Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững

Vườn quốc gia Bến En thuộc tỉnh Thanh Hóa, được thành lập theo Quyết định số 33/CT ngày 27

tháng 01 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Vườn quốc gia

Bến En vốn được mệnh danh từ lâu là “Hạ Long trên cạn của xứ Thanh”. Được thiên nhiên ưu ái ban

tặng cho nét đẹp thanh tú, nguyên sơ, nơi đây thu hút hàng triệu khách du lịch mỗi năm và là niềm tự

hào lớn lao của những con người xứ Thanh. Bến En là khu quần thể sinh thái đặc biệt khi hội tụ đầy

đủ nét đẹp thiên nhiên: hệ sinh thái, sông nước, núi đồi, hang động Hiện nay, một số điểm du lịch

trong vườn quốc gia đã được khai thác cho đón khách, tuy nhiên hoạt động du lịch còn nhỏ lẻ, chưa

có định hướng khai thác hiệu quả tài nguyên. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp ma trận điểm kết

hợp phương pháp chuyên gia để phân tích, đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc

gia Bến En. Hệ thống các tiêu chí được đưa ra dựa trên một số nghiên cứu đi trước và thực tế địa bàn

nghiên cứu, tác giả đưa ra 8 tiêu chí chính và các tiêu chí phụ thuộc để đánh giá khả năng phát triển

du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En. Kết quả đánh giá cho thấy, vườn quốc gia Bến En là điểm

du lịch có khả năng phát triển du lịch sinh thái nếu như được đầu tư về cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ

thống sản phẩm du lịch đặc thù, phân đoạn được thị trường khách du lịch.

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 1

Trang 1

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 2

Trang 2

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 3

Trang 3

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 4

Trang 4

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 5

Trang 5

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 7400
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững

Đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến en, tỉnh Thanh hóa theo hướng bền vững
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 77 - 82 
 77
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI 
Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN, TỈNH THANH HÓA THEO HƯỚNG BỀN VỮNG 
Nguyễn Thị Phương Nga1*, Nguyễn Xuân Trường2 
 1Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, 2Đại học Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Vườn quốc gia Bến En thuộc tỉnh Thanh Hóa, được thành lập theo Quyết định số 33/CT ngày 27 
tháng 01 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Vườn quốc gia 
Bến En vốn được mệnh danh từ lâu là “Hạ Long trên cạn của xứ Thanh”. Được thiên nhiên ưu ái ban 
tặng cho nét đẹp thanh tú, nguyên sơ, nơi đây thu hút hàng triệu khách du lịch mỗi năm và là niềm tự 
hào lớn lao của những con người xứ Thanh. Bến En là khu quần thể sinh thái đặc biệt khi hội tụ đầy 
đủ nét đẹp thiên nhiên: hệ sinh thái, sông nước, núi đồi, hang độngHiện nay, một số điểm du lịch 
trong vườn quốc gia đã được khai thác cho đón khách, tuy nhiên hoạt động du lịch còn nhỏ lẻ, chưa 
có định hướng khai thác hiệu quả tài nguyên. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp ma trận điểm kết 
hợp phương pháp chuyên gia để phân tích, đánh giá khả năng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc 
gia Bến En. Hệ thống các tiêu chí được đưa ra dựa trên một số nghiên cứu đi trước và thực tế địa bàn 
nghiên cứu, tác giả đưa ra 8 tiêu chí chính và các tiêu chí phụ thuộc để đánh giá khả năng phát triển 
du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En. Kết quả đánh giá cho thấy, vườn quốc gia Bến En là điểm 
du lịch có khả năng phát triển du lịch sinh thái nếu như được đầu tư về cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ 
thống sản phẩm du lịch đặc thù, phân đoạn được thị trường khách du lịch. 
Từ khóa: Thanh Hóa, Bến En, Du lịch sinh thái, Phát triển bền vững, vườn quốc gia. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào 
thiên nhiên hoang sơ phục vụ cho nhu cầu 
khám phá tự nhiên của khách du lịch. Việc 
hình thành vườn quốc gia và các khu bảo tồn 
nhằm mục tiêu chính là bảo tồn đa dạng sinh 
học, phục vụ nghiên cứu khoa học và giáo 
dục, tạo môi trường du lịch. Như vậy, vườn 
quốc gia là những địa bàn phù hợp cho du 
lịch sinh thái. Khả năng hấp dẫn du lịch sinh 
thái của vườn quốc gia ngày càng được quan 
tâm trong sử dụng để đầu tư cho phát triển du 
lịch vì sự phong phú của tự nhiên, sự đa dạng 
của hệ sinh thái và cảnh quan. Chúng được 
coi là nền tảng cho sự phát triển du lịch sinh 
thái và mang lại lợi ích về kinh tế, xã hội. 
Vườn quốc gia Bến En nằm trên địa bàn 
huyện Như Thanh và Như Xuân, tỉnh Thanh 
Hóa, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 
36 km về phía tây nam. Tổng diện tích của 
vườn 14.735 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 
8.544 ha. Vườn quốc gia Bến En có địa hình 
nhiều đồi núi, có nhiều sông, suối và hồ 
Mực trên núi có diện tích 3000 ha có 21 đảo 
nổi giữa là một trong vườn quốc gia đẹp nhất 
* Tel: 0971120981; email: ngatn129@gmail.com 
Việt Nam, đây là điều kiện thuận lợi để phát 
triển một loại hình du lịch xanh. Việc đánh 
giá khả năng khai thác của vườn quốc gia Bến 
En góp phần định hướng sản phẩm du lịch 
phù hợp với nhu cầu của khách du lịch, đồng 
thời góp phần bảo vệ cảnh quan, môi trường, 
phát triển bền vững. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Phương pháp thu thập thông tin: Thông 
tin và số liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều 
nguồn khác nhau thông qua các văn bản của 
các cơ quan: Ủy ban nhân dân (UBND), Sở 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh 
Hóa, UBND các huyện Như Thanh, Như 
Xuân; một số tài liệu của các nhà nghiên cứu 
liên quan đến vấn đề này. 
- Phương pháp chuyên gia: Đây là phương 
pháp được đánh giá cao trong quá trình 
nghiên cứu du lịch hiện nay ở nước ta, do nhu 
cầu về du lịch rất nhạy cảm với thay đổi trong 
kinh tế xã hội. Mặt khác, đây là phương pháp 
có ưu điểm trong việc sử dụng để đánh giá 
các vấn đề có tính ước định, từ đó làm sáng tỏ 
các vấn đề kinh tế, đưa ra những kết luận có 
tính khoa học và thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu 
này đã thu thập ý kiến của các chuyên gia là 
các nhà khoa học trong việc đưa ra các tiêu 
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 77 - 82 
 78
chí đánh giá và cho điểm khả năng khai thác 
cho du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En. 
- Phương pháp ma trận điểm: Hiện nay đa 
số các nghiên cứu định lượng đều vận dụng 
phương pháp Ma trận điểm của Thompson-
Strickland [1] để xác định khả năng khai thác 
của một đối tượng bao gồm 4 bước chính sau: 
Bước 1: Xác định danh mục các nhân tố (tiêu 
chí) ảnh hưởng đến khả năng khai thác của 
đối tượng, danh mục này có thể thay đổi và 
khác biệt theo ngành và sản phẩm cụ thể. 
Bước 2: Đánh giá định tính hoặc/và định 
lượng để cho điểm từng nhân tố (tiêu chí). 
Thường cho điểm từ 1 (yếu nhất) đến 10 
(mạnh nhất). Mỗi nhân tố có thể có những tiêu 
chuẩn đánh giá khác nhau để kết quả có tính 
khách quan nhất nhưng đều phải sử dụng 
chung một thang điểm. 
Bước 3: Tổng hợp điểm và tính điểm bình 
quân của từng doanh theo công thức: 

n
1i
ixn
1x (công thức 1.1) 
Trong đó: xi là điểm của nhân tố thứ i 
Bước 4: So sánh điểm số của các nhân tố để 
xác định thứ tự về khả năng tác động của các 
đối tượng có thể so sánh, xác định vị trí theo 
từng nhân tố, cụm nhóm nhân tố và tổng thể 
tất cả các nhân tố. 
- Cho điểm các tiêu chí: Việc cho điểm cho 
mỗi tiêu chí được các chuyên gia đánh giá 
theo thang điểm 10. 
- Cách xác định trọng số: Đề nghị các chuyên 
gia xác định trọng số cho từng nhân tố (fi) 
theo mức độ quan trọng của từng tiêu chí sao 
cho tổng các trọng số này bằng 1. Khi đó 
trọng số chung (Fi) cho từng tiêu chí được xác 
định bằng cách lấy trung bình cộng các trọng 
số các tiêu chí này: 
m
f
F mj
ji
i

 ):1(
,
 với 1
):1(
 
 ni
if (công thức 1.2) 
Trong đó fi,j là trọng số của tiêu chí i trong ý 
kiến j. 
Sau khi đánh giá điểm và xác định trọng số 
của các tiêu chí, tác giả phân tích kết quả 
đánh giá, đưa ra khả năng phát triển du lịch 
sinh thái ở vư ... hách): Khoảng cách từ trung tâm đón 
khách đến điểm du lịch không quá xa (dưới 
100km) có điều kiện tiếp cận và thuận lợi. 
- Gần những điểm du lịch hấp dẫn khác trong 
vùng, để có thể tổ chức một tour du lịch trọn 
gói mà trong đó vườn quốc gia là một điểm 
du lịch sinh thái quan trọng. 
- Quy mô và sức chứa: vườn quốc gia có diện 
tích rộng, tuy nhiên hoạt động du lịch sinh 
thái chủ yếu thực hiện theo quy mô nhỏ tránh 
tác động xấu đến môi trường. Do đó tiêu chí 
quy mô được xác định linh hoạt theo nhu cầu 
của từng hình thức hoạt động của du lịch sinh 
thái (cắm trại, picnic...) và phụ thuộc vào sức 
chứa. Tại vườn quốc gia Bến En lấy quy mô 
theo tiêu chuẩn dùng cho các hoạt động tham 
quan với sức chứa: 60 – 70m2/người. 
- Có những điều kiện về cơ sở hạ tầng và cơ 
sở vật chất kỹ thuật đáp ứng được hoạt động 
cụ thể. 
- Hoạt động nghiên cứu và giáo dục, diễn giải 
về môi trường là hoạt động cần thực hiện 
trong xây dựng sản phẩm du lịch sinh thái ở 
các vườn quốc gia [6]. 
- Đào tạo nhân viên: được hiểu là lao động có 
tay nghề, được đào tạo, có hiểu biết về du lịch 
sinh thái 
- Giáo dục cộng đồng: Có hoạt động giáo dục 
đối với người dân địa phương ý thức được vai 
trò của các hệ sinh thái và giá trị của văn hóa 
bản địa, góp phần giữ gìn và bảo vệ môi 
trường tự nhiên và nhân văn. 
- Sự hỗ trợ của nhà nước: thông qua các dự 
án về bảo tồn và phát triển du lịch sinh thái 
trong các vườn quốc gia. 
- Các hoạt động quản lý, tổ chức: thực hiện 
bằng các hoạt động cụ thể, hình thành các chế 
tài góp phần hạn chế những tác động của 
khách du lịch đối với môi trường tự nhiên tại 
các vườn quốc gia. 
- Có thực hiện các hoạt động nghiên cứu tác 
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 77 - 82 
 80
động đến môi trường: thông qua các dự án và 
nội dung các chương trình du lịch. 
- Hành động bảo vệ môi trường: được thực 
hiện thường xuyên bằng các hành động cụ thể 
tại vườn quốc gia. 
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ 
Xác định trọng số của các tiêu chí với công 
thức 1.2 và các tính điểm bình quân với công 
thức 1.1 và việc phân tích kết quả đánh giá 
các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phát triển 
du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En có 
bảng kết quả sau: 
Bảng 2. Kết quả đánh giá khả năng khai thác cho phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En 
Tiêu chí chính Điểm Trọng số 
Tổng 
điểm Tiêu chí phụ thuộc Điểm 
Trọng 
số 
Tổng 
điểm 
1.Tài nguyên 
du lịch 7.33 0.112 0.821 
1. Có tính đa dạng sinh học cao 8.12 0.129 1.047 
2. Cảnh quan tự nhiên có giá trị 
đặc sắc 8.25 0.129 1.064 
3. Văn hóa bản địa 8.14 0.129 1.050 
2. Khả năng 
 tiếp cận 6.67 0.12 0.788 
1. Gần trung tâm du lịch lớn 6.85 0.118 0.808 
2. Gần các điểm du lịch khác 6.24 0.118 0.736 
3. Quy mô, 
sức chứa 7.02 0.119 0.835 
1. Quy mô linh hoạt đáp ứng mục 
tiêu 7.05 0.124 0.874 
2. Tuân theo 4 ngưỡng: sinh học, 
tâm lý, xã hội, quản lý 6.98 0.124 0.866 
4. Sản phẩm 
du lịch 7.35 0.201 1.477 
1. Hoạt động nghiên cứu 8.23 0.143 1.177 
2. Hoạt động giáo dục và diễn giải 8.45 0.143 1.208 
5. Cơ sở hạ 
tầng và CS vật 
chất kĩ thuật 
phục vụ du lịch 
7.23 0.141 1.019 Cơ sở lưu trú, nhà hàng, dịch vụ du lịch 7.45 0.136 1.013 
6. Nguồn nhân 
lực du lịch 6.89 0.105 0.723 
1. Đào tạo nhân viên 7.12 0.124 0.883 
2. Giáo dục cộng đồng 7.22 0.124 0.895 
7. Chính sách, 
quản lý 7.12 0.08 0.570 
1. Sự hỗ trợ của nhà nước 6.85 0.102 0.699 
2. Tổ chức, quản lý hoạt động DL 6.95 0.102 0.709 
8. Môi trường 7.47 0.122 0.911 
1. Nghiên cứu đánh giá tác động 
môi trường 7.45 0.124 0.924 
2. Bảo vệ môi trường 7.50 0.124 0.930 
(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả) 
Thông qua kết quả khảo sát 15 chuyên gia về 
lĩnh vực du lịch sinh thái và kết quả tính toán 
của tác giả, cho thấy: 
 - Trong các tiêu chí chính thể hiện khả năng 
khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch 
sinh thái ở vườn quốc gia Bến En, tiêu chí về 
môi trường được các chuyên gia cho điểm 
đánh giá cao nhất (MT = 7.47), trọng số 
0.122, điều này cho thấy, yếu tố môi trường 
được xác định quan trọng và có tác động to 
lớn đến khả năng khai thác cũng như hình 
thành các sản phẩm du lịch sinh thái ở vườn 
quốc gia. Tiêu chí này hiện nay ở vườn quốc 
gia Bến En thực hiện khá tốt, được đánh giá 
với tổng điểm MT = 0,911, trong đó AT = 
0,924, BV = 0,93. Vườn quốc gia Bến En đã 
có những hành động cụ thể trong việc nghiên 
cứu tác động của các hoạt động kinh tế (trong 
đó chủ yếu tác động của khách du lịch khi sử 
dụng dịch vụ, rác thải, ô nhiễm tiếng ồn đối 
với các loài động vật, ô nhiễm môi trường 
nước, không khí khi có sự tham gia của lượng 
khách du lịch lớn). 
- Tiêu chí tài nguyên du lịch được cho điểm 
TN= 7,33. Đặc điểm của du lịch sinh thái là 
tài nguyên du lịch có tính đa dạng sinh học 
cao, là vùng thiên nhiên hoang sơ với văn hóa 
bản địa có tính chất độc đáo, có tổng điểm 
đánh giá >1 (SH = 1,047; BĐ = 1,05; HD = 
1,064). Với điểm đánh giá này, vườn quốc gia 
Bến En đáp ứng được các yêu cầu về tài 
nguyên du lịch cho phát triển loại hình du lịch 
sinh thái. Vườn quốc gia Bến En có 1.417 loài 
thực vật, thuộc 712 chi, 191 họ, 76 bộ, 9 lớp 
và 6 ngành thực vật bậc cao có mạch. Trong 
đó có 58 loài có tên trong IUCN 2013; 46 loài 
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 77 - 82 
 81
có tên trong sách đỏ Việt Nam 2007; 10 loài 
có tên trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP như: 
Sao hải nam (Hopea hainanensis Merr. et 
Chun), Vù hương (Cinnamomum 
balansae Lecomte), Táu nước (Vatica 
cinerea King), Lim xanh (Erythrophleum 
fordii Oliv), Sến mật (Madhuca 
pasquieri H.J. Lam).... Theo Sách đỏ Việt 
Nam năm 2007 (phần thực vật), khu hệ thực 
vật bậc cao có mạch ở VQG có 46 loài quý 
hiếm. Trong đó: cấp độ rất nguy cấp (CR) có 
3 loài; nguy cấp (EN) có 13 loài; sẽ nguy cấp 
(VU) có 29 loài; ít nguy cấp (LR) có 1 loài là 
Nghèn (Cycas chevalieri Leandri) [5]. Với 
tính đa dạng sinh học cao là điều kiện quan 
trọng để phát triển du lịch sinh thái. 
- Đối với vườn quốc gia nói chung và vườn 
quốc gia Bến En nói riêng, việc xây dựng sản 
phẩm du lịch thể hiện được rõ bản chất của du 
lịch sinh thái được các nhà nghiên cứu quan 
tâm và ảnh hưởng quan trọng đến khả năng 
khai thác lâu dài của các vườn quốc gia. Tiêu 
chí sản phẩm du lịch được các chuyên gia 
đánh giá S=7,35 với trọng số cao nhất 0,201, 
hoạt động nghiên cứu NC = 1,177; hoạt động 
giáo dục và diễn giải GD = 1,208. Điều này 
cho thấy khả năng để thực hiện các hoạt động 
này tại vườn quốc gia Bên En được các 
chuyên gia đánh giá cao. Hiện tại, sản phẩm 
du lịch của vườn quốc gia Bến En hiện mới 
chỉ dừng lại ở thăm quan, trải nghiệm. Các 
sản phẩm du lịch hiện nay chủ yếu là: đi 
xuồng trên hồ Mực, tham quan hang Ngọc, 
làng bản, viện bảo tàng Bến En, cắm trại 
ngoài rừng, tham quan các hòn đảo nhỏ trên 
hồ Mực, thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên khi 
bình minh lên hồ Mực, con đường tạm biệt 
Bến En. Với hệ thống sản phẩm du lịch hiện 
nay chỉ dừng lại ở mức độ tham quan và trải 
nghiệm đơn giản. Theo đánh giá này, việc xây 
dựng sản phẩm du lịch đặc thù, mang đặc 
điểm của du lịch sinh thái có vai trò quan 
trọng nhất trong phát triển bền vững. 
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật có 
tổng điểm (DV= 1,019) trong đó trọng số là 
0,141, điểm đánh giá trung bình của các 
chuyên gia là 7,23. Điều này cho thấy, chất 
lượng hệ thống giao thông, cơ sở lưu trú và 
các điều kiện vật chất phục vụ cho du lịch của 
vườn quốc gia Bến En hiện nay đáp ứng tốt 
nhu cầu của khách du lịch. Đối tượng khách 
du lịch chủ yếu có nhu cầu tìm hiểu, thăm 
quan nên cần có hệ thống cơ sở hạ tầng và 
dịch vụ thuận lợi. 
Khả năng tiếp cận của vườn quốc gia Bến En 
được đánh giá TC = 0,788 với hệ số 0,12, 
điểm đánh giá 6,57. Đây là điểm du lịch cách 
thành phố Thanh Hóa khoảng gần 40km, cách 
trung tâm đón khách Hà Nội hơn 200km, 
khoảng cách này phù hợp với các chương 
trình du lịch dài ngày. Với đặc điểm địa bàn 
Thanh Hóa, nhiều bãi biển đẹp nên sự lựa 
chọn cho loại hình du lịch sinh thái sẽ hạn 
chế. Nguồn khách du lịch sinh thái chủ yếu là 
dân địa phương và các tỉnh lân cận. Điểm 
tiêu chí gần trung tâm du lịch lớn và các điểm 
du lịch lân cận được đánh giá lần lượt là TTL 
= 0,808, ĐDL = 0,736. Với tổng điểm này 
cho thấy khả năng tiếp cận về khoảng cách 
khá thuận lợi, kết nối hình thành các tuyến du 
lịch được đảm bảo. 
Xét về quy mô và sức chứa, vườn quốc gia 
Bến En có đầy đủ các điều kiện đáp ứng cho 
nhu cầu của khách du lịch. Quy mô có thể 
linh hoạt cho các nhóm khách du lịch sinh 
thái thuần túy và nhóm khách du lịch kết hợp 
với tổng điểm QM = 0,874, SC = 0,866 nằm 
trong khoảng 0,5 – 1: khả năng khai thác ở 
mức độ khá. Sức chứa tiêu chuẩn của hoạt 
động du lịch sinh thái trong nghiên cứu này 
được tính 60-70m2/người theo hoạt động 
picnic. Quy mô linh hoạt từ nhóm nhỏ đến 
nhóm lớn hơn thì sức chứa về điều kiện hạ 
tầng và cơ sở lưu trú, các dịch vụ đảm bảo 
cho khách du lịch ở mức độ khá. Để tăng số 
lượng khách đến vườn quốc gia cần tăng quy 
mô, sức chứa theo tần suất, tăng công suất sử 
dụng buồng phòng, nhằm đảm bảo phát triển 
bền vững. Tránh trường hợp tăng sức chứa 
bằng việc mở rộng diện tích sử dụng dịch vụ, 
điều này sẽ tác động đến môi trường cảnh 
quan của vườn quốc gia Bến En. 
Nguồn nhân lực phục vụ hoạt động du lịch 
sinh thái có yêu cầu khắt khe hơn so với các 
loại hình du lịch khác do đặc điểm của du lịch 
sinh thái. Hệ số của tiêu chí nguồn nhân lực 
0,105 với số điểm NL = 0,723 cho thấy chất 
lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Đội ngũ 
hướng dẫn viên của vườn quốc gia còn khá 
hạn chế, am hiểu về hệ sinh thái và loại hình 
du lịch sinh thái chưa đáp ứng nhu cầu ngày 
càng cao của khách du lịch. 
Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 77 - 82 
 82
KẾT LUẬN 
Với các tiêu chí đánh giá trên cho thấy vườn 
quốc gia Bến En có khả năng phát triển du 
lịch sinh thái ở vườn quốc gia Bến En theo 
hướng bền vững. Hệ thống tài nguyên du lịch 
sinh thái phong phú, đa dạng, độc đáo là nền 
tảng để xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, 
góp phần làm đa dạng hóa sản phẩm đang 
được khai thác hiện nay ở Bến En. Trên cơ sở 
những phân tích đánh giá về khả năng phát 
triển du lịch sinh thái theo các tiêu chí, tác giả 
đề xuất một số giải pháp: 
- Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, xây dựng 
sản phẩm và triển khai sản phẩm thể hiện rõ 
được bản chất của du lịch sinh thái. Sản phẩm 
du lịch độc đáo khai thác sức hấp dẫn của tài 
nguyên ở vườn quốc gia Bến En như trải 
nghiệm trên hồ Mực, đi bộ xuyên rừng Một 
số tuyến du lịch có thể khai thác trong vườn 
quốc gia Bến En gồm: 
+ Tuyến du ngoạn trên lòng hồ sông Mực: 
khách đi trong ngày. 
+ Tuyến khám phá các hệ sinh thái và đi dạo 
trên Đảo thực vật 
+ Vườn quốc gia Bến En – Hang Suối Tiên – 
Đền Đức ông – Cây Lim cổ thụ: tuyến đi 2 
ngày 2 đêm, thăm quan và trải nghiệm các 
điểm du lịch: Vườn thực vật – Lòng hồ - 
Đồng Thô, Hang động Suối Tiên, Hang Lò 
Cao kháng chiến, Đền Đức ông, Phủ Sung, 
Cây Lim cổ thụ. 
+ Khám phá văn hóa bản địa và thiên nhiên 
Vườn quốc gia Bến En 
- Để phát triển được du lịch sinh thái cần đầu 
tư hơn nữa về nguồn nhân lực về số lượng và 
chất lượng. Ban quản lý vườn quốc gia cần tổ 
chức các lớp bồi dưỡng về du lịch sinh thái 
cho cán bộ của ban quản lý nhận thức đầy đủ 
về loại hình du lịch sinh thái. Đồng thời 
-.Tập trung nghiên cứu đặc điểm của từng thị 
trường (kể cả thị trường trong nước và thị 
trường nước ngoài), có định hướng marketing 
rõ ràng với từng đối tượng khách du lịch. 
Nghiên cứu này cho phép có đánh giá khá 
toàn vẹn về khả năng phát triển du lịch sinh 
thái, là căn cứ khoa học để hình thành chương 
trình du lịch nội tỉnh và liên tỉnh, khai thác 
giá trị tài nguyên cho phát triển du lịch theo 
hướng bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arthur A. Thompson, Jr & A.J. Strickland (2001), 
Crafting and Excuting Strategy. Text and Readings, 
New York Mc Graw- Hill. 
2. Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái những 
vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội. 
3. Lê Trình (2015), Đánh giá tác động môi trường và xã 
hội, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. 
4. Viện Nghiên cứu và phát triển du lịch (2007), Nghiên 
cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch sinh thái ở Việt Nam, 
Đề tài cấp Bộ, Hà Nội. 
5. Trang web vườn Quốc gia Bến En:  
6. Trang web du lịch sinh thái Australia: 
www.ecotourism.org.au. 
SUMMARY 
ASSESSMENT OF ECOLOGICAL TOURISM DEVELOPMENT AT BEN EN 
NATIONAL PARK, THANH HOA PROVINCE IN SUSTAINABLE DEVELOPMENT 
Nguyen Thi Phuong Nga1*, Nguyen Xuan Truong2 
1Hanoi University of Industry, 2Thai Nguyen University 
Ben En National Park is located in Nhu Thanh and Nhu Xuan districts of Thanh Hoa province, about 36 km 
southwest of Thanh Hoa. Total area of the park is 14,735 hectares, of which primary forest is 8,544 hectares. 
Ben En National Park has many mountainous terrains, many rivers, streams, lakes, this is a favorable 
condition to develop a type of green tourism. The assessment of the exploitation of Ben En National Park 
contributes to the orientation of tourist products in line with the needs of tourists and at the same time 
contributes to the protection of the landscape, environment and sustainable development. To assess 
ecotourism development in Ben En National Park, this study uses a point matrix method to determine the 
potential for ecotourism development with a system of criteria: tourism resources, accessibility, scale, 
capacity, tourism products, infrastructure and technical facilities, human resources and management policies. 
Key words: Thanh Hoa, Ben En, ecotourism, sustainable development, National Park. 
Ngày nhận bài: 03/8/2018; Ngày phản biện: 28/8/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018 
* Tel: 0971120981. Email:ngatn129@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kha_nang_phat_trien_du_lich_sinh_thai_o_vuon_quoc_g.pdf