Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông

Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, giúp học sinh tăng cường kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề của thực tiễn.

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 1

Trang 1

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 2

Trang 2

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 3

Trang 3

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 4

Trang 4

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 5

Trang 5

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 6

Trang 6

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 11/01/2024 2620
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông

Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông
Nguyễn Thúc Cảnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 97 - 103 
 97
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CÓ NỘI DUNG THỰC TẾ 
TRONG GIẢNG DẠY CƠ HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
Nguyễn Thúc Cảnh* 
Trường Đại học Sư phạm quốc gia Moscow 
TÓM TẮT 
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu đổi mới nội dung, 
phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển 
năng lực, giúp học sinh tăng cường kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết 
những vấn đề của thực tiễn. Sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học là một phương tiện 
quan trọng trong dạy học giải quyết vấn đề. Bài tập Vật lý có tác dụng tích cực trong việc ôn tập, 
đào sâu, mở rộng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Vận dụng quan điểm dạy học 
giải quyết vấn đề vào quá trình dạy học môn Vật lý ở trung học phổ thông, bài báo này nghiên cứu 
tầm quan trọng của bài tập Vật lý, trong đó bài tập có nội dung thực tế phần cơ học là một phương 
tiện có hiệu quả cao trong việc hình thành cho học sinh kỹ năng vận dụng kiến thức vào các tình 
huống cụ thể trong cuộc sống và tích lũy kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. 
Từ khóa: Bài tập, thực tế, giảng dạy, cơ học, trung học phổ thông, Việt Nam 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Nền giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay 
đang thực hiện bước chuyển từ chương trình 
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng 
lực của người học – từ chỗ quan tâm tới việc 
học sinh học được gì đến việc học sinh làm 
được cái gì thông qua việc học. Để thực hiện 
được điều đó, người dạy nhất định phải thực 
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp 
dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang 
dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn 
luyện kỹ năng và hình thành năng lực; phải 
chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ chủ 
yếu kiểm tra về trí nhớ của người học sang 
kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến 
thức của người học để giải quyết vấn đề để có 
tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng 
của hoạt động dạy học và giáo dục. 
Ở nước ta đã bắt đầu áp dụng “Chương trình 
dạy học định hướng kết quả đầu ra” nhằm 
đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, 
thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các 
phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận 
dụng tri thức trong những tình huống thực 
tiễn nhằm chuẩn bị cho người học năng lực 
giải quyết các tình huống của cuộc sống và 
nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh 
vai trò của người học với tư cách là chủ thể 
của quá trình nhận thức. Chú trọng việc xem 
* Tel: 0936468949; Email: nguyenthuccanhmoscow@gmail.com 
kết quả học tập của học sinh là “sản phẩm 
cuối cùng” của quá trình dạy học. 
Một trong các biện pháp đổi mới phương 
pháp dạy học là vận dụng quan điểm dạy học 
giải quyết vấn đề. Dạy học giải quyết vấn đề 
(dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và 
giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm 
phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết 
và giải quyết vấn đề. Học sinh được đặt trong 
một tình huống có vấn đề, đó là tình huống 
chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua 
việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội 
tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. 
Dạy học giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở lý 
thuyết nhận thức. Theo quan điểm của tâm lý 
học nhận thức, giải quyết vấn đề có vai trò 
đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư 
duy và nhận thức của con người. “Tư duy chỉ 
bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề” 
(Rubinstein). Vì vậy theo quan điểm dạy học 
giải quyết vấn đề, quá trình dạy học được tổ 
chức thông qua việc giải quyết các vấn đề. 
VAI TRÒ CỦA BÀI TẬP VẬT LÝ TRONG 
QUÁ TRÌNH DẠY HỌC 
Sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy 
học là một phương tiện rất quan trọng trong 
dạy học giải quyết vấn đề. Bởi vì các bài tập 
có tầm quan trọng trong việc xây dựng kiến 
thức mới, ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức, 
rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh, giúp 
học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn 
luyện cho các em vận dụng kiến thức một 
Nguyễn Thúc Cảnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 97 - 103 
 98
cách khái quát, thói quen làm việc tự lực từ 
đó nâng cao chất lượng của quá trình dạy học. 
Giải bài tập là một phần không thể thiếu của 
hầu hết các bài học. Trong các bài học phức 
hợp, chúng được sử dụng hai lần: khi thăm dò 
ý kiến học sinh và khi củng cố tài liệu đã học. 
Trong quá trình dạy học Vật lý thì việc giải 
các bài tập Vật lý trong quá trình học tập có 
một giá trị rất lớn. Theo X.E.Camennetxki – 
V.P.Ôrêkhốp thì “Bài tập Vật lý là phương 
tiện để dạy học và giáo dục học sinh” [1]. 
Trong một số trường hợp, bản thân việc 
nghiên cứu tài liệu học tập cũng tựa như là 
việc giải những bài tập Vật lý nhất định. Vì 
vậy, không phải ngẫu nhiên nhiên mà bài tập 
được dùng vừa để gây tình huống có vấn đề 
trong giờ học, vừa để cụ thể hóa những điều 
kiện khi phát hiện thực chất của các đối tượng 
nghiên cứu, vừa để củng cố những kết luận 
đạt được [2]. Cũng theo X.E.Camennetxki – 
V.P.Ôrêkhốp: bài tập Vật lý được hiểu là một 
vấn đề được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết nhờ 
những suy luận lôgic, những phép toán và thí 
nghiệm dựa trên cơ sở các định luật và các 
phương pháp Vật lý. Hiểu theo nghĩa rộng thì 
mỗi một vấn đề xuất hiện do nghiên cứu tài 
liệu giáo khoa cũng chính là một bài tập đối 
với học sinh. Sự tư duy định hướng một cách 
tích cực luôn luôn là việc giải bài tập [1]. 
Trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận về tầm 
quan trọng của bài tập Vật lý từ trước đến nay 
đã có nhiều công trình của các tác giả như 
X.E.Camennetxki – V.P.Ôrêkhốp [1], Nguyễn 
Đức Thâm [3], Phạm Hữu Tòng [4], Nguyễn 
Thế Khôi [5] các tác giả đã chỉ ra rằng bài 
tập Vật lý có tác dụng giáo dục rất lớn giúp 
học sinh hình thành kiến thức, hiểu sâu hơn 
những kiến thức đã học, rèn luyện kỹ năng, 
vận dụng được kiến thức vào thực tiễn đời 
sống và sản xuất (bài tập luyện tập và củng cố 
kiến thức); giáo dục tư  ...  tri thức học 
được vào trong những tình huống thực tiễn 
của cuộc sống. 
Nguyên nhân: 
- Số lượng bài tập có nội dung thực tế trong 
môn Vật lý còn ít. Các bài tập có trong sách 
giáo khoa, sách bài tập Vật lý thường thiếu 
tính hệ thống để có thể giúp học sinh hình 
thành và phát triển các kỹ năng cần thiết. Số 
lượng bài tập tuy nhiều nhưng nội dung 
thường lặp đi lặp lại, ít có sự khác biệt. 
- Trong quá trình dạy học, giáo viên ít tạo 
điều kiện cho học sinh vận dụng những tri 
thức của mình để giải quyết vấn đề có liên 
quan tới Vật lý trong đời sống và sản xuất mà 
thường đi quá sâu vào những bài tập có tính 
đánh đố, biến học sinh thành những thợ giải 
bài tập nhưng lại lúng túng khi phải vận dụng 
hoặc lựa chọn những kiến thức Vật lý vào giải 
quyết một tình huống cụ thể trong thực tế đời 
sống của chính họ. Chính vì vậy, việc dạy và 
học Vật lý chưa đáp ứng được mục tiêu đã đề 
ra, sản phẩm con người chưa đáp ứng được 
nhu cầu của xã hội. 
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CÓ NỘI 
DUNG THỰC TẾ ĐỂ GIẢNG DẠY CƠ 
HỌC CHO HỌC SINH THPT Ở VIỆT NAM 
Như vậy, cần thiết phải xây dựng được một 
hệ thống bài tập Vật lý có nội dung thực tế. 
Đưa các ứng dụng của các định luật và các lý 
thuyết Vật lý trong khoa học, kỹ thuật và đời 
sống vào trong các bài tập để giúp học sinh 
thấy được sự thống nhất của kiến thức trong 
lý thuyết và thực tiễn; đồng thời có thể sử 
dụng các bài tập này để thực hiện việc dạy 
học theo hướng “tích hợp, liên môn” Vật lý – 
công nghệ, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy 
học phát triển năng lực học sinh. Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xây dựng hệ 
thống bài tập có nội dung thực tế phần cơ học 
vì những lí do sau đây: 
Trong phần cơ học ở Vật lý lớp 10 [8], các 
khái niệm cơ bản (khối lượng, lực, xung 
lượng, vận tốc, gia tốc, quãng đường, năng 
lượng) được giới thiệu, đây chính là “công 
cụ” để nhận thức Vật lý. Theo đó, cơ học 
được xem là nền tảng của Vật lý [9]. Khi học 
phần cơ học, học sinh được làm quen với ba 
định luật Newton, định luật vạn vật hấp dẫn, 
định luật bảo toàn năng lượng, đó là những 
định luật nền tảng của khoa học Vật lý. Các 
phương pháp giải bài tập ở phần này cũng 
thường xuyên được sử dụng để giải nhiều 
dạng bài tập khác nhau khi nghiên cứu các 
phần còn lại (nhiệt học, điện học, quang 
học,) như phương pháp tổng hợp lực và 
phân tích lực, phương pháp sử dụng các định 
luật bảo toàn. Vì thế nếu nắm vững kiến thức 
và giải quyết tốt các bài tập phần Cơ học thì 
học sinh có thể dễ dàng nghiên cứu các phần 
khác của Vật lý như nhiệt học, điện học, 
quang học 
Sự logic của hệ thống lý thuyết cơ học là trụ 
cột vững chắc của các phương pháp nhận thức 
tổng quát như phân tích và tổng hợp, quy nạp 
và diễn dịch, góp phần phát triển tư duy logic 
của học sinh. Giải quyết vấn đề để phát triển 
các nhiệm vụ đào tạo trong quá trình nghiên 
cứu cơ học là nhằm mục đích phát triển tư 
duy logic, phương pháp luận, khoa học công 
nghệ, tư duy biện chứng của học sinh, và do 
đó phát triển về khả năng trí tuệ và sáng tạo 
của họ. Học sinh được làm quen với các định 
luật của cơ học, với ứng dụng thực tế của 
chúng, từ đó học sinh phân tích các hiện 
tượng cơ học trong kỹ thuật, thực hiện các 
nhiệm vụ sáng tạo thực nghiệm, góp phần 
phát triển tư duy khoa học – kỹ thuật [9]. 
Chúng tôi xây dựng một hệ thống bài tập Vật 
lý phần cơ học theo định hướng phát triển 
năng lực nhằm khai thác những khả năng của 
cá nhân cho việc vận dụng những kiến thức, 
kỹ năng, kỹ xảo. Đặc biệt tập trung vào việc 
xây dựng hai dạng bài tập Vật lý mới có nội 
dung gắn với thực tế đó là bài tập tình huống 
[10] và bài tập ngữ cảnh [11]. Đây là hai 
dạng bài tập mà ở Việt Nam hiện nay chưa 
phổ biến trong nghiên cứu và sử dụng. Hai 
dạng bài tập này đều là những bài tập có nội 
dung thực tế, nội dung của chúng là các tình 
huống cụ thể trong cuộc sống. 
Nguyễn Thúc Cảnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 97 - 103 
 101
Bài tập tình huống 
Bài tập tình huống là những bài tập thể hiện rõ 
ràng tính thực tiễn, nội dung của chúng mô 
phỏng các tình huống có thể nảy sinh trong thực 
tế. Để giải những bài tập này cần không chỉ kiến 
thức môn Vật lý mà còn cần kiến thức của các 
môn học khác, giải những bài tập này luôn 
hướng tới sự thoát li người học ra khỏi khuôn 
khổ sách vở (quá trình học tập) [10]. Sau đây là 
một ví dụ về bài tập tình huống: 
Ai đúng? Hãy tưởng tượng bạn là người 
chứng kiến cuộc tranh luận giữa cảnh sát giao 
thông và lái xe. Cảnh sát giao thông, theo dõi 
sự tuân thủ quy tắc giao thông của các lái xe, 
đo tốc độ của một chiếc xe hơi đi ngang qua 
bằng một thiết bị đặc biệt. Trên màn hình của 
thiết bị anh ấy nhìn thấy số 70, tương ứng với 
tốc độ 70km/h. Chiếc gậy cảnh sát được giơ 
lên. Chiếc xe hơi dừng lại. Anh cảnh sát tự 
giới thiệu về mình, cáo buộc người lái xe 
vượt quá tốc độ cho phép. Người lái xe không 
đồng ý. Tài xế rời thành phố lúc 8h sáng. 
Đồng hồ đang chỉ bây giờ là 13h, đã đi được 
100 km. 
1. Ai đúng và tại sao? Chứng minh bằng quan 
điểm của mình. 
2. Cảnh sát giao thông đã xác định tốc độ như 
thế nào? 
3. Tài xế đã xác định tốc độ của xe như thế 
nào? 
4. Thiết bị nào gắn trên xe được sử dụng để 
đo tốc độ? 
5. Tài xế đã xác định được tốc độ nào dựa 
trên vận đơn? 
Thông thường học sinh sẽ không muốn 
nghiên cứu tình huống đặt ra nếu nó không 
phản ánh thực tế và bịa đặt. Nhưng sự quan 
tâm của học sinh sẽ tăng lên nếu tài liệu chứa 
những vấn đề cụ thể mà họ thường gặp trong 
cuộc sống hàng ngày và thậm chí có thể đã 
từng giải quyết. Khi làm việc với các bài tập 
tình huống, hoạt động nhận thức của học sinh 
sẽ gây ra sự quan tâm nghiên cứu những vấn 
đề xuất hiện trong bài tập, nghiên cứu kinh 
nghiệm giải quyết những vấn đề đó. 
Để giải quyết bài tập này không những yêu 
cầu học sinh phải nắm vững các khái niệm vật 
lý như vận tốc trung bình, vận tốc tức thời, 
thời điểm, thời gian,... mà còn phải nắm được 
các kiến thức thực tiễn như kiến thức về thiết 
bị đo tốc độ gắn trên xe ôtô và của cảnh sát 
giao thông, kiến thức về vận đơn,... đồng thời 
bài tập này còn có tác dụng giáo dục học sinh 
về ý thức chấp hành luật lệ giao thông. Khi 
làm việc với dạng bài tập này học sinh có thể 
phát triển được các năng lực như năng lực tái 
hiện, năng lực tính toán, năng lực quan sát, 
năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo, năng lực 
tự học, năng lực giải thích hiện tượng Vật lý, 
năng lực sử dụng ngôn ngữ Vật lý, năng lực 
ứng dụng công nghệ, năng lực hệ thống hóa, 
năng lực thu thập thông tin,... 
Bài tập ngữ cảnh 
Bài tập ngữ cảnh là những bài tập có nội dung 
thực tế, nội dung của chúng là các tình huống 
cụ thể trong cuộc sống. Những bài tập này cho 
phép học sinh nhìn thấy các hiện tượng Vật lý 
trong cuộc sống hàng ngày và ứng dụng thực 
tế của các kiến thức mà học sinh lĩnh hội được 
trong quá trình học tập. Những bài tập này đặc 
biệt hiệu quả khi dạy học nếu trong tài liệu 
cung cấp hoặc sao chép các bức tranh của các 
họa sĩ nổi tiếng, đoạn tích từ các tác phẩm 
nghệ thuật, hoặc các bài thơ [11]. Sau đây là 
một ví dụ về bài tập ngữ cảnh: 
Đọc bài thơ “Trăng sáng” của tác giả Nhược 
Thủy và trả lời các câu hỏi ở dưới 
Sân nhà em sáng quá 
Nhờ ánh trăng sáng ngời 
Trăng tròn như cái đĩa 
Lơ lửng mà không rơi 
Những đêm nào trăng khuyết 
Trông giống con thuyền tôi 
Em đi trăng theo bước 
Như muốn cùng đi chơi. 
Trong bài thơ xuất hiện những hiện tượng vật 
lý nào? Hãy nêu các hiện tượng vật lý đó và 
phân tích. 
Các câu hỏi: 
1. Hình ảnh “Trăng tròn” – Vì sao các thiên 
thể trong vũ trụ lại có dạng hình cầu? Và vì 
sao các thiên thể đó lại “lơ lửng” trên bầu 
Nguyễn Thúc Cảnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 97 - 103 
 102
trời? (Kiến thức về lực hấp dẫn, quán tính, 
tổng hợp chuyển động). 
2. Tại sao khi chúng ta ngồi trên xe ô tô đang 
chạy trên đường, chúng ta thấy dường như 
cây cối, nhà cửa ở bên đường đang chạy 
ngược lại? Tuy nhiên có những vật ở rất xa 
như ngọn núi, Mặt Trăng dường như lại chạy 
theo chúng ta? (Kiến thức về tính tương đối 
của chuyển động). 
Trong bài tập này có sử dụng bức tranh miêu 
tả hoạt động của các em bé ở sân nhà trong 
đêm trăng rằm, đồng thời trích dẫn bài thơ 
“Trăng sáng” của nhà thơ Nhược Thủy, giúp 
kích thích sự quan tâm của học sinh đến chủ 
đề của bài tập, góp phần lĩnh hội tài liệu tốt 
hơn, hiểu rõ hơn về bản chất của các định luật 
vật lý được nghiên cứu, liên hệ với cuộc sống 
cũng trở nên rõ ràng hơn. Nội dung của bài 
tập này tích hợp kiến thức của cả Vật lý, Văn 
học và Thiên văn học; khi làm việc với bài 
tập này, giáo viên có thể đề xuất cho học sinh 
một số đường link liên quan đến các kiến thức 
có trong bài tập, giúp học sinh phát triển 
nhóm năng lực thu thập thông tin, năng lực 
quan sát, năng lực tái hiện, năng lực hợp tác, 
năng lực giải thích hiện tượng Vật lý,... 
Bài tập tình huống và bài tập ngữ cảnh có 
thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn của 
bài học: khi cung cấp tài liệu học tập để tạo ra 
tình huống vấn đề trong bài học và khi củng 
cố kiến thức sơ bộ. Có thể nói, hai dạng bài 
tập này hội tụ được các đặc điểm cơ bản của 
bài tập định hướng phát triển năng lực cho 
học sinh mà chúng ta đang hướng tới. 
Hệ thống bài tập này sẽ được sử dụng để tạo 
ra các tình huống có vấn đề khi bắt đầu dạy 
bài mới; khi truyền đạt các kiến thức mới 
trong tiết học nghiên cứu tài liệu mới; giúp 
học sinh hình thành các kỹ năng thực tiễn; khi 
kiểm tra sự nắm vững và đào sâu kiến thức 
của học sinh; khi ôn tập và củng cố tài liệu, 
phát triển khả năng sáng tạo của học sinh; 
và quan trọng là trong hệ thống bài tập này, 
mỗi bài tập không chỉ phát huy được một 
năng lực của học sinh mà cùng một lúc có thể 
khai thác nhiều năng lực khác nhau của học 
sinh (như trong 2 ví dụ trên). 
KẾT LUẬN 
Như vậy, chúng ta có thể thấy được tầm quan 
trọng của hệ thống bài tập phần cơ học trong 
quá trình giảng dạy Vật lý ở trường THPT. 
Giảng dạy cơ học cho học sinh lớp 10 ở Việt 
Nam trên cơ sở hệ thống bài tập, bằng cách 
xây dựng một hệ thống các bài tập phần cơ 
học với nội dung thực tế, đặc biệt là tập trung 
vào việc xây dựng hệ thống hai dạng bài tập 
mới là bài tập tình huống và bài tập ngữ cảnh 
theo định hướng phát triển năng lực học sinh, 
góp phần vào việc nâng cao chất lượng lượng 
dạy - học Vật lý ở trường THPT hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. X.E Camenetxki – V.P Ôrêkhốp (1975), 
Phương pháp giải bài tập vật lí ở trường THPT 
(Методика решения задач по физике в средней 
школе), Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. A. V. Muraviep (1978), Dạy thế nào cho học 
sinh tự lực nắm kiến thức Vật lý, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội. 
3. Nguyễn Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng, Phạm 
Xuân Quế (2002), Phương pháp dạy học vật lí ở 
trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
4. Phạm Hữu Tòng (2001), Lí luận dạy học vật lý ở 
trường phổ thông trung học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
5. Nguyễn Thế Khôi (1995), Một phương pháp 
xây dựng hệ thống bài tập phần động lực học lớp 
10 THPT nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức 
cơ bản, góp phần phát triển năng lực giải quyết 
vấn đề, Luận án Phó Tiến sĩ Vật lý, Trường Đại 
học Sư phạm, Hà Nội. 
6. Giải bài tập vật lý (Решение задач из физики) 
7. Bài tập với nội dung thực tế và vai trò của chúng 
trong việc giáo dục thực tiễn cho học sinh trong quá 
trình dạy học vật lý (Рустамова С. К., Гасанов З. 
Задачи с практическим содержанием и их роль в 
осуществлении практической подготовки 
школьников в процессе обучения физике // 
Молодой ученый. — 2009. — №11. — С. 313-
315) https://moluch.ru/archive/11/821/ 
8. Lương Duyên Bình (2014), Sách giáo khoa Vật 
lý lớp 10, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
9. Phương pháp giảng dạy Cơ học trong khóa học 
Vật lý (Методика преподавания механики в 
школьном курсе физики) https://www.google.ru/ 
url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&
ved=0ahUKEwiHtfq0iJPXAhXmZpoKHTtCA2E
QFggnMAA&url=http%3A%2F%2Fwww.mpf.un
i-altai.ru%2Fpages%2Ftest%2Fmeh1.doc&usg= 
AOvVaw2rjQsCbiqcQWm3U0-FW-L6 
Nguyễn Thúc Cảnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 97 - 103 
 103
10. Kinh nghiệm thiết kế và sử dụng bài tập tình 
huống để đánh giá năng lực học sinh (Ю. В. 
Слобожанинов. Опыт конструирования и 
применения ситуационных задач для оценки 
компетентности учащихся. Киров, 2012, с. 6-9.) 
11. Lý thuyết và thực tiễn của việc thiết kế hệ 
thống sư phạm (Сериков, и личность. Теория и 
практика проектирования педагогических 
систем. - М.: Издательская корпорация 
«Логос», 1999. – 272 с.) 
SUMMARY 
THE NEED FOR BUIDING AN EXERCISE SYSTEM WITH PRACTICAL 
CONTENT TO TEACH MECHANICS TO HIGH SCHOOL 
Nguyen Thuc Canh* 
Moscow National Pedagogical University 
The Vietnam Education Development Strategy for the period of 2011 - 2020 with the objective of 
renewing the contents and methods of teaching, examinations, testing and evaluating the quality of 
education in the orientation of developing the capacity and enhancing students' Knowledge and 
practical skills, applying knowledge to solve problems of practice. Using the exercise system in 
teaching is a important means of solving problems. Physical exercises have positive effects in 
revising, deepening, expanding knowledge, practicing skills and techniques for students. Applying 
the viewpoint of problem-solving teaching in the teaching process of physics in high school, this 
paper examines the importance of physical exercises, in which the practical content of the 
mechanical part is a means of highly effective in creating students' skills in applying knowledge to 
specific situations in life and gaining experience from practical activities. 
Keywords: exercises, practice, teaching, mechanics, high school, Vietnam 
Ngày nhận bài: 27/3/2018; Ngày phản biện: 07/4/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0936468949; Email: nguyenthuccanhmoscow@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_xay_dung_he_thong_bai_tap_co_noi_dung_thuc_te_tro.pdf