Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du. Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 123 người dân địa phương bằng bảng câu hỏi và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả và phân tích nhân tố khám phá.

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 1

Trang 1

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 2

Trang 2

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 3

Trang 3

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 4

Trang 4

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 5

Trang 5

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 6

Trang 6

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 7

Trang 7

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 8

Trang 8

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 9

Trang 9

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang Danh Thịnh 12/01/2024 2480
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
97 
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 
TẠI QUẦN ĐẢO NAM DU, HUYỆN KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG 
Lê Thị Tố Quyên1, Lý Mỷ Tiên1, Đào Ngọc Cảnh1, Nguyễn Trọng Nhân1 
1Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 09/03/2018 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
31/05/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 
06/2018 
Title: 
Some factors influencing on 
sustainable tourism 
development in Nam Du 
archipelago, Kien Hai district, 
Kien Giang province 
Keywords: 
Impact factors, Nam Du, 
sustainable tourism 
Từ khóa: 
Nhân tố ảnh hưởng, Nam Du, 
du lịch bền vững 
ABSTRACT 
The research aims to identify factors that affect sustainable tourism 
development in Nam Du archipelago. Data was collected from 123 local 
people households by questionnaires and then analyzed by Descriptive 
Statistics and EFA. The result reveals that there are ten factors influencing 
on the sustainable tourism development in Nam Du, including "social 
security and traffic accidents", "economic development", "garbage status", 
"management of local government", "development planning and distribution 
of tourism interests", "cultural value", "tourists return to Nam Du and travel 
time", "satisfaction", "price of goods and services" and "warning and rescue 
systems". 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát 
triển du lịch bền vững tại quần đảo Nam Du. Nghiên cứu đã tiến hành khảo 
sát 123 người dân địa phương bằng bảng câu hỏi và xử lý bằng phương pháp 
thống kê mô tả và phân tích nhân tố khám phá. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 
rằng có 10 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch bền vững đảo 
Nam Du là: “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn giao thông”, “sự phát triển 
kinh tế”, “tình trạng rác thải”, “công tác quản lý của chính quyền địa 
phương”, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi ích du lịch”, “giá trị văn 
hóa”, “lượng khách du lịch trở lại Nam Du và thời gian hoạt động du lịch”, 
“sự hài lòng”, “giá cả hàng hóa và dịch vụ”, “hệ thống cảnh báo và cứu 
hộ”. 
1. GIỚI THIỆU 
Quần đảo Nam Du nằm về phía Đông Nam của 
đảo Phú Quốc, trong Vịnh Thái Lan, có tổng diện 
tích khoảng 1054 ha, được quản lý bởi hai xã là 
An Sơn và xã Nam Du thuộc huyện Kiên Hải, tỉnh 
Kiên Giang. Quần đảo bao gồm khoảng 21 đảo 
lớn nhỏ, trong đó những hòn có đông dân cư sinh 
sống là Hòn Củ Tron (Hòn Lớn), Hòn Ngang và 
Hòn Mấu, còn lại là những hòn còn rất hoang sơ, 
ít cư dân sinh sống như Hòn Nồm, Hòn Dầu.... 
Hòn lớn nhất và tập trung đông dân nhất là Hòn 
Lớn thuộc xã An Sơn, có diện tích 779,10 ha với 
1404 hộ dân với 4834 nhân khẩu (Uỷ ban Nhân 
dân xã An Sơn [UBNDXAS], 2017). Du khách đi 
tàu cao tốc đến Nam Du, sẽ cập bến tại Hòn Lớn, 
sau đó có thể thuê tàu địa phương đi tham quan 
các hòn khác. Nam Du được chú ý bởi có nhiều 
điểm tham quan đẹp, còn hoang sơ và môi trường 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
98 
trong lành. Một số bãi biển đẹp như bãi Chướng 
(Hòn Mấu), bãi Mến, bãi Ngự (Hòn Lớn), bãi 
Chệt Ngoài ra, Nam Du còn thu hút du khách 
bởi nguồn hải sản tươi sống và một số lễ hội 
truyền thống tiêu biểu như lễ hội Vía Bà Chúa 
Xứ, lễ hội cúng Ông Bổn, lễ hội Lăng Ông. 
Trong những năm gần đây, số lượng du khách 
ngày càng tăng nhanh. Theo số liệu thống kê của 
Uỷ ban Nhân dân xã An Sơn năm 2015, tổng số 
khách du lịch đến Nam Du tham quan là 24382 
lượt khách. Đến năm 2016, số lượng khách đạt 
72619 khách, tăng gấp 3 lần so với cùng kì năm 
trước. Số lượng khách du lịch đến Nam Du thống 
kê mới nhất 6 tháng đầu năm 2017 đã đạt 59794 
lượt khách, gần bằng số lượng cả năm 2016 
(UBNDXAS, 2017). Cùng với sự phát triển nhanh 
về du lịch, quần đảo Nam Du đang đứng trước 
những thách thức không bền vững nếu không 
được kiểm soát đánh giá dựa trên các tiêu chí bền 
vững. Do đó rất cần nghiên cứu về đánh giá các 
nhân tố ảnh hướng đến sự phát triển du lịch bền 
vững, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những 
tồn tại, đồng thời bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, 
bản sắc văn hoá và đem lại lợi kinh tế bền vững 
cho người dân địa phương tại đảo Nam Du, nhằm 
góp phần thiết thực vào phát triển ngành du lịch 
tại đây, đồng thời phát huy những tiềm năng, thế 
mạnh du lịch của đảo này theo hướng bền vững. 
Nghiên cứu dựa trên đánh giá của người dân địa 
phương về nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du 
lịch bền vững, nhằm đưa ra giải pháp thiết thực và 
định hướng phù hợp để phát triển du lịch nơi đây, 
đáp ứng yêu cầu mang tính cấp thiết đang được 
đặt ra ở quần đảo Nam Du. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu 
Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO, 2004) đưa ra các 
chỉ tiêu đánh giá chung cho phát triển du lịch bền 
vững gồm 10 chỉ tiêu: 1) Bảo vệ điểm du lịch; 2) 
Áp lực; 3) Cường độ sử dụng; 4) Tác động xã hội; 
5) Mức độ kiểm soát; 6) Quản lý chất thải; 7) Quá 
trình lập quy hoạch; 8) Các hệ sinh thái quan 
trọng; 9) Sự thỏa mãn của du khách; 10) Sự thỏa 
mãn của địa phương. 
Theo nghiên cứu của Machado (2003) về “Du lịch 
và phát triển du lịch bền vững, khả năng cho phát 
triển du lịch ở Việt Nam”, tác giả đã đưa ra các 
yếu tố để so sánh sự phát triển du lịch bền vững 
và phát triển du lịch không bền vững được đề cập 
bao gồm 24 yếu tố: 1) Tốc độ phát triển; 2) Mức 
độ kiểm soát; 3) Quy mô; 4) Mục tiêu; 5) Phương 
pháp tiếp cận; 6) Phương thức; 7) Đối tượng tham 
gia kiểm soát; 8) Chiến lược; 9) Kế hoạch; 10) 
Mức độ quan tâm; 11) Áp lực và lợi ích; 12) Quản 
lý; 13) Nhân lực sử dụng; 14) Quy hoạch kiến 
trúc; 15) Marketing; 16) Sử dụng nguồn lực; 17) 
Tái sinh nguồn lực; 18) Hàng hóa; 19) Nguồn 
nhân lực; 20) Du khách; 21) Học tiếng địa 
phương; 22) Du lịch tình dục; 23) Thái độ du 
khách; 24) Sự trung thành của du khách. Một 
nhóm các chuyên gia của Ủy ban Liên minh châu 
Âu đã đề xuất các chỉ số so sánh để theo dõi  ... biến tốt nhờ vào hoạt động du lịch. Theo 
thống kê của UBNDXAN (2017), doanh thu từ 
ngành dịch vụ du lịch của xã đã tăng từ 240,5 tỷ 
vào năm 2015 lên đến 375 tỷ vào năm 2016, tăng 
khoảng 135 tỷ trong một năm, nguyên nhân chủ 
yếu là nhờ du lịch phát triển, kéo theo nhiều loại 
hình kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển, thu 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
106 
nhập của một bộ phận người dân được cải thiện rõ 
rệt, một bộ phận người dân thông qua hoạt động 
du lịch mà cải thiện đời sống, thoát nghèo. Đối 
với các biến X1, X2, X4 và X3, các chỉ số trung 
bình đều ở mức cao (lần lượt là 3.84, 3.87, 3.67 
và 3.81), càng chứng minh du lịch đang có những 
tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế ở Nam 
Du. 
F3 = 0,411 X27 + 0,393 X26 + 0,332 X28 
Nhân tố 3, “tình trạng rác thải” chịu sự tác động 
của 3 biến: X27, X26 và X28. Trong đó, biến X27 và 
X26 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố 
lớn nhất. Vấn đề rác thải là một trong những vấn 
đề nan giải đang được đặt ra ở Nam Du, do đó các 
biến X27, X26 và X28 đều được đánh giá ở mức cao 
(lần lượt là 3.91, 3.90 và 3.54). Là quần đảo cách 
khá xa đất liền, trên đảo lại không có hệ thống xử 
lý rác thải nên rác thải phải được chuyển từ đảo 
vào đất liền, vừa tốn kém vừa mất thời gian. 
Thêm vào đó, du khách đến đây đông đúc, dẫn 
đến lượng rác thải sinh hoạt cũng tăng nhanh, vấn 
đề xử lý rác thải càng trở nên cấp bách hơn bao 
giờ hết. Một bộ phận người dân và du khách xử lý 
rác thải bằng cách quăng xuống biển, đều này gây 
mất mỹ quan và làm ô nhiễm môi trường. Nhiều 
bãi biển ở Nam Du có rác trôi bồng bềnh, tạo 
thành những bãi rác cục bộ cạnh bãi biển, làm mất 
đi vẻ đẹp trong lành vốn có ở đây. 
F4 = 0,391 X38 + 0,372 X37 + 0,355 X39 + 0,262 
X40 
Nhân tố 4, “công tác quản lý của chính quyền địa 
phương” chịu sự tác động của 4 biến: X38, X37, 
X39 và X40. Trong đó, biến X38 và X37 tác động 
mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn nhất. Chính 
quyền địa phương có những quan tâm nhất định 
đến phát triển du lịch của địa phương. Từ năm 
2015, UBNDXAN bắt đầu quan tâm thống kê số 
lượt khách đến Nam Du, tổ chức các lớp tập huấn 
nghiệp vụ cho người dân địa phương có tham gia 
vào hoạt động du lịch. Gần đây nhất là kết hợp 
với Trường Cao đẳng - Kinh tế - Kĩ thuật Lâm 
Đồng để tổ chức lớp hướng dẫn viên du lịch trong 
khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 
12 năm 2017 cho người dân địa phương, nhằm 
cấp chứng chỉ sơ cấp hướng dẫn viên du lịch cho 
người dân địa phương. Chính quyền địa phương 
cũng rất quan tâm đến tình hình an toàn tại các hộ 
kinh doanh du lịch, kiểm tra thiết bị phòng chống 
cháy nổ ở hộ kinh doanh cũng như trên tàu vận 
chuyển khách du lịch, ban hành bảng giá dịch vụ 
cho các cơ sở kinh doanh du lịch. Nhìn chung, các 
biến X38, X37, X39 và X40 đều được đánh giá khá 
cao (3.54, 3.44, 3.76 và 3.67), chứng tỏ sự quan 
tâm của chính quyền địa phương đến sự phát triển 
du lịch tại địa phương, tuy nhiên hiện nay nơi đây 
vẫn có những kế hoạch phát triển, quy hoạch du 
lịch cụ thể trong thời gian dài. 
F5 = 0,453 X8 + 0,380 X7 
Nhân tố 5, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi 
ích du lịch” chịu sự tác động của 2 biến: X8 và X7. 
Trong đó, biến X8 tác động mạnh nhất do có điểm 
số nhân tố lớn nhất. Du lịch tác động tốt đến kinh 
tế địa phương, tuy nhiên hiện tại việc phân bổ 
nguồn lợi từ du lịch trong cộng đồng địa phương 
vẫn chưa đồng đều, bên cạnh một bộ phận người 
dân tăng thu nhập từ hoạt động du lịch thì vẫn còn 
một bộ phận chịu tác động tiêu cực, do không 
tham gia vào hoạt động du lịch và chịu ảnh hưởng 
từ việc giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng nhanh. Thêm 
vào đó, phát triển du lịch chỉ tập trung ở khu vực 
gần bến tàu đón khách, còn lại đa số ít phát triển. 
Các biến X8 và X7 đều được đánh giá ở mức cao 
(lần lượt là 3.8 và 4.02). 
F6 = 0,465 X23 + 0,290 X18 + 0,300 X22 + 0,290 
X21 
Nhân tố 6, “giá trị văn hóa” chịu sự tác động của 
4 biến: X23, X18, X22 và X21. Trong đó, biến X23 và 
X22 tác động mạnh nhất do có điểm số nhân tố lớn 
nhất. Hiện tại, ở Nam Du có ba lễ hội lớn là lễ hội 
Bà Chúa Xứ, lễ cúng Lăng Ông và lễ cúng Ông 
Bổn, vào các ngày lễ hội diễn ra có khá đông du 
khách tham gia, từ đó làm tăng thêm tính quy mô 
của lễ hội, hiện tại hoạt động du lịch chưa tác 
động đến văn hóa tín ngưỡng địa phương, không 
xuất hiện loại hình thương mại hóa các văn hóa, 
tín ngưỡng địa phương để phục vụ cho phát triển 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
107 
du lịch. Người dân trùng tu, tôn tạo di tích vì niềm 
tin tín ngưỡng chứ không nhằm thu hút du lịch, 
các biến X22 và X21 đều được đánh giá ở mức 
trung bình (3.0 và 3.23). Hoạt động du lịch chỉ 
mới diễn ra mạnh trong vài năm gần đây nên hầu 
như vẫn chưa tác động mạnh đến văn hóa bản địa 
của địa phương, người dân vẫn lưu giữ được 
những giá trị văn hóa truyền thống, ở Nam Du 
cũng rất ít trường hợp trẻ em bỏ học để tham gia 
hoạt động du lịch, các biến X23, X18 được đánh giá 
ở mức thấp (lần lượt là 2.76 và 2.5). 
F7 = 0,468 X33 + 0,469 X34 
Nhân tố 7, “lượng khách du lịch trở lại Nam Du 
và thời gian hoạt động du lịch” chịu sự tác động 
của 2 biến: X33 và X34. Trong đó, biến X34 tác 
động mạnh nhất. Hiện tại, Nam Du vẫn còn là 
điểm du lịch mới, đang thu hút du khách, phong 
cảnh còn mang vẻ hoang sơ, giá cả dịch vụ chưa 
quá cao, tình hình an ninh trật tự còn khá tốt nên 
du khách đến lần đầu thường có xu hướng mong 
muốn quay lại, đồng thời mong muốn sẽ kéo dài 
thời gian nghỉ lại, các biến X33 và X34 đều được 
đánh giá khá cao (3.73 và 3.72). 
F8 = 0,557 X42 + 0,484 X41 
Nhân tố 8, “sự hài lòng” chịu sự tác động của 2 
biến: X42 và X41 Trong đó, biến X42 tác động 
mạnh nhất. Nhìn chung, đa phần du khách cảm 
thấy hài lòng với hoạt động du lịch tại Nam Du 
bởi sự thân thiện của người dân địa phương, 
phong cảnh tự nhiên đẹp, giá cả dịch vụ chưa 
cao, các biến X42 và X41 đều được đánh giá ở 
mức cao (3.85 và 3.79). 
F9 = 0,518 X5 + 0,410 X6 
Nhân tố 9, “giá cả hàng hóa và dịch vụ” chịu sự 
tác động của 2 biến: X5 và X6. Trong đó, biến X5 
tác động mạnh nhất. Du lịch phát triển thường kéo 
theo giá đất, giá dịch vụ, giá cả hàng hóa tiêu 
dùng ở đó tăng cao hơn so với bình thường. Ở 
Nam Du, đối với những khu vực trung tâm, có 
đông du khách, giá đất tăng khá nhanh, thêm vào 
đó các mặt hàng hóa cũng tăng nhanh do nhu cầu 
tăng cao khi khách đến, vào các ngày cuối tuần 
khi đông khách thì giá thu mua hải sản của các 
thương lái cũng cao hơn, giúp ngư dân ở đây bán 
được giá nhưng người mua ở địa phương lại phải 
chi nhiều tiền hơn mới mua được sản phẩm. Các 
biến X5 và X6 có chỉ số trung bình cao (3.74 và 
3.68) phần nào đã chứng minh được những tác 
động của du lịch đến giá cả ở địa phương. 
F10 = 0,630 X16 
Nhân tố 10, “hệ thống cảnh báo và cứu hộ” chỉ 
chịu sự tác động của biến X16. Ở các bãi biển của 
Nam Du hiện nay vẫn chưa có các hệ thống cứu 
hộ, chủ yếu là người dân địa phương khi đảm 
nhận nhiệm vụ chở du khách đi tham quan sẽ có 
sự nhắc nhở, cảnh báo du khách những khu vực 
biển sâu, cần chú ý, cũng như giúp đỡ du khách 
khi xảy ra sự cố, biến X16 được đánh giá ở mức 
trung bình (3.33). 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 10 nhóm 
nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DLBV đảo 
Nam Du là: “tình trạng an ninh xã hội và tai nạn 
giao thông”, “sự phát triển kinh tế”, “tình trạng 
rác thải”, “công tác quản lý của chính quyền địa 
phương”, “quy hoạch phát triển và phân chia lợi 
ích du lịch”, “giá trị văn hóa”, “lượng khách du 
lịch trở lại Nam Du và thời gian hoạt động du 
lịch”, “sự hài lòng”, “giá cả hàng hóa và dịch vụ”, 
“hệ thống cảnh báo và cứu hộ”. Vấn đề rác thải từ 
sinh hoạt bị người dân vứt xuống biển mà chưa có 
biện pháp xử lý là cần được quan tâm. Do đó để 
phát triển du lịch Nam Du theo hướng bền vững, 
cần có sự liên kết của chính quyền địa phương, 
người dân, khách du lịch và công ty du lịch, từ đó 
nâng cao nhận thức của người dân và du khách 
trong việc bảo vệ môi trường biển và giữ gìn các 
nét văn hoá của địa phương. Tác giả xin đề xuất 
một số giải pháp để phát triển du lịch Nam Du 
theo hướng bền vững như sau: 
Giải pháp về tình trạng an ninh xã hội và an 
toàn du lịch: Hệ thống giao thông trên đảo cần 
được nâng cấp và mở rộng để du khách dễ dàng di 
chuyển, nên có bãi để xe tại khu vực xã An Sơn 
nhằm tránh ùn tắc. Chính quyền cần thành lập đội 
tuần tra tại các địa điểm như: Bãi Ngự, Bãi Sỏi, 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
108 
Hòn Mấu, Hòn Lớn, Hòn Ngang những nơi có 
nhiều du khách để đảm bảo an ninh trật tự và 
tránh xảy ra những tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng 
đến sự phát triển du lịch tại đảo. Đảo cần có tàu 
cứu hộ để vận chuyển du khách khi gặp tình 
huống nguy hiểm. Các bãi biển nên có biển cấm, 
biển báo nguy hiểm để cảnh báo du khách và đảm 
bảo an toàn về người và tài sản 
Giải pháp về phát triển kinh tế: Giá cả hàng hóa 
trên đảo nên được điều chỉnh hợp lý và có bảng 
giá quy định rõ ràng như giá các mặt hàng lưu 
niệm, giá tàu tham quan du lịch, giá thức ăn, giá 
đồ uống. Chính quyền địa phương nên có chính 
sách hỗ trợ vốn cho người dân kinh doanh hoạt 
động du lịch để tạo việc làm và tăng thêm thu 
nhập cho kinh tế địa phương. Khuyến khích các 
bộ phận dân cư tham gia các hoạt động kinh 
doanh du lịch ở các lĩnh vực khác nhau để có sự 
phân chia lợi ích đồng đều trong cộng đồng địa 
phương. 
Giải pháp về tình trạng rác thải: chính quyền địa 
phương cần tuyên truyền, nâng cao ý thức đến 
người dân và du khách trong việc bảo việc môi 
trường quanh đảo. Xây dựng hệ thống xử lý rác 
thải, cơ sở tái chế rác thải và trang bị thêm nhiều 
thùng rác quanh đảo tạo điều kiện để người dân và 
du khách có nơi để rác đúng quy định; nên có biện 
pháp xử lý các hành vi thải nước thải trực tiếp 
xuống biển của các hộ kinh doanh du lịch; có 
chính sách phân loại rác thải và xây dựng quy 
trình xử lý thích hợp; có thể xử lý rác thải bằng 
các phương pháp như: chôn lấp hợp vệ sinh, thiêu 
đốt, chế biến thành phân ủ để dùng trong nông 
nghiệp. 
Giải pháp về công tác quản lý của chính quyền 
địa phương và cơ sở hạ tầng: đẩy mạnh các 
chính sách quảng bá nhằm cung cấp thông tin du 
lịch của địa phương tới du khách. Chính quyền 
kêu gọi đầu tư để xây dựng và nâng cao cơ sở hạ 
tầng trên đảo, đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân 
và du khách. Hỗ trợ và tư vấn người dân phát triển 
loại hình du lịch làng nghề, nuôi trồng thủy sản để 
tăng thêm thu nhập và cải thiện kinh tế. Tổ chức 
các tuyến du lịch trên đảo trên cơ sở kết nối các 
sản phẩm du lịch đặc trưng, khai thác một số tour 
mới như: tour du lịch khám phá Hải Đăng Nam 
Du bằng xe đạp; tour du lịch cho du khách trải 
nghiệm làm ngư dân; tour du lịch nghỉ ngơi kết 
hợp giải trí như đánh bóng chuyền bãi biển, chèo 
thuyền trên cát hay chơi teambuilding, kết nối 
Nam Du với các trung tâm du lịch khác. Con 
đường quanh đảo cần được đầu tư và nâng cấp để 
phát triển loại hình du lịch đi quanh đảo bằng xe 
đạp tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cho du 
khách. Đảo cần có một bệnh viện lớn để có thể 
khám chữa bệnh và kiểm soát dịch bệnh liên quan 
đến du lịch tại đảo. Cần đầu tư xây dựng cảng 
biển để phân chia nơi neo đậu giữa tàu khách du 
lịch và tàu đánh cá của ngư dân nhằm giảm thiểu 
tình trạng đông đúc du khách trên cầu cảng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Cooper, C. (2000). Tourism – Principles and 
Practice. London: Longman publication 
Hardy, A., & Beeton, R. (2001). Sustainable 
tourism or maintainable tourism: Managing 
resources for more than average outcomes. 
Journal of Sustainable Tourism, 9(3), 168-92. 
https://doi.org/10.1080/09669580108667397 
Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). 
Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS (tập 1& 
2). Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức. 
Kristina & Sandaa. (2010). Sustainable tourism 
development. Croatia: Faculty of Economics. 
Machado, A. (2003). Tourism and Sustainable 
Development, Capacity Building for Tourism 
Development in VietNam. VietNam: VNAT 
and FUDESO. 
Nguyễn Văn Dung. (2010). Phương pháp nghiên 
cứu trong kinh doanh (Nguyễn Văn Dung, 
Biên dịch). Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tài 
chính. (Quyển sách gốc được xuất bản năm 
2000). 
Nguyễn Đình Hoè & Vũ Văn Hiếu. (2004). Du 
lịch bền vững. Hà Nội: Nhà xuất bản Quốc 
Gia. 
Nguyễn Đình Thọ. (2011). Phương pháp thống kê 
trong nghiên cứu xã hội. Hồ Chí Minh: Nhà 
xuất bản Trẻ. 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 97 – 109 
109 
Ritchie, J. (1999). Crafting a value-driven vision 
for a national tourism treasure. Tourism 
Management, 20(3), 273-82. 
https://doi.org/10.1016/S0261-5177(98)00123-X 
Simpson, K. (2001). Strategic planning and 
community involvement as contributors to 
sustainable tourism development. Current 
Issues in Tourism, 4 (1), 3-41. 
https://doi.org/10.1080/13683500108667880 
Sirakaya, E., Uysal, M., Hammitt, W., & Vaske, J. 
(2011). Research Methods for Leisure, 
Recreation and Tourism. Cambridge: 
Cambridge University Press. 
United Nations. (2003). Earth Summit Agenda 21. 
New York: United Nations. 
Uỷ ban Nhân dân xã An Sơn. (2017). Số liệu 
thống kê của Ủy ban Nhân dân xã An Sơn năm 
2017. 
Welford, R, & Ytterhus, B. (2004). Sustainable 
development and tourism destination 
management: A case study of the Lillehammer 
region, Norway. International Journal of 
Sustainable Development and World Ecology, 
11(4), 410-22. 
https://doi.org/10.1080/13504500409469843 
World Tourism Organization. (1993). Sustainable 
Tourism Development: Guide for Local 
Planners, World Tourism Organization: 
Madrid. 
World Tourism Organization. (2004). Indicators 
of Sustainable Development for Tourism 
Destinations: A Guidebook, World Tourism 
Organization: Madrid. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_nhan_to_anh_huong_den_su_phat_trien_du_lich_ben_vung_t.pdf