Nghiên cứu khả năng phối trộn biodiesel tổng hợp từ dầu mỡ cá thải tại các cơ sở chế biến thủy sản vào nhiên liệu diesel thỏa mãn tiêu chuẩn Việt Nam
Biodiesel được xem là một trong những loại nhiên liệu lý tưởng để thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch truyền thống.
Báo cáo này giúp thấy rõ hơn vai trò của biodiesel thông qua nghiên cứu khả năng phối trộn của biodiesel được tổng
hợp từ dầu/mỡ cá phế thải tại các cơ sở chế biến thủy sản vào nhiên liệu diesel thỏa mãn các chỉ tiêu kỹ thuật và
môi trường theo TCVN 5689:2013 và QCVN 1:2015/BKHCN đối với nhiên liệu và nhiên liệu sinh học. Kết quả cho
thấy dầu/mỡ cá thải thu hồi từ quá trình chế biến cá phile là một nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất biodiesel.
Thông qua việc kiểm tra tính chất của các mẫu nhiên liệu gốc B0 (diesel), B100 và các mẫu nhiên liệu phối trộn B2,
B4, B6, B8, B10, B12 nhận thấy, khi tăng tỷ lệ phối trộn sẽ cải thiện các tính chất cháy của nhiên liệu, đặc biệt làm
tăng đáng kể trị số cetane, là một chỉ tiêu quan trọng làm tăng khả năng tự bắt cháy của nhiên liệu, giúp động cơ
chạy êm và khói thải chứa ít thành phần độc hại hơn. Việc phối trộn biodiesel cũng làm giảm đáng kể hàm lượng
lưu huỳnh, đây là chỉ tiêu môi trường quan trọng liên quan đến tiêu chuẩn phát thải các hạt ô nhiễm cần được quan
tâm, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang hướng đến sử dụng tiêu chuẩn phát thải EURO 5. Các tiêu chuẩn khác
liên quan đến lưu trữ cũng cho thấy việc phối trộn biodiesel cải thiện được sự an toàn cháy nổ cũng như việc sử dụng
nhiên liệu trong điều kiện nhiệt độ thấp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu khả năng phối trộn biodiesel tổng hợp từ dầu mỡ cá thải tại các cơ sở chế biến thủy sản vào nhiên liệu diesel thỏa mãn tiêu chuẩn Việt Nam
4362(8) 8.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ Giới thiệu chung Được biết đến như một loại năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường, nhiên liệu sinh học biodiesel đã và đang chiếm thị phần ngày càng tăng trên thị trường năng lượng toàn cầu và là chủ đề nghiên cứu đang rất được quan tâm, đặc biệt tại những nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Cục Thông tin năng lượng Mỹ EIA [1] cho thấy xu hướng sản xuất và tiêu thụ biodiesel của thị trường Mỹ gia tăng liên tục, gấp hơn 2.000 lần từ năm 2001 đến nay. Tương tự, tại thị trường châu Âu, số liệu thống kê cũng cho thấy xu hướng sử dụng loại nhiên liệu tái tạo này đang ngày càng gia tăng với giá trị tiêu thụ tương đương thị trường Mỹ. Thị trường biodiesel toàn cầu ước tính trị giá 33.748 USD trong năm 2016 và dự kiến sẽ tăng trên 4% trong giai đoạn 2017-2026 [2]. Không chỉ ở Mỹ và châu Âu, Brazil, Argentina và một số nước Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan cũng đang là những quốc gia sản xuất và tiêu thụ biodiesel hàng đầu trên thế giới (hình 1) [3]. Việc sản xuất và tiêu thụ biodiesel, mặc dù ghi nhận sự phát triển vượt bậc trong hơn hai thập niên qua, nhưng vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt liên quan đến nguồn nguyên liệu ban đầu cũng như khả năng phối trộn biodiesel vào nhiên liệu diesel truyền thống để đáp ứng chỉ tiêu kỹ thuật môi trường của mỗi khu vực và quốc gia. Nhiều nghiên cứu [4, 5] đã chỉ ra chìa khóa chiến lược trong việc thương mại hóa thành công loại nhiên liệu này đến từ việc tận dụng các nguồn phụ phẩm và phế phẩm trong quá trình sản xuất công/nông nghiệp, chẳng hạn từ dầu thực vật không ăn được như dầu thầu dầu, cao su [6], từ dầu ăn đã qua sử dụng tại các nhà hàng, chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh hay từ các Nghiên cứu khả năng phối trộn biodiesel tổng hợp từ dầu mỡ cá thải tại các cơ sở chế biến thủy sản vào nhiên liệu diesel thỏa mãn tiêu chuẩn Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Xuân1*, Nguyễn Đình Thống2 1Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng 2Phòng Hóa nghiệm, Công ty xăng dầu khu vực V Ngày nhận bài 29/4/2020; ngày chuyển phản biện 4/5/2020; ngày nhận phản biện 29/5/2020; ngày chấp nhận đăng 8/6/2020 Tóm tắt: Biodiesel được xem là một trong những loại nhiên liệu lý tưởng để thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Báo cáo này giúp thấy rõ hơn vai trò của biodiesel thông qua nghiên cứu khả năng phối trộn của biodiesel được tổng hợp từ dầu/mỡ cá phế thải tại các cơ sở chế biến thủy sản vào nhiên liệu diesel thỏa mãn các chỉ tiêu kỹ thuật và môi trường theo TCVN 5689:2013 và QCVN 1:2015/BKHCN đối với nhiên liệu và nhiên liệu sinh học. Kết quả cho thấy dầu/mỡ cá thải thu hồi từ quá trình chế biến cá phile là một nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất biodiesel. Thông qua việc kiểm tra tính chất của các mẫu nhiên liệu gốc B0 (diesel), B100 và các mẫu nhiên liệu phối trộn B2, B4, B6, B8, B10, B12 nhận thấy, khi tăng tỷ lệ phối trộn sẽ cải thiện các tính chất cháy của nhiên liệu, đặc biệt làm tăng đáng kể trị số cetane, là một chỉ tiêu quan trọng làm tăng khả năng tự bắt cháy của nhiên liệu, giúp động cơ chạy êm và khói thải chứa ít thành phần độc hại hơn. Việc phối trộn biodiesel cũng làm giảm đáng kể hàm lượng lưu huỳnh, đây là chỉ tiêu môi trường quan trọng liên quan đến tiêu chuẩn phát thải các hạt ô nhiễm cần được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang hướng đến sử dụng tiêu chuẩn phát thải EURO 5. Các tiêu chuẩn khác liên quan đến lưu trữ cũng cho thấy việc phối trộn biodiesel cải thiện được sự an toàn cháy nổ cũng như việc sử dụng nhiên liệu trong điều kiện nhiệt độ thấp. Từ khóa: dầu mỡ cá thải, sản xuất nhiên liệu sinh học, tiêu chuẩn biodiesel, tính chất. Chỉ số phân loại: 2.4 * Tác giả liên hệ: Email: nttxuan@dut.udn.vn 6,9 5,4 4,0 3,5 2,8 2,2 2,0 1,6 1,4 1,0 1,0 0,7 0,5 0,4 0,2 U.S. Brazil Indonesia Germany Argentina France Spain Thailand Italy China Poland Netherlands United Kingdom Canada India ĐƠN VỊ: TỶ LÍT BIODIESEL Hình 1. Các nước sản xuất và tiêu thụ biodiesel hàng đầu thế giới năm 2018. 4462(8) 8.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ đơn vị sản xuất sản phẩm thực phẩm [7], từ các loại dầu mỡ cá phế thải thu hồi trong quá trình chế biến [8] Một nghiên cứu gần đây của Tổ chức Tư vấn toàn cầu liên kết Á - Âu trong lĩnh vực nhiên liệu sinh học (Greenea) đã chỉ ra nhu cầu sản xuất biodiesel của châu Âu từ dầu/mỡ phế thải đã tăng lên đáng kể từ năm 2018 (1,7 triệu tấn), dự kiến lên đến 4 triệu tấn vào năm 2020 [9], và nguồn nguyên liệu này chủ yếu đến từ các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về nhiên liệu sinh học, đặc biệt là biodiesel đã đạt được những thành công nhất định [10], phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới cũng như cam kết phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng. Việc làm chủ nguồn nguyên liệu cũng như công nghệ sản xuất và sử dụng sẽ giúp Việt Nam từng bước hiện thực hóa “Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến 2025” với mục đích nhanh chóng làm chủ công nghệ và đưa vào sử dụng nhiên liệu sinh học ở Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2007 [11]. Theo xu hướng của thế giới, Việt Nam rất có tiềm năng để phát triển các nguồn nguyên liệu được xem là phù hợp cho việc sản xuất biodiesel có nguồn gốc từ phế phẩm, phụ phẩm công/nông nghiệp như các loại dầu mỡ đã qua sử dụng hay được thu hồi từ quá trình chế biến công nghiệp thực phẩm. Là quốc gia có sản lượng xuất khẩu cá tra/basa đạt xấp xỉ 1 triệu tấn/năm trong những năm gần đây với sản phẩm chính từ các nhà máy chế biến thủy sản là cá philê, lượng chất béo thu hồi từ bã thải sau quá trình sản xuất cá philê là nguồn nguyên liệu rất tiềm năng cho sản xuất biodiesel trong điều kiện Việt Nam. Một dự án nghiên cứu của Tổng cục Vận tải và Năng lượng thuộc Ủy ban châu Âu (EU-TREN) [12] đã chứng tỏ khả năng ... 25 25 ASTM D7462 ASTM D7545 Kết quả và thảo luận Đặc trưng nguyên liệu và sản phẩm biodiesel Một số đặc trưng hóa lý của nguyên liệu mỡ cá thải được thể hiện trong bảng 2. Bảng 2. Đặc trưng hóa lý của nguyên liệu mỡ cá thải. Khối lượng riêng ở 15oC, g/cm3 0,967±0,002 Độ nhớt độ g ọc ở 40oC, mm2/s 44,85±0,007 Trị số acid, mg KOH/g nguyên liệu 3,71±0,0026 Thành phầ acid béo, % kl Methyl myristate (C14:0) 2,69 Methyl palmitate (C16:0) 43,36 Methyl linoleate (C18:2) 2,07 Methyl oleate (C18:1) 43,96 Methyl stearate (C18:0) 6,13 Nhận thấy Methyl palmitate (C16:0) và Methyl oleate (C18:1) là hai ấu tử chủ yếu có trong thành phần của mỡ cá thải, chiếm đến trên 85%. Đây là cấu tử rất phù hợp để sản xuất biodiesel nhờ có trị số cetane rất cao (lên đến 85,9 đối với C16:0), điểm chảy rất thấp (-20oC đối với C18:1) và độ ổn định oxy hóa cũng như nhiệt trị cháy cao, giúp cải thiện được đặc tính cháy của nhiên liệu, đồng thời cho chỉ số phát thải ô nhiễm rất thấp đối với tất cả các chỉ tiêu PM, NO x , HC, CO [20]. Có thể nói rằng mỡ cá thải thu hồi từ quá trình chế biến cá da trơn là một nguồn nguyên liệu tiềm năng cho sản xuất biodiesel. Với trị số ac d xác định được, tương ứng với hàm lượng acid 4662(8) 8.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ béo tự do trong nguyên liệu mỡ cá không quá cao (ở mức 2% kl), cho phép áp dụng phương pháp tổng hợp biodiesel một giai đoạn sử dụng xúc tác kiềm mà không làm mất mát quá lớn biodisel do phản ứng xà phòng hóa của các acid béo tự do [21]. Với điều kiện tổng hợp mô tả như trên thì hiệu suất thu hồi biodiesel đạt 87%. Với phương pháp tổng hợp một giai đoạn đơn giản bằng xúc tác kiềm, giá trị hiệu suất thu hồi này một lần nữa chứng tỏ mỡ cá phế thải là một nguồn nguyên liệu rất tiềm năng và hoàn toàn khả thi để tổng hợp biodiesel có tính kinh tế trong tương lai. Đánh giá chỉ tiêu chất lượng của biodiesel B100 Đánh giá các chỉ tiêu chất lượng của B100 tổng hợp từ mỡ cá thải cho kết quả tổng hợp ở bảng 3. Bảng 3. Kết quả một số chỉ tiêu chất lượng của biodiesel B100 từ mỡ cá phế thải. Tên chỉ tiêu Mức Phương pháp đo Giá trị Hàm lượng metyl este của acid béo (FAME), % kl, min 96,45 TCVN 7868 (EN 14103) 98,21 Nước và cặn, % tt, max 0,05 TCVN 7757 ASTMD2709 0,047 Độ nhớt động học tại 40oC, mm2/s 1,9-6,0 TCVN 3171 (ASTM D445) 4,92 Khối lượng riêng ở 15oC, g/ml 0,86-0,9 TCVN 6594 (ASTM D1298) 0,883 Tro sulfat, % kl, max 0,02 TCVN 2689 (ASTM D874) 0,001 Lưu huỳnh, % kl, max 0,005 TCVN 7760 (ASTM D5453 0,003 Chỉ số cetane, min 48 Tính toán 74,36 Trị số acid, mg KOH/g, max 0,5 TCVN 6325 (ASTM D664) 0,45 Độ ổn định oxy hóa ở 110oC, min 6 TCVN 7895 (EN 14112) 11 Nhận thấy các chỉ tiêu chất lượng biodiesel B100 được phân tích đều thỏa mãn QCVN 1:2015/BKHCN. Độ nhớt động học ở 40°C cao hơn so với diesel truyền thống, nhưng vẫn trong ngưỡng tiêu chuẩn cho phép của nhiên liệu sinh học B100. Cùng với đó hàm lượng tro sulfat và hàm lượng lưu huỳnh rất thấp cho thấy đây là loại nhiên liệu đáp ứng chỉ tiêu của một nguồn nhiên liệu sạch. Đặc biệt chỉ số cetane tính toán được đối với biodiesel từ nguồn nguyên liệu mỡ cá thải đạt đến trên 74,36. Theo kết quả phân tích GC-MS của nguồn nguyên liệu mỡ cá thì Methyl palmitate (C16:0) và Methyl oleate (C18:1) là hai cấu tử chủ yếu có trong thành phần FAME của mỡ cá thải, chiếm đến trên 85%. Theo nghiên cứu của Gerhard Knothe [20], chỉ số cetane của Methyl palmitate đạt đến 85,9 và của Methyl oleate là 56,55. Vì vậy kết quả chỉ số cetane của biodiesel B100 tính toán được trong nghiên cứu này hoàn toàn tương thích với thành phần ester của nó. Nếu tính cộng phần mol theo công thức được đề xuất trong nghiên cứu của L.F. Ramírez- Verduzco và cộng sự [22] thì giá trị thu được cũng tương tự. Với giá trị chỉ số cetane thu được chứng tỏ biodiesel từ mỡ cá thải là nhiên liệu rất tiềm năng để phối trộn vào diesel, đảm bảo khả năng tự bắt cháy của nhiên liệu, làm giảm chu kỳ cảm ứng, từ đó giảm phát thải NO x , là một chỉ tiêu ô nhiễm quan trọng đối với động cơ diesel. Đối với giá trị điểm đông, từ nghiên cứu của Gerhard Knothe [20], giá trị điểm đông của Methyl palmitate và Methyl oleate là 30 và -20oC. Điều này cho thấy khi phối trộn nguồn biodiesel này vào diesel theo các tỷ lệ khác nhau thì không làm thay đổi đáng kể nhiệt độ điểm đông của diesel ban đầu. Ngoài ra, nhiệt trị của biodiesel được tổng hợp từ mỡ cá thải là 9.218 kcal/ kg, không thấp hơn quá nhiều so với diesel truyền thống (10.888 kcal/kg) cũng đảm bảo cho tính cháy tốt của nhiên liệu. Đánh giá nhiên liệu sau khi phối trộn biodiesel vào diesel truyền thống Bảng 4 tổng hợp các chỉ tiêu chất lượng của các mẫu phối trộn biodiesel từ mỡ cá thải vào diesel thương phẩm hiện hành thỏa mãn tiêu chuẩn Euro 3 theo các tỷ lệ thể tích biodiesel được trộn vào từ 2 đến 12% tt. Bảng 4. Kết quả một số chỉ tiêu chất lượng của các mẫu phối trộn. Tên chỉ tiêu DO (B0) B2 B4 B6 B8 B10 B12 % tt biodiesel 0 2 4 6 8 10 12 Khối lượng riêng ở 15oC, g/ml 0,8384 0,8387 0,8391 0,8401 0,8412 0,8421 0,8437 Độ nhớt động học ở 40°C, mm2/s 2,753 2,758 2,793 2,831 2,876 2,912 3,104 Hàm lượng lưu huỳnh, mg/kg, max 259,1 243,83 242,06 237,06 232,06 225,83 225,83 Trị số cetane 50 50 51 51 52 53 53 Nhiệt độ cất tại 90% thể tích thu hồi, °C, max 330,9 328,6 329 330,1 332,3 333,2 333,2 Điểm chớp cháy cốc kín, °C, min 79 79 80 82 82 83 84 Hàm lượng nước, ppm, max 94,5 104,5 104,8 128,6 157,7 178,7 178,7 Điểm đông đặc, °C, max -12 -12 -12 -12 -12 -12 -12 Nhiệt trị, kcal/kg 10.888 10.877 10.835 10.807 10.777 10.721 10.721 Đối với nhiên liệu cho động cơ diesel, khối lượng riêng và độ nhớt là các chỉ tiêu quan trọng liên quan đến quá trình phun nhiên liệu vào buồng cháy. Quá trình cháy trong động cơ diesel là quá trình cháy khuếch tán, diễn ra tốt và cháy hoàn toàn khi nhiên liệu được tán sương mịn khi phun vào buồng cháy, giúp cho sự bay hơi và khuếch tán thuận lợi. Mặc dù biodiesel tinh khiết B100 từ mỡ cá thải có giá trị các chỉ tiêu này khá cao (bảng 3) nhưng khi phối trộn với diesel thì vẫn đảm bảo nằm trong ngưỡng cho phép của nhiên liệu (bảng 2) dù tỷ lệ phối trộn đạt đến 12% thể tích. Với các chỉ tiêu trực tiếp liên quan đến quá trình cháy như trị số cetane, việc phối trộn nhiên liệu biodiesel vào làm tăng giá trị này, tạo thuận lợi cho sự khởi động của động cơ, động cơ chạy êm và khí thải chứa ít thành phần độc hại hơn. Do biodiesel chứa thành phần là các alkyl ester của acid béo nên có nhiệt độ sôi cao dẫn đến khi phối trộn làm tăng giá trị nhiệt độ cất tại 90% thể tích chưng cất. Tuy nhiên khác với diesel, giá trị này không làm tăng khả năng cháy không hoàn toàn của nhiên liệu, vì đây là những thành phần dễ bị ôxy hóa hơn các hydrocarbon thơm. Hơn nữa giá trị này vẫn trong phạm vi cho phép của tiêu chuẩn hiện hành. Việc pha biodiesel làm giảm nhiệt trị cháy của nhiên liệu vì trong nhiên liệu sinh học nói chung đều có thành phần nguyên tử oxy. Tuy nhiên với biodiesel từ mỡ cá thải thì sự giảm này không đáng kể do bản thân loại nhiên liệu này đã có nhiệt trị cháy tương đối cao. 4762(8) 8.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ Với các chỉ tiêu liên quan đến môi trường, đặc biệt là hàm lượng lưu huỳnh, hiển nhiên rằng việc phối trộn biodiesel vào diesel dầu mỏ làm giảm đáng kể giá trị này. Đây là một tiêu chí quan trọng cần xem xét khi sử dụng biodiesel, vì hàm lượng lưu huỳnh cao trong nhiên liệu gây ra rất nhiều tác hại nghiêm trọng, đặc biệt là sự hình thành các hạt ô nhiễm có kích thước nanomet đi sâu vào hệ hô hấp của con người, gây ra nhiều tác hại đối với sức khỏe [23]. Liên quan đến vấn đề lưu trữ nhiên liệu, rõ ràng khi phối trộn biodiesel vào diesel dầu mỏ, giá trị điểm chớp cháy đã tăng lên, đảm bảo tính an toàn trong tồn chứa nhiên liệu. Giá trị điểm đông đặc cũng được cải thiện, giúp cho việc lưu trữ và sử dụng biodiesel trong điều kiện nhiệt độ thấp được dễ dàng hơn. Kết luận Kết quả thu được từ nghiên cứu này cho thấy, mỡ cá thải thu hồi từ quá trình chế biến cá phile là một nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất biodiesel với thành phần acid béo rất tốt để cải thiện các tính năng cháy và phát thải của nhiên liệu. Nguồn nguyên liệu này cũng đặc trưng bởi giá trị hàm lượng acid béo tự do không quá cao nên hoàn toàn có thể áp dụng quy trình tổng hợp một giai đoạn bằng xúc tác kiềm, rẻ tiền, đơn giản nhưng cho hiệu suất chuyển hóa cao (87%). Chất lượng biodiesel B100 từ nguyên liệu mỡ cá thải, cũng như chất lượng tất cả các mẫu biodiesel được phối trộn theo tỷ lệ thể tích khác nhau từ 2 đến 12% với dầu diesel truyền thống (tương ứng B2 đến B12) được đánh giá theo quy chuẩn và tiêu chuẩn Việt Nam cho kết quả hoàn toàn trong ngưỡng cho phép đối với mọi chỉ tiêu. Riêng với trị số cetane, biodiesel loại này cho giá trị rất cao, giúp cải thiện đáng kể quá trình cháy của nhiên liệu, giảm phát thải ô nhiễm môi trường. Hàm lượng lưu huỳnh trong biodiesel (B100) rất thấp nên cũng góp phần làm giảm đáng kể hàm lượng lưu huỳnh trong các mẫu phối trộn, từ đó đảm bảo tiêu chuẩn phát thải của động cơ, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam khi hướng đến sử dụng bộ tiêu chuẩn phát thải EURO 5 thì tiêu chuẩn hàm lượng lưu huỳnh thấp là một chỉ tiêu cần đặc biệt lưu tâm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] U.S. Energy Information Administration (EIA), The Monthly Energy Review, 2019, [2] Prudour Pvt. Ltd., Biodiesel market by type (Vegetable Oil, Animal Fat) by application (Fuel, Power Generation, Others) and by region - Global Forecast to 2026, https://marketresearch.biz/report/biodiesel-market/. [3] REN21, Renewables 2019 global status report, 2019, ISBN 978-3-9818911-7- 1, https://marketresearch.biz/report/biodiesel-market/. [4] T. Thamsiriroj, J.D. Murphy (2011), “A critical review of the applicability of biodiesel and grass biomethane as biofuels to satisfy both biofuel targets and sustainability criteria”, Applied Energy, 88(4), pp.1008-1019. [5] R. Estevez, L.A. Deblas, F.M.M. Bautista, D. Luna, C. Luna, J. Calero, A. Posadillo, A.A. Romero (2019), “Biodiesel at the crossroads: a critical review”, Catalysts, 9(12), DOI:10.3390/catal9121033. [6] M. Satyanarayana, C. Muraleedharan (2010), “Methyl ester production from rubber seed oil using two-step pretreatment process”, International Journal of Green Energy, 7, pp.84-90. [7] Carlos Daniel Mandolesi de Araújon, Claudia Cristina de Andrade, Erika de Souza de Silva, Francisco Antonio Dupas (2013), “Biodiesel production from used cooking oil: a review”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, 27, pp.445-452. [8] J.F. Costa, M.F. Almeida, M.C.M. Alvim-Ferraz, J.M. Dias (2013), “Biodiesel production using oil from fish canning industry wastes”, Energy Conversion and Management, 74, pp.17-23. [9] Greenea (2018), “Waste-based feedstock and biodiesel market in the EU: how new regulations may influence the market”, 7th Annual Platts Geneva Biofuels Conference April 26, 2018, https://www.greenea.com/wp-content/uploads/2018/04/ Greenea-Platts-Geneva-2018.pdf. [10] L.V. Boi, P.N. Lan, Y. Maeda (2011), “The current and persective of biodiesel development in Vietnam”, International Workshop: “The establishment of Clean Technology for the Production of Biodiesel Fuel from Waste Fish Oil and others”, July 20th and 21st 2011, Organization for Industry, University and Government, Osaka Prefecture University, Japan, pp.1-6. [11] [12] ENERFISH, Integrated Renewable Energy Solutions for Seafood Processing Stations, Project number: 219008, 2009-2013. [13] Trần Kiều Oanh, Bùi Thị Bửu Huê (2008), “Nghiên cứu tổng hợp biodiesel từ mỡ cá basa”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 10, tr.1-5. [14] Nguyễn Hồng Thanh, Nguyễn Trần Tú Nguyên, Nguyễn Thị Phương Thoa (2009), “Điều chế biodiesel từ mỡ cá basa bằng phương pháp hóa siêu âm”, Tạp chí Phát triển KH&CN, 12(3), tr.51-61. [15] Lê Thị Thanh Hương (2011), Nghiên cứu tổng hợp biodiesel bằng phản ứng Ancol phân từ mỡ cá da trơn ở Đồng bằng sông Cửu Long trên xúc tác acid và bazơ: xúc tác đồng thể và dị thể, sử dụng vi sóng và sóng siêu âm, Luận án Tiến sĩ kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. [16] Vũ Ngọc Khiêm (2017), “Khảo sát đặc tính và điều chỉnh thời điểm phun nhiên liệu của động cơ diesel trên các máy nông nghiệp khi sử dụng nhiên liệu biodiesel từ mỡ cá basa”, Tạp chí Giao thông Vận tải, 6, tr.112-116. [17] Hồ Trung Phước (2019), Nghiên cứu sử dụng dầu diesel sinh học từ mỡ cá da trơn cho động cơ của phương tiện khai thác thủy sản, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Nha Trang. [18] Z.J. Predojevic, B.D. Skrbić (2009), “Alkali-catalyzed production of biodiesel from waste frying oils”, J. Serb. Chem. Soc., 74(8-9), DOI: 10.2298/JSC0909993P. [19] M.M. Azam, A. Waris, N.M. Nahar (2005), “Prospects and potential of fatty acid methylesters of some non-traditional seed oils for use as biodiesel in India”, Biomass and Bioenergy, 29(4), pp.293-302. [20] Gerhard Knothe (2008), ““Designer” biodiesel: optimizing fatty ester composition to improve fuel properties”, Energy & Fuels, 22, pp.1358-1364. [21] J.A. Kinast (2003), Production of biodiesels from multiple feedstocks and properties of biodiesels and biodiesel/diesel blends, Report of National Renewable Energy Laboratory, NREL/SR-510-31460. [22] Luis Felipe Ramírez-Verduzco, Javier Esteban Rodríguez-Rodríguez, Alicia del Rayo Jaramillo-Jacob (2012), “Predicting cetane number, kinematic viscosity, density and higher heating value of biodiesel from its fatty acid methyl ester composition”, Fuel, 91(1), pp.102-111. [23] Anne Jaecker-Voirol, X. Montagne, P. Mirabel, T.X. Nguyen Thi (2006), “Modelling particle formation: a helpful tool to interpret measurement results”, Environment & Transport, Actes INRETS, pp.321-331.
File đính kèm:
- nghien_cuu_kha_nang_phoi_tron_biodiesel_tong_hop_tu_dau_mo_c.pdf