chỗ mới, mà do chỗ cũ chỉnh đốn lại. Về sau, triều Nguyễn cũng mấy lần sửa đắp, như năm Minh Mạng thứ 2 (1821), tháng Năm, “Đắp ụ bắn súng ở Thanh Phước (tên xã), sai tướng sĩ hàng ngày diễn tập (ngày 2 lần, sáng từ trước khi mặt trời mọc một khắc bắt đầu, giọt đồng hồ xuống 5 khắc thì nghỉ; chiều giọt đồng hồ xuống 8 khắc bắt đầu, mặt trời lặn thì nghỉ. Tới khi 52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 gặp mưa thì thôi). Vua nhiều lần đến xem, định rõ lệ thưởng phạt (làm thuyền giả, bắn trúng mũi thuyền, cột buồm, thủy quân một phát thưởng 15 quan tiền, lục quân thưởng 10 quan tiền; trúng thân thuyền, thủy quân một phát thưởng 10 quan tiền, lục quân 5 quan tiền; có trúng mà một phát không vào ụ thì không theo l ... Quý Đôn cho biết: “Mùa xuân năm Bính Thân, vâng truyền rằng phàm bắt được súng đồng ở Thuận Hóa, nòng súng đã rộng không dùng được, cùng là đồ đồng, tấm đồng nặng lớn không dùng được và không chở đi được, thì đem phá hủy gấp mà đúc tiền cất chứa, đồng tiền nặng 1 đồng cân, đề chữ “Cảnh Hưng thông bảo”, rồi xem đúc được bao nhiêu, làm khải đệ lên, để chứa dùng vào việc ngoài biên. Kiêm đốc suất Đoan quận công sai Tả Tượng cơ là Lai Trung hầu coi việc đúc, mở xưởng đúc ở phía hữu trấn dinh, lấy cai đội cũ là Luận Bình hầu Văn Thế Nghị đảm nhiệm việc ốp làm, lấy người am hiểu các xã làm thợ. Đỉnh to, vạc lớn, thùng lớn của họ Nguyễn từ rộng 7, 8 thước, cao 3, 4 thước, nặng 700, 800 cân trở xuống, đều phá để đúc tiền. Ngày 22 tháng 2 bắt đầu làm, ngày 30 tháng 6 thì xong”.(43) Sau khi trừ chi phí, đúc được đến 23.962 quan. Rõ ràng là danh xưng Trường Tiền bắt đầu xuất hiện từ đấy, chính xác là 61Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 ngày 22 tháng Hai năm Bính Thân (10/4/1776), vị trí của nó là ở phía hữu trấn dinh, tức đô thành Phú Xuân, bên bờ bắc Sông Hương, nay ở trong khoảng từ đầu cầu Trường Tiền đến Thương Bạc. Vì vậy mà có danh xưng phố Trường Tiền, bến đò Trường Tiền. Trước đây, nhiều người “đi tìm” nguồn gốc danh xưng này, đều chỉ là võ đoán. Nhà Huế học L. Cadière điều tra cẩn thận cũng đành chịu, không trả lời được cụ thể, chỉ ghi chú: “Xưa kia ở gần chỗ này, nhưng ở một chỗ và một thời điểm không nhất định, có một sở đúc tiền, nó không những đặt tên cho bến đò mà ngay cả con sông Huế nữa, được người Annam và những người châu Âu đầu tiên gọi là sông Trường Tiền”. Có người lại cho là ở chỗ khách sạn Morin (tức khách sạn Saigon - Morin hiện nay), gần bờ nam Sông Hương; cũng có người cho là bên cạnh Trường Trung học cơ sở Nguyễn Tri Phương hiện nay, cách rất xa bờ nam Sông Hương. Phan Thuận An theo tài liệu của Phan Văn Dật cũng viết: “Ngày xưa, ở khu vực gần đầu phía bắc của cầu Trường Tiền hiện nay, đã có một “Sở đúc tiền đồng” của triều đình. Sở này đặt dưới quyền điều khiển của một ông thị lang Bộ Hộ”.(44) Không rõ bậc tiền bối họ Phan dựa vào tư liệu nào, nhưng triều đình nhà Nguyễn đã có cơ sở đúc ở xã Dương Xuân rồi (Phường Đúc vừa có sẵn phương tiện, vừa có sẵn nguyên liệu, vừa có sẵn thợ thuyền, rất tiện), lại có cục Bảo Tuyền ở ngoài Bắc Thành nữa; đúc tiền cũng không phải là việc thường xuyên, thường tiến hành khi vua mới lên ngôi, đổi niên hiệu, nên cần gì phải dựng thêm cơ sở riêng cho tốn kém; vả chăng, theo sử sách, mỗi khi có nhu cầu, vua xuống chỉ giao cho cục Bảo Tuyền ở Bắc Thành đúc rồi chở vào, vì ngoài ấy nguyên liệu dồi dào hơn ở Huế (đồng có thể sản xuất ở mỏ Tụ Long). Cho nên danh xưng này xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII, khi quân Trịnh chiếm đóng Thuận Hóa thời gian 1775- 1786, đã mở một cuộc đúc tiền lớn như Lê Quý Đôn viết (đã dẫn trên). L N L CHÚ THÍCH (1) Nguyễn Khoa Chiêm (2003), Nam triều công nghiệp diễn chí, bản dịch: Ngô Đức Thọ & Nguyễn Thúy Nga, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 115. (2) Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.65. (3) Lần thứ nhất năm Ất Dậu (1585), công tử Nguyễn Phúc Nguyên mới 23 tuổi, lính tuần báo có năm chiếc tàu Tây Dương (châu Âu) của “Hiển Quý tặc” (thật ra là tàu buôn của thương gia Nhật tên Bạch Tần Hiển Quý) đến đậu ngoài khơi vùng biển Cửa Việt, thả xuồng vào cướp phá ven duyên hải. Ông vâng mệnh chúa Tiên ra đánh chìm hai chiếc, còn ba chiếc chạy dài. Chúa Tiên khen ngợi: “Con ta thật là anh kiệt!”. Lần thứ hai năm 1644, ba chiếc tàu Ô Lan (tức Hà Lan) đến giúp quân Trịnh, tiến vào Cửa Eo diệu võ dương oai, chúa Thượng sai con là Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần ra đánh đuổi chạy tan, viên đô đốc tử trận trong chiếc tàu bị cháy chìm. (4) C. Borri, “Bản tường trình về xứ Đàng Trong”. Bản dịch: Tạp chí Những người bạn Cố đô Huế, (BAVH tập XVIII năm 1931), Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 401. 62 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 (5) Xã Hoằng Phúc có thể xem như một căn cứ địa của chúa Nguyễn cũng như vua Nguyễn. Có trường tập bắn, có xưởng đóng và sửa chữa tàu thuyền, lại có kỳ đài, lầu canh.... Xã được thành lập khoảng năm 1473 với tên Hoằng Phúc trên đất xứ Ô Thủy thuộc huyện Kim Hoa (vị khai canh là Niêm Long hầu, thuộc quân Cẩm Y Vệ thời Lê Thánh Tông); thời Lê - Mạc thuộc huyện Tư Vinh; sau năm 1687, đổi tên Hồng Phúc, thuộc tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang; thời Tây Sơn đổi tên Hồng Ân (vì húy tên thân phụ vua Quang Trung là Hồ Phi Phúc); đầu thế kỷ XIX (theo địa bạ thời Gia Long), trở lại tên Hồng Phúc; sau năm 1835, thuộc tổng Vĩnh Trị, huyện Hương Trà; từ năm 1848, đổi tên Thanh Phước (vì vua Tự Đức tên Hồng Nhậm, phải húy cả chữ “Hồng”); Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Trà; từ năm 1958, thuộc xã Quảng Lộc, quận Quảng Điền; sau năm 1975, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Trà; từ năm 1981, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Điền; từ năm 1991, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Trà. (6) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, bản dịch: Viện Sử học, tập Một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 55. (7) Lê Quý Đôn (1964), Phủ Biên tạp lục, bản dịch: Viện Sử học, Nxb Khoa học, Hà Nội, tr. 46. (8) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Một, tr. 80. (9) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Hai, tr. 135-136. (10) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Hai, tr. 368. (11) Đầu thế kỷ XX, nhà truyền giáo nước ngoài R. Morineau viết bài miêu tả in trên BAVH năm 1914: “Trường bia nằm bên tả ngạn sông Hương, phía trên ở làng Thanh Phước của huyện Hương Trà, tổng Vĩnh Trị và nối tiếp với xưởng tàu cũ cũng đặt tại làng ấy. Trường bia ấy không còn quan trọng như ngày xưa nữa. Nó đã bị sông nước xói mòn và khi gió mùa đông bắc dâng nước sông lên và làm lở dần vì bị sóng vả vào bờ, nếu sóng cứ tiếp tục không chuyển hướng thì trường bia ấy sẽ tiêu dần. Ngay mặt bằng của trường bia chỗ rộng nhất là 40m, trên cao chỉ còn được 3m, chiều dài mặt bằng còn 28m, nhưng phía trên chỉ được 8,5m. Chiều cao của ụ đất tối đa được 8m. Trường bia ấy làm toàn đất sét lấy cạnh đấy, đất của các ụ tàu xưởng sửa chữa ngày xưa” (Tạp chí Những người bạn Cố đô Huế, số năm 1914, bản dịch: Phạm Như Tùng, Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 89). (12) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr. 240. (13) Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, Nxb Sử học, Hà Nội, tr.102. (14) Thành Thế Vỹ, sđd, tr. 99-100. (15) Li Tana, sđd, tr. 63. (16) C. Borri, “Bản tường trình về xứ Đàng Trong”, sđd, tr. 401. (17) Đội Hoàng Sa được thành lập từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, sau đó là đội Bắc Hải. Theo tư liệu dã sử, thì chính con rể của chúa, một người Nhật, đã giúp chúa tổ chức đội này, còn sách Thực lục thì viết: “Mùa thu, tháng Bảy [năm Giáp Tuất (1754)], dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi đưa cho về. Chúa sai viết thư [cám ơn] (Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là “Vạn lý trường sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba v.v Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm, đến 63Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật, đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản” (ĐNTL, sđd, tập Một, tr. 164). (18) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 47. (19) Lê Quý Đôn, PBTL, sđd, tr. 357-358. (20) Phan Thanh Hải, “Phủ Phước Yên”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 2/1998, tr.23. (21) Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam 1592 - 1802, pp. 97-99. (22) L.Cadière, “Le quartier des Arènes” (Khu vực Hổ Quyền), Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH), 1924, p.312; Manguin (1972), Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Champa, pp.205 - 206. (23) Giấy tờ của làng Minh Hương đầu thế kỷ XIX, Giáo sư Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) có sử dụng khi nghiên cứu làng Minh Hương và phố Thanh Hà. (24) Hồi ký của Lefèbvre và Boiret đều dùng ngữ “installé à Thợ Đúc” chứ không dùng từ “Phường Đúc”. (25) Trong PBTL, Lê Quý Đôn cũng không xem phường đúc là một địa danh. (26) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr.558. Hoặc giả Lê Quý Đôn muốn nói một Trường Đúc khác; nếu thế, ta phải phân biệt hai cơ sở: Trường Đúc là nơi xây dựng các lò đúc, còn Trường Đồng là nơi có các nhà kho tập kết nguyên liệu và phế liệu đồng. (27) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr.558. (28) Chúng tôi có tham khảo ý kiến của nghệ nhân Phường Đúc Nguyễn Đạt trong phần viết về Phường Đúc này, trong một dịp tham dự lễ giỗ Tổ tại nhà thờ họ Nguyễn Kinh Nhơn. (29) L.Cadière, M.G.Coedès, “Les deux canons cochinchinois au Ministère de Bangkok”, BAVH, 1919, pp.528-532. Theo nghĩa tiếng Pháp, “La croix” là cái thập tự giá, nên dùng dấu cộng để viết tắt. (30) L.Cadière, “Le quartier des Arènes”, BAVH, 1924, p.308. (31) Maybon, Russier, Notion d’histoire d’Annam, Histoire moderne du pays d’Annam, p.97 - Trần Trọng Kim (1958), Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, tr.339. (32) Li Tana, Sđd, tr.63, 64. Ngay năm 1658, Giáo sĩ dòng tên Marquez còn nhận 10.000 lạng bạc của chúa Hiền để mua súng tại Macao, như đã dẫn ở trên. (33) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 313. (34) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 313. (35) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 350. (36) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.315. (37) Đây là ý kiến chúng tôi lấy từ các nghệ nhân Phường Đúc Huế, tiêu biểu là ông Nguyễn Đạt, thuộc họ Nguyễn Kinh Nhơn, và chúng tôi cũng cho như thế là chính xác. (38) Li Tana, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 64, 65. (39) Tứ đại khí: bốn vật dụng lớn bằng đồng của nước ta, gồm tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, cao khoảng 20m), tháp Báo Thiên (12 tầng, cao khoảng 70m), chuông Quy Điền (cao khoảng 3 sải - có lẽ là ba sải tay), vạc chùa Phổ Minh (sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6.150 cân); thời thuộc Minh (1407-1427), cả bốn thứ đều bị giặc lấy phá để đúc súng, chỉ còn bia đá ghi lại sự tích. 64 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 (40) Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, bản dịch của Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế, Huế, tr. 34. (41) Nguyễn Sinh Duy, “Nhật ký hành trình của James Bean”, tạp chí Huế Xưa & Nay, số 21, năm 1997, tr. 45. (42) Li Tana, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 67. (43) Lê Quý Đôn, PBTL, sđd, tr. 243. (44) Phan Thuận An, “Một đoạn tư liệu quý hiếm bằng chữ Hán về chợ Đông Ba”, in trong kỷ yếu hội thảo: Một trăm năm chợ Đông Ba, tr.48. TÓM TẮT Trong lực lượng quân đội của các chúa Nguyễn, pháo binh được coi là một binh chủng bên cạnh tượng binh, tuy chưa phải là lực lượng nòng cốt như bộ binh. Ngoài các cơ súng hoạt động độc lập, còn có các thuyền súng phiên chế vào các cơ bộ binh và thủy binh để hỗ trợ tác chiến. Thời kỳ Nguyễn Phúc Tần ở ngôi chúa là thời kỳ căng thẳng của chiến tranh Trịnh - Nguyễn, chúa cho lập trường tập bắn ở làng Hoằng Phúc (Thanh Phước, huyện Hương Trà). Theo những người phương Tây đã từng đến Đàng Trong, thì lính của chúa Nguyễn bấy giờ sử dụng súng rất giỏi. Súng là thứ vũ khí quan trọng, nhất là khi phòng thủ cũng như khi công đồn (đánh thành), gồm điểu thương (súng tay) và đại bác. Xứ Đàng Trong có nhu cầu rất cao về đại bác các cỡ, đặc biệt là trong thời gian chống nhau với quân Trịnh (1627-1672). Bấy giờ, đại bác của chúa Nguyễn xuất từ ba nguồn, một là vớt được ngoài biển do tàu phương Tây bị tai nạn chìm trừ trước, hai là do hoạt động thương mại, gởi mua ở các nước ngoài, và ba là do tượng ty (cục thợ) của nhà nước đúc, chỉ cần mua nguyên liệu đồng. Theo Lê Quý Đôn, thợ Phú Xuân (gốc hai làng Phan Xá và Hoàng Giang ở Quảng Bình) đúc súng rất khéo. Từ khi dời phủ chính vào Kim Long và Phú Xuân, các chúa Nguyễn thiết lập cơ sở đúc súng tại bờ nam Sông Hương, trên đất xã Dương Xuân, gọi là Trường Đồng hay Trường Đúc, tại đây, đã có một người thợ phương Tây tham gia về kỹ thuật và trang trí, là Joaõ da Cruz. ABSTRACT ARMED FORCES OF COCHINCHINA: ARTILLARY Under the Nguyen lords, beside elephant troops, artillery was considered one of the armed forces though it was not a core force as the infantry. In addition to independent artillery troops, there were also gunboats in infantry troops and naval forces to support in combat. During the rule of Lord Nguyễn Phúc Tần, when the Trịnh – Nguyễn war was intensive, the Lord had a firing range built in Hoang Phuc village (Thanh Phuoc commune, Huong Tra district). According to Westerners who once came to Cochinchina, the Nguyen soldiers used their guns very well. Guns, including muskets and cannons, are an important weapon in defence as well as in assault (attacking fortifications). During the war against the Trịnh Lords (1627-1672), Cochinchina had a very high demand for cannons of all sizes. At that time, cannons of the Nguyễn Lords came from three sources;, the first was from western shipwrecks at sea, the second from trading with foreign merchants, and the third was cast by the arsenal. According to Lê Qúy Đôn, craftmen in Phú Xuân (coming from Phan Xá and Hoàng Giang villages, Quảng Bình province) were skilful at casting cannons. When transferring the residence to Kim Long and Phú Xuân, Nguyễn Lords set up gun casting plant on the south bank of Perfume River, in the area of Duong Xuan Commune, called Trường Đồng or Trường Đúc. There was a western craftman, Joaõ da Cruz, taking part in that work as a technician and decorator.
File đính kèm:
- quan_doi_xu_dang_trong_phao_binh.pdf