Đánh giá điểm tài nguyên du lịch theo định hướng khai thác du lịch đường sông trên sông Hàn, Cổ Cò và Cẩm Lệ ở Thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng (TPĐN) có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đường sông (DLĐS), đặc biệt là hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan các điểm du lịch. Do đó, việc đánh giá điểm tài nguyên du lịch để xây dựng định hướng khai thác là rất cần thiết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đánh giá điểm tài nguyên du lịch theo định hướng khai thác du lịch đường sông trên sông Hàn, Cổ Cò và Cẩm Lệ ở Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá điểm tài nguyên du lịch theo định hướng khai thác du lịch đường sông trên sông Hàn, Cổ Cò và Cẩm Lệ ở Thành phố Đà Nẵng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION JOURNAL OF SCIENCE ISSN: 1859-3100 KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Tập 16, Số 5 (2019): 108-120 SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES Vol. 16, No. 5 (2019): 108-120 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: 108 ĐÁNH GIÁ ĐIỂM TÀI NGUYÊN DU LỊCH THEO ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC DU LỊCH ĐƯỜNG SÔNG TRÊN SÔNG HÀN, CỔ CÒ VÀ CẨM LỆ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Nguyễn Thị Hồng1, Nguyễn Kim Hồng2 1 Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng 2Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh * Tác giả liên hệ: Nguyễn Kim Hồng – Email: nkhong@hcmue.edu.vn Ngày nhận bài: 05-02-2019; ngày nhận bài sửa: 17-3-2019; ngày duyệt đăng: 20-4-2019 TÓM TẮT Thành phố Đà Nẵng (TPĐN) có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đường sông (DLĐS), đặc biệt là hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan các điểm du lịch. Do đó, việc đánh giá điểm tài nguyên du lịch để xây dựng định hướng khai thác là rất cần thiết. Bài viết trình bày kết quả đánh giá phân loại điểm tài nguyên du lịch theo thang điểm tổng hợp và xây dựng các định hướng cho khai thác hoạt động DLĐS ở trên ba sông: Hàn, Cổ Cò và Cẩm Lệ. Từ khóa: du lịch đường sông, du thuyền, du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông, đánh giá tài nguyên du lịch, thành phố Đà Nẵng. 1. Đặt vấn đề Thành phố Đà Nẵng có mạng lưới sông ngòi phong phú gắn liền với đời sống văn hóa và sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Trong giai đoạn hiện nay, khi TPĐN đang trở thành trung tâm thu hút khách du lịch thì sông ngòi cũng đang chuyển mình trong vị thế mới, như là một tài nguyên du lịch đầy tiềm năng. Mặc dù hoạt động DLĐS đã được khai thác từ năm 2009 nhưng sản phẩm du lịch còn rất đơn điệu, chủ yếu là hoạt động du thuyền ngắm cảnh trên sông Hàn. Trong khi đó, các hệ thống sông khác có nhiều khả năng cho phát triển du lịch, đặc biệt là khu vực hạ lưu sông Vu Gia gồm sông Hàn, Cẩm Lệ và Cổ Cò với nhiều lợi thế cho hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan điểm du lịch. Để tạo sự độc đáo, điểm nhấn đặc sắc và hiệu quả cho hoạt động DLĐS của TPĐN, việc đánh giá điểm tài nguyên du lịch dọc các sông để định hướng khai thác là rất cần thiết. 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Tổng quan về khu vực nghiên cứu Mạng lưới sông ngòi của TPĐN có tổng chiều dài khoảng 155 km, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây, Tây Bắc của TPĐN và tỉnh Quảng Nam đổ ra biển Đông. Trong nghiên cứu này, đề tài chỉ khảo sát ba con sông thuộc hạ lưu sông Vu Gia chảy qua TPĐN là sông Hàn, Cẩm Lệ và Cổ Cò (xem Bảng 1). TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hồng và tgk 109 Bảng 1. Các sông khảo sát phục vụ phát triển du lịch ở TPĐN STT Tên sông Chiều dài (km) Bề rộng lòng sông (m) Cấp sông Độ sâu trung bình (m) Thực tế Khảo sát 1 Hàn 9,4 9,4 300 ÷ 700 I; III; IV 4,5 ÷ 5,5 2 Cẩm Lệ 8,7 8,7 30 ÷ 400 V - 3 Cổ Cò 8,3 7,6 18 ÷ 200 - 1,5 ÷ 2,5 Nguồn: Ủy ban nhân dân TP Đà Nẵng, 2017 Các sông trên đều có đặc điểm vật lí thủy văn thuận lợi cho việc xây dựng luồng tàu chạy. Sông Hàn được phân thành ba cấp: I, II, III; sông Cẩm Lệ cấp V; sông Cổ Cò mặc dù chưa được phân cấp nhưng đoạn từ ngã ba sông Cái đến vị trí chùa Quan Thế Âm có bề rộng lòng sông rộng thích hợp cho việc phân luồng tàu chạy. Các sông nằm ở vị trí không xa trung tâm TPĐN, được hợp lưu và phân lưu tại ngã ba sông Cái (Hàn – Vĩnh Điện – Cẩm Lệ) chảy vào sông Hàn đổ ra biển. Đây là điều kiện thuận lợi để tiếp cận, tổ chức, phân luồng và xây dựng tuyến DLĐS giữa các sông với nhau và kết hợp khai thác tài nguyên du lịch phong phú ven sông. Địa điểm du lịch này vừa mang sắc thái văn hóa đô thị hiện đại, vừa mang bản sắc văn hóa, lịch sử truyền thống. Sông Hàn nằm ở hạ lưu của hệ thống sông, bắt nguồn từ ngã ba sông Cái chảy qua trung tâm thành phố đổ ra biển, mang vẻ đẹp cảnh quan đô thị hiện đại. Sông Cẩm Lệ được bắt nguồn từ hợp lưu của sông Yên và sông Túy Loan chảy qua nhiều điểm du lịch hấp dẫn của quận Cẩm Lệ và đổ về ngã ba sông Cái. Sông Cổ Cò là một chi lưu bắt nguồn từ ngã ba sông Cái chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam từ TPĐN đến thành phố Hội An (Quảng Nam). Đây cũng là tuyến giao thông liên vùng quan trọng trong lịch sử, do đó, có thể khơi thông để liên kết xây dựng tuyến du lịch liên vùng kết hợp ngắm cảnh, tham quan các điểm du lịch dọc ven sông. 2.2. Xác định điểm tài nguyên du lịch và tiêu chí đánh giá 2.2.1. Xác định điểm tài nguyên du lịch Thành phố Đà Nẵng có tài nguyên du lịch rất đa dạng, tuy nhiên với mục đích nghiên cứu phục vụ cho hoạt động DLĐS nên cần phải lựa chọn điểm tài nguyên thích hợp để đánh giá. Yêu cầu đối với điểm tài nguyên là phải nằm cách bờ sông hoặc bến tàu dưới 5km, quãng đường này được xem là điểm nhấn trong khai thác hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan điểm du lịch (Ballen et al., 2014). Từ khảo sát thực tế, chúng tôi lựa chọn điểm tài nguyên dọc các sông Hàn, Cẩm Lệ, và Cổ Cò để đánh giá, gồm 15 điểm như sau: 1. Thành Điện Hải: Là di tích cấp quốc gia đặc biệt, nằm cách bờ sông Hàn 200m. Trước đây là đồn Điện Hải được xây dựng từ năm Gia Long thứ 12 (1813) ở gần phía biển để kiểm soát tàu thuyền vào ra và trấn giữ Đà Nẵng, năm Minh Mạng thứ 4 (1823) được dời vào trong (chỗ di tích hiện nay) để đảm bảo an toàn. Thành Điện Hải được xây dựng theo loại hình kiến trúc quân sự theo thiết kế kiểu Vauban ở châu Âu gồm thành lũy và pháo đài; TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 108-120 110 2. Cầu Tình yêu: Nằm ở bờ Đông sông Hàn cạnh chân cầu Rồng, khánh thành vào năm 2015, cầu có hình vòng cung, kiến trúc dựa trên ý tưởng từ những cây cầu treo ổ khóa tình yêu nổi tiếng thế giới, tại đây đặt tượng Cá Chép hóa Rồng đã trở thành biểu tượng mới cho TPĐN; 3. Chợ Hàn: Chợ ra đời vào những năm 1940, nhưng đến năm 1990 được khởi công xây dựng và đưa vào sử dụng 1991. ... xây dựng ở hai bờ sông Hàn đến ngã ba sông Cái, nhưng để đưa vào khai thác du lịch dọc đường mòn bằng xe đạp cần phải xây lại sát bờ sông. Giao thông kết nối giữa bến tàu hoặc bờ sông với điểm du lịch khá thuận lợi ở sông Hàn, các sông khác để khai thác cần phải đầu tư, xây dựng thêm. Vị trí điểm du lịch thuận lợi cho việc khai thác, có 12/15 điểm nằm rất sát bờ sông, chỉ có 3 điểm nằm cách xa hơn nhưng cũng rất thuận lợi cho việc tiếp cận để khai thác DLĐS. Thời gian hoạt động du lịch của điểm thuận lợi và khá đồng nhất do ảnh hưởng của yếu tố khí hậu và khoảng cách các điểm không quá xa nhau. Sức chứa khách hầu hết ở các điểm lớn và độ bền vững của môi trường rất tốt, có khả năng khai thác lâu dài. Tuy nhiên, đối với các điểm hạng III và một số điểm hạng II cần trùng tu, cải tạo lại và xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc hơn khi đem vào khai thác. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 108-120 116 Từ kết quả khảo sát đánh giá cho thấy tài nguyên du lịch dọc ven sông Hàn, Cẩm Lệ, Cổ Cò có độ hấp dẫn và khả năng khai thác kết hợp với hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan du lịch cao, trong đó, các điểm du lịch trên sông Hàn có độ hấp dẫn cao nhất. Do đó, TPĐN cần phải khai thác kết hợp với hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông với điểm du lịch để mang lại hiệu quả, kinh tế và môi trường và tạo sản phẩm DLĐS đặc sắc. 2.3. Thực trạng khai thác hoạt động du lịch đường sông Hoạt động DLĐS ở TPĐN đã được khai thác từ năm 2009 đến nay, nhưng chủ yếu là hoạt động du thuyền trên tuyến sông Hàn – cầu Trần Thị Lý. Lượng khách tham gia có xu hướng tăng, theo thống kê của Cảng vụ đường thủy nội địa TPĐN, lượng khách không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2010 số khách đạt 100.000 lượt, năm 2015 tăng lên 173.340 lượt và năm 2016 tăng lên 197.287 lượt, đặc biệt từ sau năm 2017, lượng khách tăng rất nhanh, gấp hai lần so với năm 2016, đạt 351.099 lượt, chỉ trong 9 tháng đầu năm 2018, lượng khách du thuyền đã đạt 405.437 lượt khách. Theo dự báo của Cảng vụ đường thủy nội địa TPĐN, lượng khách tham gia hoạt động du thuyền sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian đến. Doanh thu từ hoạt động du thuyền hiện chưa có thống kê, tuy nhiên doanh thu này có sự gia tăng tỉ lệ thuận với sự gia tăng của lượng khách, được tính từ việc bán vé tàu, giá vé dao động từ 50÷500 nghìn đồng/vé và việc tiêu xài dịch vụ ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi ở trên tàu, trên sông và vùng phụ cận hai bên bờ sông của khách du lịch. Cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật cho du thuyền đã được đầu tư xây dựng, nhưng chủ yếu trang bị tuyến dọc sông Hàn với các bến thủy nội địa có đủ điều kiện theo quy định dùng để đón, trả khách du lịch và thực hiện dịch vụ khác, hiện đã có 21 bến tàu, trong đó 14 bến phục vụ du lịch và 7 bến phục vụ dân sinh hoặc khai thác cát. Sự phân bố bến không đồng đều, bến tàu du lịch được tập trung chủ yếu trên sông Hàn gồm 13 bến tàu du lịch và 1 bến trên sông Cẩm Lệ. Chất lượng bến tàu thuyền du lịch đảm bảo được khả năng đón trả khách khá tốt, có bãi đậu xe rộng rãi, nhưng thiết kế của bến còn rất đơn điệu, dịch vụ đi kèm chưa đặc sắc cũng như chưa có điểm nhấn trong kiến trúc hay mang tính biểu tượng cho hình ảnh của TPĐN mà mang nặng tính vận chuyển. Riêng bến DHC – Marina là bến du thuyền quốc tế được trang bị hiện đại, có thiết kế và cảnh quan đẹp với hình tượng Cá Chép hóa Rồng và Cầu Tình yêu trở biểu tượng của TPĐN. Tính đến tháng 4 năm 2018, Sở Du lịch TPĐN đã cấp phép vận tải nội địa cho 14 tổ chức cá nhân có 20 tàu hoạt động với đa dạng kích thước, gồm: du thuyền, tàu nhà hàng có lượng chở khách nhỏ, vừa hoặc lớn. Trong đó có 3 tàu lớn trên 100 khách, 2 tàu 79 khách, các tàu còn lại dao động từ 20 – 50 khách (Sở Du lịch TPĐN, 2018). Hiện số lượng tàu du lịch của TPĐN vẫn còn ít, phạm vi khai thác chỉ được cấp phép hoạt động ở trên tuyến sông Hàn. Các tàu được đảm bảo an toàn, trang thiết bị, chất lượng thuyền viên, người lái phương tiện và nhân viên phục vụ theo quy định tại Quyết định số: 37/2014/QĐ-UBND quy định về quản lí hoạt động vận tải hành khách du lịch đường thủy nội địa trên địa bàn TPĐN, nhưng chưa có thiết kế đặc TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hồng và tgk 117 trưng mang tính biểu tượng DLĐS của TPĐN, chủ yếu do tổ chức, cá nhân tự đặt hàng và thiết kế, một số tàu vẫn còn thiếu thẩm mĩ do xuất xứ từ tàu đánh cá được hoán đổi công năng. Dịch vụ trên tàu phân hóa đối với nhóm tàu, tàu lớn bên cạnh hoạt động tham quan ngắm cảnh còn bổ sung nhiều dịch vụ như: ăn uống, bar, cà phê, tổ chức sự kiện, hoạt động tập thể..., tàu dưới 50 khách, dịch vụ còn nghèo nàn. 2.4. Định hướng khai thác Kết quả đánh giá và thực trạng khai thác DLĐS ở TPĐN cho thấy xu hướng DLĐS ngày càng tăng, TPĐN đã có sự đầu tư trong khai thác hoạt động du thuyền, hơn nữa Đà Nẵng cũng có nhiều ưu thế để phát triển với các điểm tài nguyên du lịch dọc ven sông có nhiều giá trị hấp dẫn, thuận lợi cho khai thác hoạt động du thuyền và đi xe đạp dọc sông kết hợp tham quan điểm du lịch nhằm tạo sự hấp dẫn, hiệu quả trong khai thác. Do đó, đề tài đề xuất một số định hướng cho khai thác DLĐS ở TPĐN như sau: 2.4.1. Định hướng chung Để khai thác hiệu quả hoạt động DLĐS, TPĐN cần phải đánh giá và xây dựng quy hoạch, kế hoạch với chiến lược có tầm nhìn lâu dài để khai thác được ưu thế, hiệu quả, sản phẩm du lịch đặc sắc. Xác định DLĐS là một trong những loại hình du lịch cần được chú trọng và phát triển đồng thời với các hình thức du lịch khác. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch và cách thức tổ chức, bên cạnh khai thác hoạt động du thuyền ngắm cảnh đơn thuần, cần mở rộng sản phẩm du lịch, đặc biệt hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan các điểm du lịch nhằm khai thác được lợi thế và hiệu quả cho DLĐS của TPĐN. Cần có sự đầu tư cho hoạt động DLĐS về cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật phải được xây mới, bổ sung thêm như tàu thuyền, bến, bãi đậu xe, đường mòn dọc sông, giao thông kết nối với điểm du lịch đáp ứng về số lượng, hiện đại, đảm bảo an toàn cho khách cũng như có tính thẩm mĩ, biểu tượng độc đáo riêng cho hoạt động DLĐS của TPĐN. Cần xây dựng một số trung tâm, quầy hỗ trợ khách hàng khi du khách gặp khó khăn dọc các sông, đầu tư các dịch vụ hỗ trợ đáp ứng nhu cầu của khách. Xây dựng đội ngũ nhân viên đáp ứng cao về số lượng và chất lượng. Cần ban hành các chính sách sâu sát với các quy định, quy chế, có chế tài chặt chẽ, biện pháp hỗ trợ khuyến khích trong khai thác DLĐS. Giao quyền quản lí, quy định trách nhiệm cho cơ quan chuyên trách và có sự giám sát chặt chẽ các khâu trong khai thác DLĐS của Ủy ban nhân dân TPĐN. Xây dựng logo biểu tượng cho DLĐS, chú trọng việc quảng bá hình ảnh, sản phẩm DLĐS đến mọi đối tượng thông qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là trên trang mạng xã hội, truyền hình, công ti du lịch, tờ rơi để khách du lịch biết, kích thích nhu cầu và nắm bắt thông tin khi xây dựng kế hoạch tới Đà Nẵng. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 108-120 118 2.4.2. Định hướng cụ thể - Đối với điểm tài nguyên: Điểm tài nguyên du lịch rất thuận lợi (hạng I) là Thành Điện Hải, Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đây là những điểm tài nguyên hấp dẫn với cơ sở hạ tầng tốt nên có thể đem vào khai thác ngay, riêng Danh thắng Ngũ Hành cần xây dựng thêm cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật. Đối với điểm tài nguyên du lịch thuận lợi (hạng II) là Cầu Tình yêu, Công viên châu Á (Asia Park), Chùa Quan Thế Âm, khu căn cứ cách mạng K20, khu di tích lịch sử văn hóa Khuê Trung, làng bánh khô mè Quang Châu, khu du lịch sinh thái câu cá Vườn Chuối là những điểm du lịch hấp dẫn có thể kết hợp nhưng cần xây dựng thêm cơ sở hạ tầng với tàu thuyền, bến bãi, bãi đậu xe hoạt động du thuyền. Để khai thác hoạt động du lịch bằng xe đạp dọc sông cần xây dựng tuyến đường mòn dọc sông nối liền với các điểm tài nguyên. Đối với các điểm tài nguyên du lịch thuận lợi trung bình (hạng III), để đưa các điểm vào tuyến du thuyền hoặc du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông thì cần phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật, giao thông; phải bổ sung, trùng tu, xây dựng sản phẩm du lịch hấp dẫn hơn. - Đối với hoạt động du thuyền: Đề xuất xây dựng 3 tuyến du thuyền cố định kết hợp tham quan các điểm du lịch như sau: Tuyến 1: Sông Hàn – Cẩm Lệ: Ở bờ Tây sông Hàn mở tuyến xuất phát từ phía Nam của cầu Thuận Phước đến vị trí bờ Đông cầu Đỏ của sông Cẩm Lệ và ngược lại; Tuyến 2: Sông Hàn – Cổ Cò: Ở bờ Đông sông Hàn mở tuyến xuất phát từ phía Nam cầu sông Hàn tới vị trí chùa Quan Thế Âm và ngược lại; Tuyến 3: Sông Hàn – Cẩm Lệ – Cổ Cò: Xuất phát ở bờ Tây sông Hàn từ phía Nam của cầu Thuận Phước đến vị trí bờ Đông cầu Đỏ của sông Cẩm Lệ sau đó quay về ngã ba sông Cái đến vị trí chùa Quan Thế Âm sông Cổ Cò và quay ngược về vị trí xuất phát. Để khai thác được ba tuyến du thuyền kết hợp tham quan các điểm du lịch cần phải đầu tư xây dựng bến thuyền tại bờ sông cạnh mỗi điểm du lịch, riêng chùa Quan Thế Âm và Danh thắng Ngũ Hành Sơn sử dụng chung 1 bến do hai điểm du lịch có vị trí nằm cạnh nhau. Đầu tư cở hạ tầng và vật chất kĩ thuật DLĐS với các loại tàu thuyền hiện đại, có thiết kế, biểu tượng, logo riêng cho du thuyền của TPĐN, nâng cao chất lượng nhân viên, dịch vụ trên tàu và các trang bị kĩ thuật khác đảm bảo an toàn và sự hài lòng cho du khách. Tuyến du thuyền phải xây dựng cố định có khung giờ hoạt động ổn định, vé tham quan có thể sử dụng vé theo giờ, theo ngày, theo tháng, có thể sử dụng chung với vé xe buýt. Có bãi đậu xe rộng rãi cạnh mỗi bến thuyền và đặt quầy hỗ trợ khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ giải trí, ăn uống, nghỉ ngơi trên tàu. - Đối với hoạt động du lịch bằng xe đạp dọc sông: Đây là hoạt động du lịch bằng xe dọc bờ sông kết hợp tham quan các điểm du lịch, vừa tạo nét đặc trưng cho DLĐS của TPĐN, vừa bảo vệ môi trường. Loại hình du lịch này được khai thác dọc hai bờ sông Hàn, bờ Đông sông Cổ Cò và bờ Bắc sông Cẩm Lệ, có thể xây dựng thành 3 tuyến: Tuyến 1: sông Hàn; Tuyến 2: Sông Hàn – Cẩm Lệ; Tuyến 3: Sông Hàn – Cổ Cò. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Hồng và tgk 119 Để khai thác hoạt động du lịch này, trước hết cần xây dựng đường mòn sát dọc bờ sông dành cho xe đạp để khách vừa đạp xe vừa ngắm cảnh, đồng thời phải xây dựng giao thông kết nối từ bờ sông đến các điểm du lịch thuận tiện. Xây dựng bãi gửi – cho thuê xe công cộng hoặc bãi thuê xe tự động tại nhiều địa điểm dọc bờ sông. Thời gian thuê xe có thể là theo giờ hoặc theo ngày, xe đạp cần phải có cả xe đạp đơn và xe đạp đôi để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, chất lượng xe tốt và phải có logo hoặc các biểu tượng của DLĐS của TPĐN. 3. Kết luận Thành phố Đà Nẵng là trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với nhiều loại hình du lịch hấp dẫn và DLĐS cũng có nhiều lợi thế để phát triển. Mặc dù loại hình DLĐS đang khai thác hoạt động du thuyền ngắm cảnh, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của Đà Nẵng, do đó cần phải đa dạng hóa và tạo sự độc đáo cho sản phẩm DLĐS. Ưu thế về vẻ đẹp cảnh quan và sự phong phú điểm tài nguyên du lịch dọc bờ sông rất thuận lợi cho khai thác hoạt động du thuyền và du lịch bằng xe đạp dọc bờ sông kết hợp tham quan các điểm du lịch tạo nên sản phẩm du lịch độc đáo, hiệu quả cho TPĐN. Do đó, việc đánh giá các điểm du lịch dọc sông và các định hướng khai thác là cơ sở quan trọng cho các nhà quản lí tham khảo, vận dụng trong quy hoạch xây dựng sản phẩm DLĐS hiệu quả, hấp dẫn. Tuyên bố về quyền lợi: Các tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ballen, M., Dooms, M., Haezendonck, E. (2014). River tourism development: The cause of the port of Brussel. Research in Transportation Business & Management. No. 13, pp 71-79. Nguyễn Thị Hồng. (2017). Xây dựng cơ sở khoa học để khai thác các tuyến đường sông phục vụ phát triển du lịch ở thành phố Đà Nẵng. Đề tài cấp Trường, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Phạm Xuân Hậu. (2018). Đánh giá các điểm tài nguyên du lịch tỉnh Vĩnh Long và những định hướng khai thác. Tạp chí Khoa học Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập 15, số 5 (2018), 12-22. Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng. (2018). Danh sách tổ chức, cá nhân đã được cấp phép vận tải thủy nội địa (đến ngày 26/4/2018). Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. (2014). Quy định về quản lí hoạt động vận tải hành khách du lịch đường thủy nội địa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. TPĐN: Số 37/2014/QĐ-UBND. Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng. (2017). Quyết định ban hành kế hoạch đầu tư phát triển vận tải hành khách đường thủy nội địa và bến thủy nội địa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2025. TPĐN: Số 3847/QĐ-UBND. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 108-120 120 ASSESSING TOURISM RESOURCE GRADE UNDER THE ORIENTATION OF TOURISM RIVER EXPLOITATION ON RIVERS HAN, CO CO AND CAM LE IN DA NANG CITY Nguyen Thi Hong1, Nguyen Kim Hong2 1 University of Science and Education, The University of Da Nang 2Ho Chi Minh City University of Education * Corresponding author: Nguyen Kim Hong – Email: nkhong@hcmue.edu.vn Received: 05/02/2019; Revised: 17/3/2019; Accepted: 20/4/2019 ABSTRACT Da Nang city has much potential to develop river tourism, especially cruise ship and bicycle activities along the river combined with tourist attraction visits. Therefore, it is of paramount importance to assess tourism resource grade to develop the exploitation orientation. The paper presents the results of assessment and classification of tourism resources according to the general scale and develops solutions for exploiting tourism activities on the three rivers Han, Co Co and Cam Le. Keywords: river tourism, cruise ship, cycling along the river, assessment of tourism resources, Da Nang city.
File đính kèm:
- danh_gia_diem_tai_nguyen_du_lich_theo_dinh_huong_khai_thac_d.pdf