Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam

Trong những thập kỷ qua, các khái niệm bền vững (sustainability), phục hồi (resilience) được rất nhiều học giả nghiên cứu. Theo nền tảng khoa học sinh thái này, đô thị (ĐT) được xem là một hệ thống hợp nhất giữa tự nhiên và xã hội. Theo đó, không gian đô thị (KGĐT) cần được quy hoạch dựa trên nền tảng của tự nhiên, tận dụng được các chức năng sinh thái để có thể tự điều tiết và cân bằng với các điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại địa phương, hướng đến phát triển bền vững. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng không gian trung hòa và linh hoạt nhất để đô thị đạt được điều này chính là Hạ tầng xanh (HTX) [1]. Nghiên cứu này chọn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (PR-TC) - khu vực đô thị hóa cao nhất tại tỉnh Ninh Thuận, ven biển miền Trung, vốn được xem là một thành phố ven biển chịu nhiều tác động lớn của biến đổi khí hậu (BĐKH), hạn hán, bão, lũ quét, xâm ngập mặn và nước biển dâng - để khảo sát cấu trúc và khả năng thích ứng của HTX. Hình ảnh và số liệu được chiết xuất từ chỉ số thực vật chuẩn hóa (Normalinsed Difference Vegetation Index - NDVI) của hình ảnh viễn thám. Kết quả cho thấy không gian xanh tại PR-TC rất có tiềm năng để phát triển thành mạng lưới HTX linh hoạt và thích ứng, hướng tới phục hồi với hạn hán và phát triển bền vững

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam trang 1

Trang 1

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam trang 2

Trang 2

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam trang 3

Trang 3

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam trang 4

Trang 4

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang viethung 8920
Bạn đang xem tài liệu "Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam
SË 100 . 201956
Hạ tầng xanH cHo đô tHị tHícH ứng với Hạn Hán 
trường hợp tỉnh ninh thuận, Việt nam
& taÙC giaÛ 
QuY hOạCh
Trong những thập kỷ qua, các khái niệm bền 
vững (sustainability), phục hồi (resilience) 
được rất nhiều học giả nghiên cứu. Theo nền 
tảng khoa học sinh thái này, đô thị (ĐT) được 
xem là một hệ thống hợp nhất giữa tự nhiên 
và xã hội. Theo đó, không gian đô thị (KGĐT) 
cần được quy hoạch dựa trên nền tảng của 
tự nhiên, tận dụng được các chức năng sinh 
thái để có thể tự điều tiết và cân bằng với các 
điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại địa phương, 
hướng đến phát triển bền vững. Nhiều nghiên 
cứu chứng minh rằng không gian trung hòa 
và linh hoạt nhất để đô thị đạt được điều này 
chính là Hạ tầng xanh (HTX) [1]. Nghiên cứu 
này chọn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 
(PR-TC) - khu vực đô thị hóa cao nhất tại tỉnh 
Ninh Thuận, ven biển miền Trung, vốn được 
xem là một thành phố ven biển chịu nhiều tác 
động lớn của biến đổi khí hậu (BĐKH), hạn hán, 
bão, lũ quét, xâm ngập mặn và nước biển dâng 
- để khảo sát cấu trúc và khả năng thích ứng 
của HTX. Hình ảnh và số liệu được chiết xuất 
từ chỉ số thực vật chuẩn hóa (Normalinsed 
Difference Vegetation Index - NDVI) của hình 
ảnh viễn thám. Kết quả cho thấy không gian 
xanh tại PR-TC rất có tiềm năng để phát triển 
thành mạng lưới HTX linh hoạt và thích ứng, 
hướng tới phục hồi với hạn hán và phát triển 
bền vững.
Từ khóa: bền vững, thích ứng, phục hồi, không gian xanh, hạ 
tầng xanh.
The emerging concepts of sustainability, resilience have been studied during the past decades. Basing on the eclogocal science, a city is considered as ecological-social systems. Of which, urban spaces must naturally be planned, taking advantage of ecosystem services in order to self-organise and balance with local extreme wearther events, moving towards sustainability. Many researches proved that 
the most moderate and flexible spaces are Green Infrastructure (GI) [1]. This study selected the case of capital city Phan Rang – Thap Cham 
(PR-TC) - the most urbanized area of Ninh Thuan province (NT), in the center of Vietnam, which has been known as one of the coastal cities 
that are affected by CC, drought, storms, flash floods, and sea level rise - to examine its GI’s structure and adaptive possibility. Maps and 
figures are extracted from Normalised Difference Vegetation Index (NDVI) of remote sensing image. Results illustrates that green spaces in 
PR-TC are very potential to become a flexible and adaptive GI, towards drought resilience and sustainability.
Key words: sustainability, adaptive, resilience, green space, green infrastructure.
nguYễn QuOáC Vinh 
Khoa Kỹ thuật Xây dựng, Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam
57SË 100 . 2019
I Giới thiệu tổng quan
Với áp lực về môi trường ngày một tăng tại các khu vực ĐT, các 
học giả đã tập trung nghiên cứu về tính bền vững và khả năng 
thích nghi, phục hồi của nó. Những khái niệm này đều dựa trên 
nền tảng của khoa học sinh thái, theo đó một thành phố về cơ 
bản được xem như là một hệ sinh thái - xã hội phức hợp. Đặc biệt, 
khái niệm phục hồi nhấn mạnh rằng hệ sinh thái ĐT phải trải qua 
bốn giai đoạn từ hình thành đến khai thác, duy trì, thay đổi và tái tổ 
chức, để có thể trở lại trạng thái ổn định sau các tấn công gây xáo 
trộn từ bên ngoài. Để đạt được điều đó, ĐT phải được quy hoạch 
và thiết kế chú trọng vào vai trò và chức năng của các không gian 
tự nhiên, vốn có khả năng linh hoạt cao giúp tăng cường khả năng 
thích ứng với những biến động của điều kiện khí hậu (ĐKKH) địa 
phương, và BĐKH. Cùng với các khái niệm ĐT bền vững và phục 
hồi, khái niệm HTX dựa trên những quan điểm cơ bản của khoa 
học sinh thái, cung cấp những nguyên tắc cơ bản, là công cụ quy 
hoạch thích ứng, phục hồi và bền vững hữu hiệu, thu hút quan sự 
tâm lớn của giới quy hoạch và quản trị ĐT.
Trong bối cảnh của Ninh Thuận nói chung và PR-TC nói riêng, 
khô hạn, nóng bức là một trong những điều kiện đầy thách thức 
và tác động nhiều đến đời sống người dân, cản trở và hạn chế vai 
trò hỗ trợ của hệ sinh thái. Nguyên nhân chủ yếu do sự gia tăng 
không gian xây dựng - hay mặt không thấm (MKT)[2], không gian 
xanh thấp và thiếu kết nối. Nhiều nghiên cứu về quá trình đô thị 
hóa (ĐTH) đã nhận định có sự tương quan nghịch giữa nhiệt độ 
với không gian xanh, và tương quan thuận với MKT[2][3]. Bên cạnh 
đó, nhiệt độ cao cũng được xem là một trong những hậu quả của 
hạn hoặc liên quan đến hạn, và được dùng làm chỉ số để đánh giá 
mức độ hạn[4][5]. Như vậy, không gian xanh được xem là một trong 
những yếu tố cốt lõi để giải quyết thách thức về điều kiện nóng 
và khô hạn tại PR-TC. Bài báo gồm ba phần: (i) Các khái niệm 
về ĐT phục hồi và HTX ĐT, (ii) Các bài học kinh nghiệm về triển 
khai mạng lưới HTX trên thế giới, (iii) Bối cảnh khu vực nghiên cứu 
và kết quả đánh giá. Dựa vào kết quả hình ảnh và số liệu từ công 
nghệ viễn thám và GIS, hình ảnh Google, một đánh giá bước đầu 
về quy mô và tính kết nối được thực hiện: PR-TC có nhiều tiềm 
năng để phát triển thành ĐT thích ứng do có diện tích thực phủ 
cao, nhưng được phân bổ rải rác thiếu tập trung và thiếu kết nối, 
đặc biệt là thiếu kết nối với thủy hệ trên địa bàn thành phố. 
II Đô thị phục hồi và hạ tầng xanh đô thị
II.1 Thích ứng  ... iên có thể tích hợp trong 
MTĐT. Trong cuốn sách “Design with Nature” xuất bản năm 1969, 
Mc Harg đã đề xuất nhiều nguyên tắc sinh thái để quy hoạch và 
thiết kế ĐT[15]. Nhưng trong một thời gian dài, do nhiều lý do, sinh 
thái chỉ được sử dụng hạn chế theo ngữ nghĩa của cái gọi là “môi 
trường” (environment), vốn được cho rằng là cái gì đó “tự nhiên” mà 
không thuộc về thành phố. Nhưng chắc chắn rằng các môi trường 
kinh tế, xã hội, văn hóa đều được bao bọc bởi MTTN. 
Từ công viên tới hạ tầng xanh đô thị
Công viên: Là một loại cảnh quan tự nhiên trong lòng ĐT. Quy mô 
khác vai trò sẽ khác[16].
Công viên nhỏ - công viên đô thị. Thường chỉ để gợi về hoặc đại 
diện cho tự nhiên ở vài chức năng nào đó, do chúng không có quá 
trình tiến hóa tự điều chỉnh, cũng không là những hệ sinh thái thích 
ứng hướng đến phát triển bền vững. Nó như là một biểu tượng từ 
chính tư duy sinh thái của người thiết kế (Designer Ecology) hơn là 
thiết kế mang tính sinh thái (Ecological Design). Chúng chỉ được 
xem là một thành phần của tự nhiên khi chúng được kết nối với 
những công viên với quy mô tương tự về mặt chức năng, thông qua 
một mạng lưới HTX đủ mạnh.
Công viên lớn: Là những hệ sinh thái phức hợp. Nó có khả năng 
phục hồi khi cần phải thích ứng để thay đổi. Thường có quy mô lớn 
hơn nhiều so với những công viên ĐT cả về sự đa dạng sinh học. 
Nên chúng có thể cùng với mạng lưới HTX, với hệ sinh thái điều tiết 
rất hiệu quả các ĐKKH tại địa phương.
Quy hoπch & t∏c gi∂ 
SË 100 . 201958
Hạ tầng xanh đô thị. Về mặt không gian là 
những không gian mở, mặt nước, công viên 
trung tâm, rừng, hành lang xanh, cây lề 
đường, và kể cả những không gian mở tại 
vùng nông thôn. 
Kết nối các công viên lớn nhỏ trong ĐT 
tạo thành mạng lưới HTX sẽ mang lại 
nhiều lợi ích cho MTĐT. Nó hỗ trợ các quá 
trình sinh lý của tự nhiên như: thủy văn, đa 
dạng sinh học, kết nối các dòng thông tin, 
vật chất Ngoài ra, với những ĐT tọa lạc 
tại các vùng có ĐKKH khô hạn như PR-
TC, không gian xanh còn giúp giảm nhiệt 
độ, giảm hiện tượng ĐNĐT, giảm nhu cầu 
sử dụng nước, trung hòa sự phân hóa về 
không gian và nâng cao khả năng thích 
ứng[1][3]. Nhìn chung, những điểm cần lưu 
ý trong quy hoạch hệ thống HTX: “tiếp cận 
đa cấp độ”, “cấu trúc mô hình cảnh quan” 
và “tính kết nối”. 
III Bài học kinh nghiệm về ứng 
dụng mạng lưới hạ tầng xanh 
Những bài học kinh nghiệm dưới đây về 
việc triển khai HTX tại nhiều cấp, được thu 
thập từ các châu lục khác nhau trên thế 
giới (châu Á, châu Âu và châu Mỹ), cho 
thấy sự đa dạng về địa lý, bối cảnh nhưng 
định hướng chung vẫn là phát triển phù 
hợp, thích nghi với điều kiện tự nhiên của 
địa phương[1].
Thành phố Taizhou, Trung Quốc: HTX 
cấp ĐT. Thành phố có dân số 5.5 triệu 
dân, diện tích 1.000km2
ĐT chịu ảnh hưởng của ngập lụt thường 
xuyên. Hiện đang chịu nhiều áp lực từ quá 
trình ĐTH và phát triển hạ tầng. Để giải 
quyết vấn đề này, Kongian Yu - kiến trúc 
sư cảnh quan của ĐH Beijing đã quy hoạch 
thành phố dựa trên hạ tầng sinh thái nhằm 
hỗ trợ cho các chức năng của tự nhiên: vô 
sinh (abiotic), hữu sinh (biotic) và văn hóa 
(cultural). Quy hoạch giới hạn sự phát triển 
tràn lan thiếu kiểm soát của ĐT, với tên gọi 
“các hình mẫu an toàn” (security patterns): 
(i) tối thiểu, (ii) trung bình, và (iii) tối đa. 
Sản phẩm này gồm bộ hướng dẫn sinh thái 
cảnh quan về: (i) tiếp cận đa cấp độ, (ii) mối 
liên hệ và quá trình của hình mẫu, và (iii) 
sự kết nối, đặc biệt với các mạng lưới thủy 
văn đa năng. Những hướng dẫn quy hoạch 
HTX với đề xuất quan điểm không gian rất 
rõ ràng cũng bao gồm trong sản phẩm này.
Vành đai thủy tại Staten, thành phố New 
York: HTX cấp khu vực. Dân số thấp, sinh 
thái tự nhiên ít bị xâm phạm.
Những năm 80, chính quyền tích hợp quản 
lý nguồn nước với vùng ngập rộng 4.000ha. 
Quy hoạch gồm 2 thành phần cơ bản tách 
biệt: hệ thống cống thoát và thu nước mưa. 
Hệ thống nước mưa được xem là một ví dụ 
về HTX hợp nhất giữa thu nước mưa đa 
năng và các vùng ngập vào quy hoạch hạ 
tầng ĐT một cách hoàn chỉnh. 
Tiêu chí xanh tại thành phố Berlin: HTX 
cấp công trình. Thuộc khu vực khá biệt lập 
như một hòn đảo đô thị.
Theo chương trình này, mỗi khu đất phải 
giảm thiểu được tác động của chính nó tại 
khu vực. Mục tiêu chính là chống lại việc 
“rò rỉ” nước, quy định các công trình xây 
mới hoặc cải tạo phải đạt tiêu chí xanh. 
“Xanh” nhằm vào các chức năng: giảm bốc 
hơi, giữ hoặc thấm nước mặt, loại bỏ tạp 
chất, bụi, tái tạo thổ nhưỡng và gia tăng 
môi trường sống cho thực vật và động vật.
IV Bối cảnh khu vực nghiên cứu 
và kết quả 
IV.1 Bối cảnh tỉnh Ninh Thuận và thành phố 
Phan Rang – Tháp Chàm
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển vùng 
Duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam, tọa 
lạc tại: 11o18’14” đến 12o 09’15” độ vĩ Bắc, 
108o 09’08” đến 109o 14’25” độ kinh Đông. 
Thủy văn: tổng diện tích các lưu vực sông 
là 3.092km2, gồm 46 sông, suối và 04 
tầng chứa nước chính, trong đó lưu vực 
sông Dinh chiếm phần lớn diện tích với 
3.000km2, các lưu vực còn lại chiếm 92km2. 
Khí tượng: khô (75% - 77%), nóng (26oC - 
27oC) và gió mạnh (2,3m/s - 5 m/s mạnh 
nhất là 25m/s) và tốc độ bốc hơi cao. 
Khí hậu cực đoan: xen kẽ giữa hạn hán và 
lũ lụt. Tuy nhiên lũ lụt giảm nhiều nhờ việc 
quy hoạch và xây dựng nhiều hồ chứa, đập 
và đê trên địa bàn.
Không gian tỉnh được chia thành ba tiểu 
vùng khí hậu. Khu vực ven biển (III) có mức 
độ hạn hán tồi tệ nhất với lượng mưa trung 
bình khoảng 500 - 700 mm/năm, khu vực 
nghiên cứu - thành phố PR-TC - thuộc tiểu 
vùng này. Khu vực đồng bằng (II) cũng bị 
hạn hán với lượng mưa từ 750 đến 1.200 
mm/năm. Khu vực miền núi (I) có lượng 
mưa 1.000 - 1.700 mm/năm. 
IV.2 Không gian xanh và mặt nước tại 
Ninh Thuận và thành phố Phan Rang – 
Tháp Chàm 
Nền tảng giúp tăng cường năng lực thích 
ứng của MTĐT với các rủi ro từ thiên tai, 
từ BĐKH chính là cách thức tổ chức không 
gian mở, không gian xanh, không gian mặt 
nước và các không gian xây dựng trong 
ĐT[12], vốn liên quan chặt chẽ với nhiệt độ[3]. 
Các yếu tố trên sẽ được tiến hành khảo 
sát, phân tích và đánh giá tại 02 cấp độ: 
lưu vực sông Dinh và thành phố PR-TC. 
Cấp độ lưu vực
Các bản đồ đánh giá điều kiện tự nhiên lưu 
vực sông Dinh gồm: bản đồ địa hình, bản đồ 
mạng lưới thủy văn, bản đồ phân bố nhiệt 
độ bề mặt (Land Surface Temperature - 
LST) được thu thập từ nhiều nguồn khác 
nhau như ảnh viễn thám, GIS để khảo sát 
tổng thể về tỉnh Ninh Thuận (Hình 2).
02 loại mặt phủ quan trọng của mạng lưới 
HTX là thực vật (dày - rừng hoặc cây trồng 
lâu năm, và thưa - cây bụi, đồng cỏ, hoặc 
đất nông nghiệp) và mặt nước được khảo 
sát về quy mô và tính kết nối (Hình 3). Bản 
đồ và số liệu được chiết xuất từ hình ảnh 
viễn thám, dựa theo chỉ số thực vật chuẩn 
hóa của Ninh Thuận (NDVI) tại thời điểm 
11/4/2019 (Earth Explorer), bản đồ Google 
(8/2019), và một số hình ảnh khảo sát trực 
quan tại địa điểm (9/2019).
Hình 1: Vị trí thành phố PR-TC trong tiểu 
vùng khí hậu. 
(Nguồn: tác giả)
Quy hoπch & t∏c gi∂ 
Đánh giá - Nhận xét
Không gian xanh: (i) thực phủ dày (rừng, cây 
lâu năm): chiếm tỉ lệ khá cao diện tích toàn 
thành phố (23,01%), đa phần là các khu 
vực chưa phát triển ĐT, phân tán tại khu 
vực trung tâm, dày hơn ở phía Tây Bắc, (ii) 
thực phủ thưa (cây bụi, đồng cỏ hoặc nông 
nghiệp): chiếm tỉ lệ cao (55,38%), rải đều 
trên địa bàn.
Không gian mặt nước: chủ yếu là sông Dinh, 
Đầm Nại và một số hồ điều tiết trong nội 
thành.
Tính kết nối: (i) Quy mô: nhìn chung diện 
tích không gian xanh khá cao do PR-TC 
không phải là ĐT trọng điểm tại khu vực 
miền Trung, và mới ĐTH từ những năm 
1990. (ii) Kết nối: Theo bản đồ mạng lưới 
thủy văn trên lưu vực sông Dinh (Hình 2b) 
và thủy hệ (Hình 3c), dòng chảy có xu 
hướng đổ từ Tây Bắc xuống Đông Nam 
theo sông Dinh ra biển Đông. Nhưng sự 
kết nối của không gian xanh với nhau và 
với thủy hệ rất yếu (Hình 3a). Các trục giao 
thông đối nội và đối ngoại phân hóa mạnh 
không gian tự nhiên lưu vực[17]: tại PR-TC, 
trục Quốc Lộ 1A theo hướng Tây Nam-
Đông Bắc, các trục giao thông chính của 
PR-TC theo hướng Đông Nam-Tây Bắc xé 
không gian tự nhiên thành các tiểu vùng 
nhỏ, thiếu kết nối. 
Nhìn chung, về quy mô, sự phân bổ diện 
tích không gian xanh, mặt nước và không 
gian mở trên toàn thành phố là khá cao. Về 
tính kết nối, mặc dù có diện tích khá cao 
nhưng lại được phân bố không đều, phân 
tán và thiếu kết nối. Tuy nhiên, với thực 
trạng này, PR-TC hoàn toàn có tiềm năng 
Hình 2: Điều kiện tự nhiên lưu vực sông 
Dinh, vùng tỉnh Ninh Thuận. (a) Bản đồ địa 
hình, (b) Bản đồ mạng lưới thủy văn, (c) Bản 
đồ phân bố nhiệt độ. (Nguồn: Tác giả)
Cấp độ đô thị
Hình 3: Không gian mặt phủ thành phố 
PR-TC. (a) Thực phủ dày, (b) Thực phủ thưa, 
(c) Thủy hệ. 
(Nguồn: Tác giả)
59SË 100 . 2019
SË 100 . 201960
để phát triển mạng lưới HTX thích ứng với hạn hán.
V Kết luận
Thành phố - “SES”, là một hệ thống sinh thái - xã hội phức 
hợp, không chỉ năng động mà còn tự tổ chức và chủ động 
điều chỉnh để thích ứng với các tấn công từ bên ngoài như 
thiên tai hoặc BĐKH, có thể hoặc không thể dự báo. Trường 
hợp của PR-TC, một thành phố nghèo có mức độ khô hạn 
và nóng bức nhất tại Việt Nam cũng có thể được định hướng 
và phát triển để thích ứng với mọi hoàn cảnh. Từ các nhận 
định về mối quan hệ giữa việc gia tăng nhiệt độ đô thị với 
không gian xanh và MKT, bài báo tiến hành khảo sát thực 
trạng không gian xanh, không gian mặt nước trên địa bàn 
thành phố để bước đầu đánh giá quy mô, cấu trúc và khả 
năng kết nối của những không gian này. Kết quả cho thấy 
PR-TC hoàn toàn có thể định hướng và phát triển thành ĐT 
thích ứng với hạn hán. Nó sẽ là tiền đề để xây dựng hệ thống 
nguyên tắc tổ chức mạng lưới HTX các cấp tại Ninh Thuận, 
nâng cao khả năng thích ứng với ĐKKH nói chung và với hạn 
hán nói riêng, hướng đến phát triển bền vững.
Tài liệu Tham khảo:
[1] J. Ahern, “Green infrastructure for cities: the spatial dimension,” Cities 
Futur. Integr. Sustain. Water Landsc. Manag., no. May, pp. 267–283, 2007.
[2] T. T. Vân, “Nghiên cứu biến đổi nhiệt độ đô thị dưới tác động của quá 
trình đô thị hóa bằng phương pháp viễn thám và GIS, trường hợp khu vực 
thành phố Hồ Chí Minh,” 2011.
[3] N. Q. Vinh, N. T. Khanh, and P. T. Anh, “The inter-relationships 
between LST, NDVI, NDBI in Remote Sensing to Achieve Drought 
Resilience in Ninh Thuan, Vietnam,” 2019.
[4] W. Szalińska, I. Otop, and T. Tokarczyk, “Urban drought,” E3S Web 
Conf., vol. 45, p. 00095, 2018.
[5] WMO and GWP, Handbook of drought indicators and indices, no. 
1173. 2016.
[6] C. S. Holling, “Resilience and stability of ecological systems. Annual 
Review of Ecology and Systematics,” 1973.
[7] C. S. Holling and L. H. Gunderson, “Resilience and adaptive cycles,” 
Panarchy Underst. Transform. Hum. Nat. Syst., pp. 25–62, 2002.
[8] Millenium Ecosystem Assessment, Millenium Ecosystem Assessment: 
ecosystems and human well-being. 2005.
[9] S. Framework and D. R. Reduction, “Sendai Framework for Disaster 
Risk Reduction 2015-2030,” no. March, pp. 1–25, 2015.
[10] S. Meerow, J. P. Newell, and M. Stults, “Defining urban resilience: A 
review,” Landsc. Urban Plan., vol. 147, pp. 38–49, 2016.
[11] Fleischhauer and M. Fleischhauer, “The role of spatial planning in 
strengthening urban resilience,” Resil. Cities to Terror. other Threat. Proc. 
NATO Adv. Res. Work. Urban Struct. Resil. under Multi-Hazard Threat. 
Lessons 9/11 Res. Issues Futur. Work, pp. 273–298, 2008.
[12] N. M. Ni’mah and S. Lenonb, “Urban greenspace for resilient city in 
the future: Case study of Yogyakarta City,” in IOP Conference Series: Earth 
and Environmental Science, 2017, vol. 70, no. 1, pp. 0–8.
[13] Dissanayake, Morimoto, Ranagalage, and Murayama, “Land-Use/
Land-Cover Changes and Their Impact on Surface Urban Heat Islands: 
Case Study of Kandy City, Sri Lanka,” Climate, vol. 7, no. 8, p. 99, 2019.
[14] N. D. Crossman, “Drought Resilience , Adaptation and Management 
Policy (DRAMP) Framework,” Support. Tech. Guidel., no. July, p. 17, 2018.
[15] I. McHarg, Design with nature. New York, USA: John Wiley & Sons, 
Inc, 1992.
[16] N. M. Lister, “Sustainable large park: Ecological design or design 
ecology?,” in Large Park, 2007, pp. 35–57.
[17] Forman, R.T., and D.Sperling, “Road ecology: science and solutions,” 
Choice Rev. Online, vol. 40, no. 11, pp. 40-6438-40–6438, 2003.

File đính kèm:

  • pdfha_tang_xanh_cho_do_thi_thich_ung_voi_han_han_truong_hop_tin.pdf