Nghiên cứu khoa học - Một định hướng trong đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên mỹ thuật ứng dụng Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội
Thực tế, trong thời gian vừa qua, các trường đại học đã triển khai hoạt động
nghiên cứu khoa học tới sinh viên, tuy nhiên những hoạt động này không được nhân rộng và
chưa được quan tâm đúng mức. Những năm gần đây, nắm bắt được vai trò và tầm quan trọng
của NCKH, hoạt động này đã bắt đầu được đẩy mạnh. Trên các diễn đàn công luận, đã có rất
nhiều những thông cáo báo chí về hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc mang
tính thường niên. Điều đó cho thấy một tín hiệu mới trong định hướng đào tạo, bồi dưỡng
sinh viên các trường đại học tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu khoa học - Một định hướng trong đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên mỹ thuật ứng dụng Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khoa học - Một định hướng trong đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên mỹ thuật ứng dụng Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội
80 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - MỘT ĐỊNH HƯỚNG TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHO SINH VIÊN MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU THỰC TIỄN CỦA XÃ HỘI SCIENTIFIC RESEARCH - AN ORIENTATION IN TRAINING AND FOSTERING STUDENTS OF THE APPLIED FINE ARTS IN VIETNAM MEETING THE PRACTICAL NEEDS OF THE SOCIETY Vũ Huyền Trang* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/04/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/10/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/10/2019 Tóm tắt: Thực tế, trong thời gian vừa qua, các trường đại học đã triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học tới sinh viên, tuy nhiên những hoạt động này không được nhân rộng và chưa được quan tâm đúng mức. Những năm gần đây, nắm bắt được vai trò và tầm quan trọng của NCKH, hoạt động này đã bắt đầu được đẩy mạnh. Trên các diễn đàn công luận, đã có rất nhiều những thông cáo báo chí về hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc mang tính thường niên. Điều đó cho thấy một tín hiệu mới trong định hướng đào tạo, bồi dưỡng sinh viên các trường đại học tại Việt Nam. Từ khóa: Nghiên cứu khoa học, định hướng, đào tạo, sinh viên ngành mỹ thuật ứng dụng, Việt Nam Abstract: In recent times, many universities have conducted scientifi c research activities to students. However, these activities have not been replicated and have not been given enough attention. In recent years, grasping the role and importance of scientifi c research, this activity has begun to be promoted. On public forums, there have been many press releases about the annual national conference of scientifi c research for students. That shows a new signal in the orientation of training and fostering universities students of Vietnam. Keywords: Scientifi c research, orientation, training, applied fi ne art students, Vietnam * Trường Đại học công nghiệp Hà Nội 1. Đặt vấn đề Mỹ thuật từ lâu luôn là một ngành mang năng lực tư tưởng, đem lại giá trị thẩm mỹ xã hội, mang tính chất văn hóa chi phối cảm xúc của con người thông qua các giác quan cảm xúc. Nó là sản phẩm của sự sáng tạo, của cái đẹp do con người tạo ra từ chính những năng lực, tài năng nghệ thuật. Mỹ thuật trong thời chiến, trên tạp chí Thế kỷ năm 1952, Họa sĩ Tạ Tỵ đã đưa ra những nhận định về giáo dục Mỹ thuật tại trường học. Theo quan điểm riêng của ông, “Mỹ thuật là môn học cần thiết vì Tạp chí Khoa ọc - Viện Đại học Mở Hà Nội 60 (10/2019) 80-84 81Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cuộc sống luôn đụng chạm tới mỹ thuật và để mở rộng ở trước mắt ta một vũ trụ màu sắc làm dịu bớt đau xót của cuộc đời”. Ông cho rằng “bổn phận của người lãnh đạo tinh thần lớp người đầy nhựa sống ấy phải cố gắng làm sao cho chuyên môn của mình trở thành món ăn ưa thích, phải làm cho họ biết sự ích lợi của hiểu biết, nghĩa là phải cho họ vui để học. Áp dụng một đường lối thích hợp để người học có thể đạt được kết quả khả quan mà đỡ cho họ nản lòng thành lười biếng”. Trong giai đoạn đổi mới, Mỹ thuật được coi là một ngành luôn đóng một vai trò quan trọng trong xã hội, nó không dừng lại ở hội họa mà còn được áp dụng vào cuộc sống thực tiễn hay còn gọi là Mỹ thuật ứng dụng. Mỹ thuật ứng dụng có ở tất cả mọi nơi, mọi thứ xung quanh chúng ta và là một phần tất yếu của quá trình xây dựng đất nước. Vì vậy bồi dưỡng tài năng nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu thực tiễn xã hội một cách bài bản và chuyên nghiệp chính là tạo dựng một nguồn nhân lực phục vụ tương lai đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng tài năng nghệ thuật là gì? Đào tạo, bồi dưỡng bắt đầu từ đâu? Đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên nghệ thuật như thế nào để đáp ứng nhu cầu thực tiễn xã hội, phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu, xu thế thời đại và sự phát triển của khoa học công nghệ? Theo quan điểm cá nhân, Đào tạo bồi dưỡng tài năng nghệ thuật là quá trình xây dựng, bồi dưỡng một lực lượng xã hội, phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ, tư tưởng- đời sống tinh thần của xã hội. Đây là một lực lượng tất yếu của xã hội, làm cho xã hội đẹp hơn, văn minh hơn. Đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện ngay từ khi đối tượng còn trẻ, biết ý thức về khả năng hoạt động sáng tạo nghệ thuật của mình và trường đại học chính là môi trường để phát triển ý thức nghề nghiệp đầu tiên. Đào tạo- bồi dưỡng cho sinh viên trường mỹ thuật ứng dụng ngoài việc ngoài việc nâng cao năng lực thẩm mỹ, thì cần phải đổi mới phương pháp dạy và học, chú trọng việc nâng cao tính chủ động trong hoạt động nghiên cứu mang tính nghề nghiệp, thực tiễn cao, đặc biệt là tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, phát huy tính độc lập, sáng tạo của người học. Khi tham gia hoạt động NCKH, sinh viên ngành có thể phát triển toàn diện: Về kiến thức, quá trình nghiên cứu khoa học sẽ giúp sinh viên có thể cọ sát với thực tiễn nhu cầu xã hội, củng cố những kiến thức cơ bản, tiến lại gần hơn với những giá trị thật, rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu hoạt động nghệ thuật ứng dụng. Điều này mang lại lợi ích rất lớn đối với sinh viên, sinh viên sẽ có cái nhìn bao quát hơn, sâu hơn và yêu thích hơn, nghiêm túc hơn đối với nghề nghiệp của mình. Nó là động lực thúc đẩy phát triển tư duy sáng tạo, logic khoa học mang tính thực tiễn. Về kỹ năng, sinh viên có khả năng chủ động thực hiện kế hoạch học tập của mình một cách tích cực, phát triển kỹ năng hoạt động nhóm hiệu quả, đúc rút được các kinh nghiệm quý báu.Từ đó phát triển những kỹ năng khác như kỹ năng phân tích, tổng hợp và tư duy logic Mặc dù lợi ích, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học là rất to lớn, song để đẩy mạnh phong trào nghiên cứu khoa học trong sinh viên cũng còn nhiều vấn đề cần phải nhìn nhận, nghiên cứu. Đó là những nút thắt cần phải tháo gỡ trong hoạt động NCKH của sinh viên. 2. Những nút thắt trong hoạt động NCKH của sinh viên trường mỹ thuật. Thực tế, trong thời gian vừa qua, các trường đại học đã triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học tới sinh viên, tuy nhiên 82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion những hoạt động này không được nhân rộng và chưa được quan tâm đúng mức. Những năm gần đây, nắm bắt được vai trò và tầm quan trọng của NCKH, hoạt động này đã bắt đầu được đẩy mạnh. Trên các diễn đàn công luận, đã có rất nhiều những thông cáo báo chí về hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc mang tính thường niên. Điều đó cho thấy một tín hiệu mới trong định hướng đào tạo, bồi dưỡng sinh viên các trường đại học. Nhưng hoạt động ra sao?, nghiên cứu như thế nào? đang là những vấn đề cần suy nghĩ, nhất là đối với sinh viên các trường nghệ thuật nói chung, mỹ thuật ứng dụng nói riêng. Mặc dù tỷ lệ sinh viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu tăng hơn so với những năm trước, song chất lượng nghiên cứu lại đang là vấn đề cần được xem xét, bởi khả năng ứng dụng của đề tài còn nhiều hạn chế, nhiều đề tài tốn rất nhiều thời gian, kinh phí mà không thu được kết quả mong đợi hoặc không sử dụng được, không đáp ứng được xu thế, gây lãng phí rất lớn và làm giảm động lực nghiên cứu của sinh viên. Điều đó đã đặt ra câu hỏi, liệu có quá lạm dụng sinh viên vào việc nghiên cứu khoa học hay không? Hay sự đòi hỏi về chất lượng nghiên cứu của sinh viên quá cao? Bên cạnh đó, một vấn đề rất đáng quan tâm, đó là: liệu sinh viên đã chủ động trong hoạt động nghiên cứu chưa, hay vẫn bị tình trang thụ động, chưa được trang bị tốt những kiến thức cơ bản về nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu, nên cứ loay hoay không biết bắt đầu từ đâu, làm gì, làm như thế nào và đem lại kết quả gì, cho ai? Với phương pháp giảng dạy và học truyền thống, giáo viên cầm tay chỉ việc, hoặc đưa cái tôi cá nhân của người thầy vào trong sản phẩm của sinh viên vô hình chung đã khiến các em quên đi mất mình đang làm gì, bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, và tác phẩm mình đang làm có ý nghĩa là gì Đó là một nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động nghiên cứu của sinh viên, làm cho các em không phát huy được tính chủ động, sáng tạo, không tạo được phong cách riêng của mình. Mặt khác, nhiều người lại cho rằng, đối với sinh viên nghệ thuật không nên gò bó cứng nhắc theo các phương pháp, cần phải thoải mái, để các em có thể tự phát huy được hết tính sáng tạo của mình. Đấy cũng là một nhận định sai về hoạt động nghiên cứu khoa học. 3. Nghiên cứu khoa học - Những định hướng cơ bản và giải pháp trong đào tạo bồi dưỡng sinh viên mỹ thuật ứng dụng 3.1. Những định hướng cơ bản Cần phải xây dựng môi trường chuyên nghiệp, kích thích để sinh viên phát huy khả năng sáng tạo, tính nghiên cứu độc lập của mình. Công việc này nên được xây dựng từ chính trong những học phần cơ sở ngành của sinh viên. Cần thay đổi phương pháp dạy học truyền thống, cầm tay chỉ việc bằng những định hướng trong quá trình nghiên cứu của sinh viên. Hạn chế cái tôi của người thầy vào quá trình sáng tác của sinh viên để sinh viên chủ động và có ý thức trách nhiệm đối sản phẩm nghề nghiệp của mình. Cần định hướng cho sinh viên khả năng quan sát thực tiễn, biết phân tích, đánh giá để tạo ra các sản phẩm của riêng mình (nghiên cứu trên những hiện vật đã có, từ đó rút phương pháp luận và tạo ra sản phẩm của riêng mình) Cần nhìn nhận lại và làm rõ ý nghĩa của việc đẩy mạnh hoạt động NCKH trong công tác đào tạo bồi dưỡng sinh viên nghệ thuật ở hai vấn đề cơ bản: hoạt động nghiên cứu nghệ thuật và kết quả thu được sau khi nghiên cứu, bao gồm những đóng góp khoa học về mặt lý thuyết, lý luận, 83Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion mức độ thực tiễn của sản phẩm nghệ thuật mang tính ứng dụng. Đánh giá khách quan hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, không so sánh với những người nghiên cứu chuyên nghiệp, bởi vì: Thứ nhất, sinh viên đại học chưa phải là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, đây là giai đoạn các em tập nghiên cứu khoa học chuẩn bị cho mình những kiến thức, kỹ năng để nghiên cứu chuyên nghiệp sau này. Thứ hai, vấn đề đầu tư cho hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế: kiến thức thực tế, cơ sở vật chất, kinh phí Thứ ba, cần xác định mục tiêu chính đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên là gì? Ở bậc này là trang bị cho sinh viên kiến thức, kỹ năng nghiên cứu khoa học độc lập để hỗ trợ cho hoạt động học tập và chuẩn bị hành trang cho nghề nghiệp của mình. Do vậy, khi cho sinh viên tiếp cận nghiên cứu khoa học, cần đặt ra mục tiêu hoạt động nghiên cứu cụ thể như phát hiện ra vấn đề nghiên cứu, xây dựng khung nghiên cứu hay trong quá trình tiến hành nghiên cứu cần chú ý về cách thức tổ chức thực hiện, phương pháp thực hiện, tìm kiếm tài liệu, thu thập thông tin, khảo sát, phân tích số liệu, thử nghiệm kết quả, viết báo cáo, trình bày báo cáo không nên đặt nặng vào kết quả nghiên cứu/ sản phẩm cuối cùng. 3.2. Giải pháp Từ những hiện trạng trên, nghiên cứu khoa học trong sinh viên không thể được đánh đồng với số lượng/chất lượng các đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Khi đánh giá tình hình nghiên cứu khoa học trong sinh viên, cái chúng ta cần đánh giá đầu tiên chính là chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, hay khả năng của sinh viên nói chung trong việc hình thành các ý tưởng và triển khai (một phần hay toàn bộ) quá trình nghiên cứu một cách khoa học. Để đánh giá một cách cơ bản và toàn diện, chúng ta cần đánh giá hoạt động này ngay từ trong hoạt động đào tạo và phương pháp đào tạo của từng trường, từng chuyên ngành, từng môn học về mặt phát triển kỹ năng và kiến thức nghiên cứu cho sinh viên. Khuyến khích sinh viên dành thời gian và điều kiện để tiếp cận các nguồn thông tin nghiên cứu mới nhất. Quan tâm đến trang thiết bị, cơ sở vật chất, chất lượng thư viện, internet, phòng thí nghiệm. Trong điều kiện còn nhiều hạn chế của các trường hiện nay, nghiên cứu khoa học của sinh viên dù chỉ ở mức các đề án môn học cũng còn nhiều khó khăn như thiếu tài liệu, khả năng ngoại ngữ của sinh viên, năng lực hướng dẫn nghiên cứu của giảng viên, trang thiết bị nghiên cứu Trong từng môn học, sinh viên phải có tính chủ động, sáng tạo và được hướng dẫn thực hiện các đề án môn học mang tính nghiên cứu. Trách nhiệm giữa giảng viên và sinh viên trong nghiên cứu khoa học phải được xây dựng rõ ràng: Sinh viên có thái độ cầu thị, ham học hỏi, giảng viên nhiệt tình trao đổi, hướng dẫn. Rõ ràng là nếu được quan tâm đúng mức, hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên trở nên thực tiễn hơn trong mọi hoạt động, như: tìm đọc tài liệu, các công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học, trao đổi với nhau (và với giảng viên) ở các diễn đàn chính thức và không chính thức đến việc thực hiện các đề án môn học, luận văn tốt nghiệp hay cao hơn là các đề tài nghiên cứu độc lập. Thực tiễn cho thấy, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, sinh viên học được rất nhiều từ việc thực hiện các đề án môn 84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion học thông qua sử dụng thư viện, internet để nâng cao khả năng nghiên cứu của mình Một đề án môn học hay một luận văn tốt nghiệp có thể chưa hoàn thiện về giải pháp nhưng thể hiện được sự đầu tư lớn của tác giả vào việc tìm tòi, vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học thì cũng đã có thể xem là đạt được mục tiêu đề ra. Vì có lẽ cái quan trọng nhất của bậc học này là việc sinh viên độc lập vận dụng và thực hiện hoàn chỉnh một qui trình nghiên cứu khoa học, thấy được những trở ngại, thấy được những khó khăn và xử lý các khó khăn đó. Chương trình học của các trường mỹ thuật hiện nay khá nặng với rất nhiều môn học nhưng lại rất hiếm các môn học về phương pháp nghiên cứu chuyên ngành – một kỹ năng quan trọng của những người làm nghệ thuật. Có nên chăng cần thêm vào các môn học hoặc chuyên đề (bắt buộc hoặc tự chọn) về phương pháp nghiên cứu – môn học loại này không chỉ nâng cao khả năng nghiên cứu của sinh viên mà còn hỗ trợ tốt việc tiếp thu các môn học khác. 4. Kết luận Ngành mỹ thuật ứng dụng ngoài đòi hỏi người làm nghệ thuật phải có thẩm mỹ, thì cần biết năm bắt xu thế của thời đại, nắm bắt được khuynh hướng người tiêu dùng.Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu rộng vào các hoạt động quốc tế, thông qua hội nhập, chúng ta đã tiếp thu những thành tựu của tri thức nhân loại, những giá trị văn minh của thế giới, học tập, vận dụng những kinh nghiệm trong phát triển kinh tế - xã hội và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, những thành tựu khoa học và giá trị thẩm mỹ của cộng đồng quốc tế để làm phong phú, làm đẹp hơn cuộc sống của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, để hướng tới điều đó thì cần phải có một nền tảng khoa học vững chắc, sự cố gắng từ mọi mặt, đặc biệt là phải xây dựng đội ngũ tài năng nghệ thuật trẻ gắn liền với thực tiễn xã hội, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, chủ động, nhiệt huyết, dám cống hiến và đương đầu với mọi thử thách trong nghiên cứu phát triển nghề nghiệp. Nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường học mỹ thuật ứng dụng không phải là vấn đề mới nhưng còn khó. Việc nghiên cứu như thế nào để khẳng định được “cái riêng mình”, được xã hội thừa nhận và làm đẹp trong cuộc sống hiện đại đã được đông đảo sinh viên mỹ thuật quan tâm, nhận biết và hướng theo. Cần xây dựng phương pháp nghiên cứu khoa học một cách bài bản, dễ hiểu, hướng tới giá trị thực và tuyên truyền sâu rộng trong công tác đào tạo sinh viên các trường đại học mỹ thuật ứng dụng. Hướng sinh viên chủ động tiếp cận với cái mới, cái thực tiễn trên thế giới, từ đó lĩnh hội những tri thức mới, giá trị tốt đẹp để tạo ra sản phẩm của riêng mình. Sinh viên nghệ thuật, ngoài việc tạo ra cái mới, cái đẹp cho xã hội, cho con người thì cần giữ được tôn chỉ mục đích là sáng tạo nghệ thuật phù hợp với từng bộ phận, nhóm dân cư và khẳng định, giữ gìn được cái riêng của người Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: 1. Nghị quyết số 20-NQ/TW: “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” 2. Thông tư số 19/2012/TT-BGDĐT ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Ban hành quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học” 3. Viện Nghiên cứu sư phạm, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. “Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết của sinh viên vào giờ học trên lớp” Địa chỉ tác giả: Trường Đại học công nghiệp HN Email: vuhuyentrangdhcn@gmail.com
File đính kèm:
- nghien_cuu_khoa_hoc_mot_dinh_huong_trong_dao_tao_boi_duong_c.pdf