Đặc trưng và chướng ngại tri thức luận của khái niệm vô cực trong toán học
Vô cực xuất hiện ở nhiều hình dạng và hình thức trong Toán học. Các điểm ở vô cực trong hình học xạ ảnh rất khác với các đại lượng vô hạn và vô cùng bé xuất hiện trong giải tích phi chuẩn, hoặc các số siêu hạn trong lý thuyết tập hợp, hoặc vô hạn liên quan đến một tiến trình giới hạn. Nghiên cứu này trình bày một phân tích tri thức luận làm rõ quá trình hình thành và phát triển của khái niệm vô cực và xác định các đặc trưng tri thức luận của nó.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đặc trưng và chướng ngại tri thức luận của khái niệm vô cực trong toán học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng và chướng ngại tri thức luận của khái niệm vô cực trong toán học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 65 (5/2019) No. 65 (5/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 43 ĐẶC TRƯNG VÀ CHƯỚNG NGẠI TRI THỨC LUẬN CỦA KHÁI NIỆM VÔ CỰC TRONG TOÁN HỌC An epistemological analysis of infinity in Mathematics TS. Nguyễn Ái Quốc Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Vô cực xuất hiện ở nhiều hình dạng và hình thức trong Toán học. Các điểm ở vô cực trong hình học xạ ảnh rất khác với các đại lượng vô hạn và vô cùng bé xuất hiện trong giải tích phi chuẩn, hoặc các số siêu hạn trong lý thuyết tập hợp, hoặc vô hạn liên quan đến một tiến trình giới hạn. Nghiên cứu này trình bày một phân tích tri thức luận làm rõ quá trình hình thành và phát triển của khái niệm vô cực và xác định các đặc trưng tri thức luận của nó. Từ khóa: vô cực, vô cực tiềm năng, vô cực thực tế, đặc trưng tri thức luận, phân tích tri thức luận lịch sử ABSTRACT Infinity occurs in many shapes and forms in mathematics. The points at infinity in projective geometry are very different from the infinite and infinitesimal quantities that occur in nonstandard analysis, or the transfinite numbers in set theory, or the infinity involved in a limiting process. This study presented the epistemological analysis that could clarify the emergence and development of concept of Infinity and determine the epistemological characteristics of this knowledge object. Keywords: infinity, potential infinity, actual infinity, epistemological characteristic, historical epistemological analysis 1. Đặt vấn đề 1.1. Sự cần thiết nghiên cứu khái niệm vô cực Khái niệm vô cực hiện diện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của Toán học như lý thuyết tập hợp, giải tích, hình học, đại số, tôpô học. Nhiều khái niệm toán học được xây dựng gắn liền với khái niệm vô cực, cho thấy vai trò quan trọng của tri thức này trong việc thiết lập các nền tảng của Toán học. 1.2. Tồn tại những quan niệm sai của học sinh về khái niệm vô cực Cuối tháng 4 năm 2019, hai thực nghiệm khảo sát được tiến hành trên 5 học sinh (HS) lớp 10 và 5 HS lớp 11 Trường trung học phổ thông Hùng Vương. Vì đây là thời điểm cuối học kỳ 2 nên các HS lớp 10 đã kết thúc môn đại số, và các HS lớp 11 đã kết thúc môn đại số và giải tích. Khảo sát nhằm tìm hiểu xem HS hiểu như thế nào về khái niệm vô cực trong Toán học. Nội dung thực nghiệm thứ nhất trên HS lớp 10 bao gồm câu hỏi sau: “Cho các hệ thức sau: a/ = + 1; b/ - = 1; c/ ∞ ∞ = 1. Email: nguyenaq2014@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019) 44 Em hãy cho biết mỗi hệ thức đúng hay sai? Vì sao?” Câu trả lời mong đợi: a/ đúng; b/ sai; c/ sai. Nội dung thực nghiệm thứ hai trên HS lớp 11 bao gồm câu hỏi sau: “Trong giới hạn hàm số, em hãy cho biết tại sao các dạng sau được gọi là dạng vô định: a/ - ; b/ 0 ; c/ ∞ ∞ ?” Câu trả lời mong đợi: Vì đây là câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của đại lượng vô cùng lớn được biểu thị bằng ký hiệu , nên câu trả lời mong đợi là nêu ra được một số trường hợp cụ thể để cho thấy không thể xác định chính xác được giá trị của mỗi biểu thức. Kết quả thực nghiệm: Trong thực nghiệm thứ nhất, cả 5 HS đều trả lời đúng cho câu a/, trong đó 3 HS giải thích rằng cộng vô cực với một số dương thì phải là vô cực, 2 HS còn lại giải thích cộng vô cực với một số thực luôn bằng vô cực. Như vậy, các HS này quan niệm vô cực là một con số rất lớn. Đối với câu b/, có 2 HS cho rằng đúng và giải thích hệ thức trong câu b/ tương đương với hệ thức trong câu a/, 3 HS còn lại cho rằng sai vì vô cực trừ cho vô cực bằng 0. Đối với câu c/, cả 5 HS đều kết luận đúng, trong đó 2 HS cho rằng đơn giản tử và mẫu cho vô cực thì được 1, 2 HS còn lại cho rằng hệ thức tương đương với hệ thức = . Trong thực nghiệm thứ hai, có 4 HS giải thích rằng các biểu thức đã cho vô định vì “Sách giáo khoa quy định đó là những dạng vô định”. Chỉ duy nhất 1 HS giải thích biểu thức trong câu a/ không xác định vì hiệu hai vô cực có thể là một số rất lớn, nhưng cũng có thể rất nhỏ. Đối với câu b/, HS này giải thích rằng vì là giới hạn nên đại lượng chỉ tiến dần đến 0 chứ không thể bằng 0, nên không thể xác định được giá trị của biểu thức. Đối với câu c/, HS này giải thích tương tự như trong câu a/ rằng giá trị của biểu thức có thể rất lớn, hoặc rất nhỏ. Như vậy, trong thực nghiệm thứ nhất, tồn tại ở HS lớp 10 một quan niệm “vô cực là một số rất lớn”, nên có thể áp dụng các quy tắc biến đổi như với các số thực. Trong thực nghiệm thứ hai, đa số HS gặp khó khăn trong việc hiểu ý nghĩa của ký hiệu vô cực gắn liền với tiến trình giới hạn. Mặc dù có 1 HS thấy được tính không xác định của giá trị biểu thức nhưng vẫn chưa đưa ra được một số trường hợp cụ thể để cho thấy các biểu thức có thể lấy nhiều giá trị khác nhau trong một tiến trình giới hạn. Sau cùng, HS xem ký hiệu biểu đạt cho cùng một đại lượng, do đó có thể triệt tiêu nhau trong bài toán trừ, hay được đơn giản như một nhân tử trong bài toán nhân hay chia. 1.3. Sự cần thiết của phân tích tri thức luận Việc xác định các loại sai lầm của người học trong học Toán và nguồn gốc của chúng luôn là nhiệm vụ đầu tiên đặt ra đối với các nhà nghiên cứu Didactic Toán trước khi đưa ra các giải pháp để giúp người học loại bỏ các sai lầm đó. Theo [1]: - Nghĩa của tri thức, những vấn đề mà tri thức đó cho phép giải quyết. - Những quan niệm có thể gắn liền với tri thức. 2. Khái niệm vô cực trong Toán 10 và 11 Khái niệm vô cực không được định nghĩa tường minh trong chương trình Toán 10 và 11. Trong Sách giáo khoa Đại số 10, khái niệm vô cực xuất hiện lần đầu trong bài “Tập hợp và các phép Toán trên tập hợp” NGUYỄN ÁI QUỐC TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 45 của chương 1 “Mệnh đề và Tập hợp”. Khái niệm vô ... = 0, d1,1d1,2d1,3 a2 = 0, d2,1d2,2d2,3 a3 = 0, d3,1d3,2d3,3 Trong đó d là các chữ số từ 0 đến 9. Ta định nghĩa số: a = 0.d1d2d3 bằng cách chọn d1 d1,1, d2 d2,2, d3 d3,3, Điều này cho một số không nằm trong tập hợp {𝑎𝑛}𝑛=1 ∞ , và kết quả đã được chứng minh. Chứng minh thứ hai (năm 1874). Ta chứng tỏ rằng với một dãy số bất kỳ 𝑣1, 𝑣2, các số thực thì có một số không nằm trong dãy trong khoảng tùy ý các số thực (a ; b). Trước hết, đặt a1 và b1 là các số hạng đầu tiên của dãy trong (a ; b) với a1 < b1. Gọi a2 và b2 là các số hạng đầu tiên của dãy nằm trong (a1 ; b1) với a2 < b2, và tiếp tục như thế. Do đó a1, a2, là một dãy tăng, và b1, b2, là một dãy giảm. Có ba trường hợp. Nếu dãy là hữu hạn, thì bất kỳ số nào nằm bên trong khoảng được chọn sau cùng thỏa các yêu cầu. Giả sử rằng các dãy là vô hạn và chúng hội tụ lần lượt về các giới hạn, a và b . Nếu chúng bằng nhau, thì giá trị này thỏa yêu cầu. Nếu không, bất kỳ giá trị trong khoảng mở (a ; b ) cũng thỏa yêu cầu. Tìm kiếm các tập không thể đếm được, Cantor đã xem xét các khái niệm tô pô cho các tập hợp dẫn xuất của mình. Ta nói một tập S(a ; b) là trù mật nếu S (a ; b). Ta nói S đóng nếu S S=S . Ta nói S cách ly nếu S =; S là đầy đủ nếu S =S. Đáng lưu ý là Cantor đã chứng tỏ rằng các tập đầy đủ phải là không thể đếm được. Một trong những tập đầy đủ nổi tiếng nhất được gọi là tập các phần ba trung tâm được định nghĩa là phần dư của khoảng mở (0 ; 1) bằng cách loại bỏ phần ba ở giữa, tức là bỏ (1/3 ; 2/3). Tiếp theo loại bỏ các phần ba ở giữa của hai khoảng con còn lại và các phần ba của bốn khoảng con còn lại sau đó, và tiếp tục như thế. Tập này là một trong các ví dụ đầu tiên của tập Lebesgue đo được không đếm được có độ đo không. Lúc đó, ông đề cập đến hai kiểu vô hạn, vô hạn có thể đếm được và không thể đếm được. Không thể xác định được một vô hạn ở giữa, ông đưa ra một chứng minh rằng mọi SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019) 52 tập hợp điểm trên đường thẳng có thể được đặt tương ứng một-một với các số tự nhiên hoặc số thực. Chứng minh của ông là không chính xác, nhưng sự tìm kiếm của ông được biết đến ngày nay và được gọi là giả thuyết liên tục. Năm 1938, Kurt Godel đã chứng minh rằng giả thuyết liên tục không thể bị bác bỏ trên cơ sở các nguyên tắc lý thuyết tập hợp mà chúng ta chấp nhận ngày nay. Hơn nữa, vào năm 1963, Paul Cohen đã xác định rằng nó không thể được chứng minh trong các nguyên tắc này. Điều này có nghĩa là sự liên tục không thể giải quyết được. Năm 1879, Cantor đề cập đến các lực lượng của vô hạn, xác định hai tập hợp sẽ có cùng lực lượng nếu chúng có thể được đặt vào tương ứng một-một. Sử dụng phương pháp đường chéo của mình, ông có thể chứng minh các bậc hoặc lực lượng vô hạn của mỗi bậc. Năm 1895, Cantor định nghĩa lũy thừa số đếm. Sử dụng thuật ngữ 0 để ký hiệu bản số của các số tự nhiên, ông định nghĩa 20cho bản số của các số thực. Với 1 (và tổng quát hơn ký hiệu bản số thứ ) là bản số lớn hơn 0, giả thuyết liên tục được viết là 20 = 1. 3.6. Lý thuyết tập hợp Theo Cantor, một tập hợp M là “một sự tập hợp thành toàn bộ, theo định nghĩa, các đối tượng phân biệt (gọi là các phần tử) của M theo nhận thức và suy nghĩ của chúng ta”. Chẳng hạn, các số {1, 2, , 10} tạo thành một tập hợp. Tập hợp các số nguyên tố giữa 1 và 100. Bậc của các phần của một tập hợp là không quan trọng. Do đó, các tập hợp {1, 2, 3} và {3, 2, 1} là như nhau. Do đó, hai tập M và N là như nhau nếu chúng có cùng số các phần tử. Quan điểm này được nhấn mạnh bởi Gottlob Frege (1848 - 1926), trong quá trình phát triển lý thuyết tập hợp, người đã chấp nhận rằng các tập vô hạn không thể đếm được. Ông tìm kiếm một lý thuyết độc lập với việc đếm. Vì vậy, ông đã lấy các tương ứng một-một làm nền tảng, không theo thứ tự tốt. Nội tại của điều này là khái niệm về bản số. Định nghĩa. Một tập hợp M gọi là tương đương với tập hợp N, ký hiệu là MN, nếu có thể lấy các phần tử của N tương ứng với các phần tử của M trong một cách thứ một – một. Định nghĩa. Bằng một số đếm của một lực lượng, chúng ta nói đến một đại diện tùy ý M của một lớp các tập hợp tương đương với nhau. Số đếm của một lực lượng của một tập hợp sẽ được ký hiệu bởi |𝑀|. Tại điểm này, chúng ta có các số đếm sau: 0, 1, 2, , 0, 1, 2, Ba số đếm sau cùng được gọi là các số đếm siêu hạng. Chúng ta cũng biết làm thế nào xây dựng nhiều số đếm hơn bằng cách lấy tập hợp các tập con của bất kỳ đại diện của một số đếm. Định nghĩa. Một tập hợp M được gọi có một số đếm nhỏ hơn một tập hợp N, ký hiệu là |𝑀| < |𝑁|, nếu và chỉ nếu M tương đương với một tập con của N, nhưng N không tương đương với một tập con của M. Trong số các số đếm siêu hạn, 0 là nhỏ nhất. Giả thuyết liên tục khẳng định rằng 20 = 1. Bản số của tất cả các hàm trên bất kỳ khoảng nào (hoặc tập hợp không đếm được) là 1. 3.7. Tiên đề chọn Năm 1904, Zermelo lần đầu tiên đưa ra tiên đề chọn trong tạp chí Toán học, mặc dù nó đã được sử dụng trong gần hai mươi năm. Thật kỳ lạ, mặc dù đã được sử dụng nhiều lần trước đây, nhưng nó đã không được chính thức tuyên bố như vậy. Nó chỉ là một NGUYỄN ÁI QUỐC TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 53 phần của chứng minh về các kết quả khác nhau đã sử dụng nó. Ví dụ, Cantor đã sử dụng nó vào năm 1887 để hiển thị bất kỳ tập hợp vô hạn nào có một tập con có bản số 0. Nó cũng được sử dụng trong tôpô học, đại số và giải tích. Năm 1890, Giuseppe Peano (1858 - 1932) lập luận rằng người ta không thể áp dụng một luật chọn một thành viên của một lớp từ mỗi lớp trong số nhiều lớp với một số vô hạn lần. Sau sự xuất hiện của bài báo Zermelo, một vấn đề tiếp theo chứa đựng những lời gièm pha không kém gì Emile Borel (1871 - 1956) và Felix Bernstein (1878 - 1956) trong Tạp chí Toán học. Những lời gièm pha cũng được gửi đến Bulletin de la Société Mathématique de France (Bảng tin của Hội Toán học Pháp) mặc dù ra năm 1905 bởi Henri Lebesgue (1875 - 1941) và Rene Baire (1874 - 1932). Hạt nhân của lập luận của họ là: nếu một luật xác định không chỉ rõ phần tử nào được chọn từ mỗi tập hợp, thì không có lựa chọn thực sự nào được thực hiện và tập hợp mới không thực sự được hình thành. Cụ thể, E. Borel gọi iên đề chọn là một lựa chọn vô luật mà khi được sử dụng là một hành động của đức tin, và điều đó không được toán học chấp nhận. 3.8. Đặc trưng tri thức luận của khái niệm vô cực Từ những phân tích ở trên về lịch sử hình thành khái niệm vô cực dựa trên các tài liệu tham khảo [5], [6], và [7], chúng tôi rút ra các đặc trưng tri thức luận của khái niệm vô cực như sau: - Đặc trưng trừu tượng: vô cực là khái niệm dùng để mô tả sự vô hạn, vô tận của một đối tượng toán học. - Đặc trưng triết học: vô cực được hình thành từ những tư tưởng mang tính triết học của Hy Lạp cổ đại. - Đặc trưng tiềm năng/thực tế: vô cực tiềm năng của Aristotle đã thống trị nền toán học từ thời cổ đại đến Cantor và vô cực thực tế của Cantor. - Đặc trưng đếm được/không đếm được: gắn liền với các tập số vô hạn. - Đặc trưng không xác định được: vô cực chỉ một đại lượng vô cùng lớn. - Đặc trưng ký hiệu học: ký hiệu biểu diễn cho vô cực không phải là một số cụ thể. 3.9. Chướng ngại tri thức luận Từ kết quả phân tích lịch sử hình thành khái niệm vô cực, chúng tôi xác định được chướng ngại tri thức luận của vô cực là: Chướng ngại trừu tượng hóa: chướng ngại này sinh ra các khó khăn mà học sinh phải đương đầu khi chuyển từ nghiên cứu trên các tập hợp số cụ thể sang nghiên cứu trên vô cực được ký hiệu bởi . Chướng ngại gắn liền ký hiệu học: chướng ngại này sinh ra các khó khăn cho học sinh khi phải thao tác trên ký hiệu . Chướng ngại gắn liền bản chất tiềm năng/thực tế: vô cực thực tế gây nhiều khó khăn cho các nhà toán học trong quá khứ, do đó cũng có thể chính là chướng ngại sinh ra các khó khăn mà sinh viên đại học ngày nay phải đương đầu khi tiếp cận khái niệm vô cực. 3.10. Giả thuyết nghiên cứu Với hai khó khăn xác định được trong thực nghiệm khảo sát trên học sinh trình bày trong mục 1.2: - Tồn tại quan niệm “vô cực là một số rất lớn”, nên có thể áp dụng các quy tắc biến đổi như với các số thực; - Xem ký hiệu biểu đạt cho cùng một đại lượng, do đó có thể triệt tiêu nhau trong bài toán trừ hay được đơn giản như một nhân tử khác không trong bài toán nhân hay chia, và từ kết quả phân tích tri thức luận ở SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019) 54 mục 3.1 đến 3.8, chúng tôi xây dựng giả thuyết H về các khó khăn của học sinh khi tiếp cận khái niệm vô cực như sau: H1. “Tồn tại hai khó khăn trên ở hầu hết học sinh khi tiếp cận khái niệm vô cực và các khó khăn này có nguồn gốc từ chướng ngại tri thức luận: chướng ngại trừu tượng hóa, chướng ngại gắn liền ký hiệu học”. 4. Kết luận Khái niệm vô cực ra đời nhằm giải quyết bài toán giải tích liên quan đến tập dẫn xuất của một tập có vô số phần tử trong nghiên cứu của Cantor. Khái niệm vô cực nảy sinh từ các ý tưởng triết học Hy Lạp cổ đại về nhận thức thế giới xung quanh, nhưng phải trải qua một thời gian dài để được định nghĩa chính thức bởi Wallis vào năm 1655. Vô cực tiềm năng đã thống trị tư tưởng các nhà toán học theo quan niệm của Aristotle trong suốt nhiều thế kỷ mặc dù vô cực thực tế đã được nhận thấy ở một số nhà khoa học. Cantor là người đã khai sinh chính thức vô cực thực tế qua nghiên cứu lý thuyết tập hợp. Hiểu được quá trình hình thành của khái niệm vô cực trong toán học sẽ giúp giáo viên hiểu được các chướng ngại và khó khăn mà học sinh phải đương đầu khi tiếp cận tri thức này. Để kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu H trong mục 3.10, trong nghiên cứu tiếp theo, chúng tôi sẽ tiến hành một thực nghiệm để làm rõ hai khó khăn của học sinh khi tiếp cận khái niệm vô cực và phân tích các nguyên nhân dẫn đến các khó khăn này. Các kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong một bài viết khác. Chú thích: 1 Pythagoras của xứ Samos là một triết gia Hy Lạp sống từ khoảng năm 570 đến năm 490 TCN. Ông đã có những phát triển quan trọng trong toán học, thiên văn học và lý thuyết âm nhạc. Pythagoras dành phần lớn cuộc đời của mình để nghiên cứu toán và thành lập một trường học đặc biệt nơi các thành viên tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt, chẳng hạn như không bao giờ ăn thịt. Pythagoras tin rằng mọi thứ trên thế giới có thể được giải thích bằng các con số và trường học của ông đã làm việc chăm chỉ để cố gắng học đủ về các con số để có thể hiểu được vũ trụ. 2 “Phương pháp vét cạn” trong toán học là kỹ thuật được phát minh bởi người Hy Lạp Cổ đại để chứng minh các mệnh đề liên quan đến diện tích và thể tích của các hình hình học. Mặc dù nó là tiền thân của phép tính tích phân, nhưng phương pháp vét cạn không sử dụng giới hạn cũng như luận chứng về các đại lượng vô cùng bé. Thay vào đó, đây là một quy trình logic chặt chẽ, dựa trên tiên đề rằng một đại lượng cho trước có thể được tạo ra nhỏ hơn một đại lượng cho trước khác bằng cách giảm nó đi một nửa liên tiếp số lần hữu hạn. Từ tiên đề này có thể chứng minh rằng diện tích của một hình tròn tỷ lệ với bình phương bán kính của nó. Thuật ngữ vét cạn được đưa ra ở châu Âu sau thời Phục hưng và được áp dụng cho các quy trình nghiêm ngặt của Hy Lạp cũng như các chứng minh đương thời của các công thức diện tích bằng cách vét cạn diện tích các hình với các xấp xỉ đa giác liên tiếp [6, tr. 201]. 3 Vị trí Giáo sư Hình học Savilian được thành lập tại Đại học Oxford vào năm 1619. Nó được thành lập (cùng lúc với Giáo sư Thiên văn học Savilian) bởi Sir Henry Savile, một nhà toán học và học giả cổ điển, là Warden của Merton College, Oxford và Provost của Eton College, phản ứng với những gì đã được một nhà toán học thế kỷ 20 mô tả là "tình trạng tồi tệ của nghiên cứu toán học ở Anh" vào thời điểm đó. [6, tr. 525] NGUYỄN ÁI QUỐC TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 55 4 Trong Hình học, phương pháp không thể chia tách được, hay còn gọi là nguyên lý Cavalier, là một phương pháp tính diện tích và thể tích. Nguyên lý Cavalier được phát biểu như sau: “Một bề mặt là một sự đặt kề nhau các đường thẳng song song. Đối với Cavalier, các đường thẳng song song là các đoạn thẳng song song hay các cung của các đường tròn đồng tâm. Mỗi đường được gọi là một không chia tách được của bề mặt để thực hiện phép cầu phương. Nếu hai bề mặt bao gồm các đường có cùng độ dài, thì chúng có cùng diện tích. Một nguyên tắc tương tự tồn tại cho thể tích và phát biểu rằng các thể tích của hai đối tượng bằng nhau nếu các mặt cắt ngang tương ứng trong mọi trường hợp là bằng nhau. Hai mặt cắt ngang tương ứng nếu chúng là phần giao của vật thể với các mặt phẳng cách đều một mặt phẳng cơ sở cho trước” [4, tr. 118-124]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] G. Brousseau, Les obstacles épistémologiques et les problèmes en mathématiques, Recherches en didactique des mathématiques, 4(2), 165-198, 1983. [2] J. W. Dauben, Georg Cantor and the Origins of Transfinite Set Theory, Scientific American, 248 (6), 122-154, 1983. [3] J. W. Dauben, Georg Cantor: His Mathematics and Philosophy of the Infinite, Princeton, NewYork, Princeton University Press, 1990. [4] H. Eves, Two Surprising Theorems on Cavalieri Congruence, The College Mathematics Journal, 22 (2), 118-124, 1991. [5] V. J. Katz, A History of Mathematices – An Introduction, 3rd Edition, Pearson Education, Inc., 2009. [6] M. Kline, Mathematical Thought from Ancient to Modern Times, Oxford University Press, NewYork, 1972. [7] Whinston, A Finite History of Infinity, Portland State University, 2009. Ngày nhận bài: 10/4/2019 Biên tập xong: 15/5/2019 Duyệt đăng: 20/5/2019
File đính kèm:
- dac_trung_va_chuong_ngai_tri_thuc_luan_cua_khai_niem_vo_cuc.pdf