Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú Thuận và Phú Hải, tỉnh Thừa Thiên Huế
Trong quá trình hình thành và phát triển làng xã ở Thừa Thiên Huế đã có không ít làng chọn nghề biển làm kế sinh nhai, phân bố rải rác ven bờ biển kéo dài 120km, như các làng Thai Dương, Hòa Duân, An Dương, Cự Lại, Diên Lộc, Hà Thanh, An Bằng, Mỹ Á, Phụ An, An Cư, Cảnh Dương .
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú Thuận và Phú Hải, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú Thuận và Phú Hải, tỉnh Thừa Thiên Huế
37 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017 TRUYỀN THỐNG KINH TẾ BIỂN CỦA MỘT SỐ DÒNG HỌ Ở XÃ PHÚ THUẬN VÀ PHÚ HẢI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được* 1. Vài nét về vùng đất, con người các làng ở xã Phú Thuận và Phú Hải Trong quá trình hình thành và phát triển làng xã ở Thừa Thiên Huế đã có không ít làng chọn nghề biển làm kế sinh nhai, phân bố rải rác ven bờ biển kéo dài 120km, như các làng Thai Dương, Hòa Duân, An Dương, Cự Lại, Diên Lộc, Hà Thanh, An Bằng, Mỹ Á, Phụ An, An Cư, Cảnh Dương. Đặc biệt, các làng Hòa Duân, An Dương thuộc xã Phú Thuận, làng Cự Lại thuộc xã Phú Hải (đều thuộc huyện Phú Vang) rất nổi tiếng với nghề đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Tại đây xuất hiện nhiều dòng họ nổi bật trong hoạt động ngư nghiệp, truyền qua nhiều thế hệ. Đây là một đặc điểm mang dấu ấn văn hóa dòng họ trong hoạt động kinh tế khai thác tài nguyên biển ở Thừa Thiên Huế. Làng Hòa Duân (禾勻) có tên dân gian là làng Eo (腰) là một trong những làng được hình thành sớm ở Thuận Hóa. Trước khi vua Lê Thánh Tông vào chinh phạt Chiêm Thành (1471) thì làng Hòa Duân đã được thành lập, cư dân quần tụ sinh sống; giữa thế kỷ XVI Hòa Duân là một trong 60 làng thuộc huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.(1) Tuy nhiên, qua quá trình điền dã chúng tôi nhận thấy những cư dân sinh sống ở đây hiện nay lại không có mối liên hệ mật thiết nào với những lớp cư dân ban đầu của làng này.(2) Trong làng hiện nay có một ngôi mộ lớn ở thôn Xuân An, các thế hệ người dân nơi đây đều lưu truyền là mộ của vị khai canh lập nên làng Hòa Duân nhưng chính họ cũng không biết vị này có tên họ là gì, hậu duệ cũng không còn sinh sống trong làng.(3) Thông qua các sử liệu có ghi chép về làng cho phép chúng tôi khẳng định những cư dân buổi ban đầu sinh sống có dòng họ Nguyễn. Người trong dòng họ này được một số sử liệu đề cập đến là Nguyễn quý phi (không rõ tên): “Khi vua (Lê) Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu, bèn cho vào cung, được nhà vua * Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Huế. Bài viết trích từ kết quả nghiên cứu đề tài KHCN cấp tỉnh: “Vai trò và tác động của gia đình, dòng họ đối với sự phát triển của xã hội ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay”, mã số TTH.2015-KX 01, do ngân sách nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư. BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM 38 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017 quý mến. Lần lần được phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu vương”.(4) Hiện nay, dòng họ này cũng không còn ở Hòa Duân; qua khảo sát chúng tôi chỉ phát hiện ra dấu vết một ngôi mộ nằm trong một lùm cây dại rậm rạp mà các bậc cao niên trong làng cho đó là mộ mẹ bà Nguyễn quý phi, có tên là “mụ Mậm”. Đa phần các dòng họ hiện đang sinh sống trong làng đều đến rất muộn. Dòng họ được toàn thể dân làng công nhận là có công khai khẩn lớn của làng chỉ mới đến từ cuối thế kỷ XVII, đó là họ Huỳnh Văn. Tiếp sau họ này là các họ Nguyễn Văn, Hồ, Trần, Huỳnh, Phạm Văn. Tính đến nay, làng Hòa Duân có hơn 43 dòng họ khác nhau cùng nhau chung sống, sinh cơ lập nghiệp, khai phá nguồn lợi thủy hải sản từ biển và phá Tam Giang. Trải qua quá trình khai phá lập ấp, dân làng Hòa Duân đã lập nên được 4 xóm là Tân An, Trung An, Xuân An và Định Cư (nay gọi là Tân Lập). Làng An Dương (安陽) được thành lập muộn hơn so với làng Hòa Duân, khoảng đầu thời chúa Nguyễn. Quá trình khai phá lập làng gắn liền với “bát tộc khai canh” của làng, đó là các họ Ngô Đức, Nguyễn Văn (2 họ), Trương Viết, Trương Phước, Phan, Nguyễn Thanh, Võ Văn. Theo các bậc cao niên kể lại rằng: Có tám vị từ Thanh Hà(5) đi theo đường biển, khi đến vùng đất thuộc làng An Dương ngày nay, họ đã ghé vào bờ để tìm kiếm thức ăn, nước ngọt và các ngài đã quyết định ở lại để khai phá vùng đất nơi đây. Tuy vậy, khi khảo sát các tư liệu thực tế chỉ có 7 họ cùng vào, còn họ Trương Viết từ Hà Hồng (Vinh Thái, Phú Vang) sang và có gốc ở phía Bắc.(6) Ngay từ buổi khai sơ lập làng, các họ tộc đã phân chia khu vực để cùng khai phá, mối quan hệ huyết thống chiếm vị trí then chốt trong cộng đồng xóm làng.(7) Sự phân chia đó được thể hiện qua câu ca dao sau: Nguyễn, Ngô thì ở Phú Ninh, Trương, Phan An Lạc, Nguyễn Thanh Mỹ Thành. Sự phân chia đất đai đó vô hình trung đã tạo nên những vùng nổi bật về làm nghề khai thác và chế biến thủy hải sản tương ứng với sự nổi bật của các dòng họ trong nghề này. Điều này thể hiện rõ tính chất dòng họ trong nghề khai thác, chế biến hải sản ở An Dương được hình thành suốt mấy thế kỷ tồn tại của các dòng họ nơi đây. Làng Cự Lại (鉅賴) có tên dân gian là Làng Trài,(8) tên đầu tiên là Cửa Đợi, thời chúa Nguyễn đổi Cự Lại. Làng được thành lập vào khoảng cuối thế kỷ XV.(9) Đến cuối thế kỷ XVIII, làng thuộc tổng Kế Thực, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong.(10) Dòng họ có công lớn nhất và được công nhận là “Bổn thổ tiền khai canh” của làng là họ Phan. Trong bài tựa của gia phả dòng họ có chép về nguồn gốc và công trạng khai canh lập làng: “Từ thời Hậu Lê, ngài Phan Văn Thuận quê ở Thanh Hóa đã sinh hạ được hai nam là ngài Phan Văn Tưởng nhất lang và Phan Văn Trài nhị lang. Sau đó cả hai người con của ngài Phan Văn Thuận cùng rời đất Bắc vào Thuận Hóa lập nghiệp. Trong đó, ngài Phan Văn Tưởng đến khai phá vùng hoang hóa thuộc tổng Quảng Xuyên, huyện Phú Vang lập nên xã Ba Lăng, sau được truy phong là tiền khai canh. Ngài Phan Văn Trài nhị lang đã cùng với các họ Nguyễn, Trần Văn, Lê, Trần Vĩnh khai lâm phá lũng lập ấp Cự Lại”.(11) Đến nay, họ Phan đã truyền đến 20 đời. Sau họ Phan là các họ Nguyễn (Văn) Chiêu, Trần Văn, Lê Văn, Trần Vĩnh, Nguyễn Văn (Đại) có công khai khẩn lập làng. Đa phần các họ này đều có nguồn gốc từ vùng Thanh Nghệ vào. Tiếp đó các họ Phan Viết, Huỳnh, Hà (gốc La Chử, Hương Trà), Đặng, Hồ cũng đến sinh sống tại làng. 2. Truyền thống kinh tế biển 2.1. Truyền thống đánh bắt, khai thác thủy hải sản - Làng Hòa Duân đã sớm nổi tiếng về hải ... ép ra nước mắm, quá trình ép phải qua khâu lọc bằng rổ luộc (rổ nhọn ở phần đáy) và tấm vải lọc dày bỏ trên rổ. Đối với nước mắm ruốc thì 8 ruốc 1 muối và quá trình làm ra nước mắm cũng qua các khâu như nước mắm cá. Đối với nghề làm mắm thính thì thường sử dụng cá nục, cá chuồn, cá thu, cá chù, cá cờ, cá bẹ. Cá rửa sạch, để ráo nước rồi ướp muối để vài hôm cho thấm vào cá. Sau đó người ta dùng gạo hoặc ngô rang xay rải lên cá, một lớp cá một lớp thính, cho vào vại, chum, ghè nén chặt. Sau đó nấu nước muối với tỷ lệ vừa phải đổ lên mặt cho thấm cá. Ướp như vậy khoảng 3 tháng là sử dụng được. Mắm cá được làm từ các loại cá nhỏ như cá cơm, cá me, cá rò. Cá bắt lên, rửa sạch, để ráo rồi trộn với muối theo tỷ lệ 7 cá 1 muối, kèm theo gia vị. Người ta trộn đều rồi bỏ vào ghè, chum, vại, nén thật chặt. Khoảng 15 ngày thì mắm chín. Làm tôm chua cũng là một sản phẩm chế biến của người dân nơi đây. Công thức đối với tôm to là 10 tôm 1 muối, nếu tôm nhỏ thì 11 tôm 1 muối. Tôm được sử dụng để làm là tôm ở trong sông đầm, có vỏ mỏng; khi làm cắt râu tôm và đầu nhọn, ướp muối khoảng 12 tiếng đồng hồ sau đó trộn với nếp xay bột và ớt (cả ớt trái lẫn ớt bột), măng, rồi tiếp tục ướp khoảng 10 đến 15 ngày là có thể ăn được. Trong “bát tộc” của làng An Dương có 2 họ Nguyễn Văn nổi tiếng khắp vùng với truyền thống chế biến thủy hải sản. Một họ nổi tiếng với nghề làm mắm, được trong vùng gọi là họ “Nguyễn Mắm”. Một họ nổi tiếng với nghề làm ruốc, ngài thủy tổ tên là Nguyễn Văn Mắm, được trong vùng gọi là họ “Nguyễn Ruốc”. Họ “Nguyễn Mắm”, thủy tổ là ngài Nguyễn Văn Trục (阮文逐), từ Thanh Hà vào khai canh vùng An Dương, đến nay truyền được 17 đời. Đến đời thứ 6, họ này phân thành ba phái. Người đứng đầu các phái nhất, nhì, ba lần lượt là Nguyễn Văn Sấm (con của Nguyễn Văn Thuận), Nguyễn Văn Đính (con của Nguyễn Văn Ước), Nguyễn Văn Sát (con của Nguyễn Văn Quy). Trong đó, phái ba vào định cư ở làng Hà Quảng (nay là thôn Quảng Gia, xã Điện Dương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), cải thành họ Nguyễn Tấn. Tại nơi ở mới, các thế hệ con cháu của họ này vẫn tiếp tục làm nghề biển và làm mắm, góp phần làm nên một làng Hà Quảng nổi tiếng với nước mắm thơm ngon của xứ Quảng. Hai phái nhất và nhì vẫn tiếp tục ở lại phát triển nghề biển, làm mắm. Theo lời kể của các bậc cao niên thì đời thứ 12 (phái nhất) trong họ có ông tên là Nguyễn Văn Mọi rất giỏi làm mắm. Với tài làm mắm của mình, ông trở nên nổi tiếng khắp vùng và rất giàu có, mua được nhà cửa ở An Cựu (Huế). Cũng vì thế mà họ của ông được dân làng gọi với cái tên là họ “Nguyễn Mắm”. Ông là người có nhiều đóng góp cho dòng họ, tiêu biểu nhất là cúng lập từ đường của dòng họ. Bên cạnh đó, dòng họ này còn có nhiều người giỏi nghề làm mắm, tiêu biểu là ông Nguyễn Văn Bình, vợ chồng ông Nguyễn Văn Cửu Họ “Nguyễn Ruốc”, thủy tổ là Nguyễn Văn Mắm, cũng từ Thanh Hà vào khai canh vùng An Dương cùng các họ khác. Trước đây, họ này có nhiều người giỏi làm ruốc, làm mắm, được người dân trong vùng gọi là họ “Nguyễn Ruốc”. Nghề làm mắm, làm ruốc được truyền qua nhiều thế hệ, nổi bật có thể kể đến gia đình các ông Nguyễn Văn Hứa (đời 10), Nguyễn Văn Mon (đời 11), Nguyễn Văn Thẻo (đời 11).... Ông Nguyễn Văn Hứa là người nổi tiếng về đánh bắt lẫn làm mắm khắp làng. Ông là con của Nguyễn Văn Chít, cũng là một người giỏi làm mắm, ruốc; em ruột của ông là Nguyễn Văn Sữa cũng khá giỏi trong nghề này. Con của ông là Nguyễn Văn Kính vẫn đang tiếp nối rất tốt truyền thống làm mắm, ruốc của gia đình và dòng họ. - Làng Cự Lại: Cũng giống với làng An Dương, các dòng họ ở làng Cự Lại nổi tiếng với nghề làm mắm, nước mắm, nhất là nước mắm ruốc. Thương hiệu nước mắm Làng Trài của làng đã được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp giấy chứng nhận bảo hộ thương hiệu. Việc truyền nghề trong gia đình, dòng họ giúp cho nghề làm mắm, làm ruốc được truyền qua nhiều thế hệ của cư dân nơi đây và tạo nên một thế mạnh trong hoạt động kinh tế cũng như truyền thống riêng của vùng đất này. Các họ tiêu biểu nổi bật trong nghề chế biến có Trần Văn, Phan, Nguyễn. Họ Trần Văn cùng với hai họ Nguyễn, Lê Văn là bổn thổ khai canh. Hai anh em nổi bật trong nghề là Trần Văn Diệp với thương hiệu nước nắm Út Diệp (thôn Cự Lại Đông), Trần Văn Phú với thương hiệu nước mắm Phú An (thôn Cự Lại Trung). Hiện nay, họ Nguyễn có hộ ông Nguyễn Đức Định ở thôn Cự Lại Trung tạo nên một thương hiệu nước mắm lớn ở trong làng; họ Phan có hộ ông Phan Văn Phương ở thôn Cự Lại Nam nổi tiếng với nghề chế biến mắm ruốc. Chính truyền thống giỏi làm nghề đánh khuyếc của các dòng họ đã tạo nên nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú, giúp các hộ sản xuất có nguồn nguyên liệu tươi sạch làm nên những sản phẩm có chất lượng cao. Ngược lại, truyền thống làm mắm ruốc, nước mắm ruốc đã tạo nên động lực cho nghề đánh khuyếc phát triển mạnh. Điều này lý giải tại sao nơi đây nghề làm ruốc, nước mắm ruốc lại phát triển đến vậy. 45Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017 46 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017 Trước đây, mắm, nước mắm, ruốc của An Dương, Cự Lại không chỉ được tiêu thụ ở các vùng trong tỉnh như Huế, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, vùng miền núi phía Tây mà còn được bán đi nhiều tỉnh thành khác, đó là Vinh, Đông Hà, Quảng Trị, Đà Nẵng. Hiện nay, các sản phẩm này được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều nơi và xuất khẩu ra nước ngoài. 3. Thay lời kết Trong số những ngành nghề kinh tế nông thôn Thừa Thiên Huế, nghề đánh bắt thủy hải sản được đánh giá là một trong những nghề mang tính nguy hiểm và bấp bênh cao. Ngư dân thường xuyên phải đứng trước thách thức bão lũ, các con sóng dữ là những hiểm họa mà cư dân hoạt động trong nghề này thường xuyên phải đối mặt. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt không cho phép ngư dân đánh bắt một cách đều đặn mà chỉ đánh bắt trong mùa biển lặng. Để khắc phục, họ đã đoàn kết nhau lại mà trước hết là đoàn kết trong gia đình, dòng tộc để cùng nhau khai thác nguồn lợi biển một cách có hiệu quả. Chính điều này đã tạo nên truyền thống đánh bắt thủy hải sản cho các dòng họ ở Phú Thuận, Phú Hải. Việc người trong gia đình, dòng họ cùng nhau làm việc có những lợi thế nhất định vì đó là mối quan hệ gần gũi, dễ phối hợp với nhau trong công việc đánh bắt đầy khó khăn. Do đó, người trong gia đình hay trong dòng họ thường cùng làm chung thuyền, chung tàu với nhau. Đây không chỉ là cùng khai thác một cách có hiệu quả nguồn lợi biển cả mà còn là một hình thức truyền nghề trong gia đình, dòng họ cần được phát huy. Những kinh nghiệm, bí quyết đi biển, làm mắm được truyền qua các thế hệ, giúp giữ vững được truyền thống của gia đình, dòng họ. Ngày nay, thế hệ kế cận cho nghề biển và chế biến thủy hải sản đang ít dần. Cùng với đó là cái nhìn thiên lệch của xã hội về cái nghề “kém chữ” này đã làm cho các thế hệ tiếp nối truyền thống kinh tế biển không còn mặn mà với nghề, con cháu của các ngư dân nơi đây chủ yếu đi học hành và làm các nghề “nhiều chữ”. Do đó, chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận khác về nghề biển. Không chỉ thay đổi cái nhìn thiển cận của xã hội mà còn phải thay đổi cách làm trong quá trình khai thác nguồn lợi biển cả. Để thay đổi, trước tiên cần phải hiện đại hóa kinh tế biển, nâng cao đầu tư để phát huy nguồn nhân lực tại chỗ. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng một đội ngũ thế hệ trẻ hoạt động kinh tế biển có trình độ cao, tiếp cận tốt với các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại để nối tiếp truyền thống của các thế hệ cha ông. N V Đ - M V Đ CHÚ THÍCH (1) Dương Văn An (2015), Ô Châu cận lục, bản dịch của Trần Đại Vinh, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.57. (2) Điều này có thể được lý giải là do diện tích làng Hòa Duân hẹp, không thuận lợi cho nông nghiệp nên khi dân số phát triển, nhiều người đã bỏ đi nơi khác tìm vùng đất màu mỡ hơn để sinh sống. Thêm vào đó, do nằm cạnh cửa biển (Cửa Eo-Thuận An) nên không ít bất lợi cho người dân nơi đây: (1) Theo các văn bản Hán Nôm lưu giữ ở làng thì cư dân nơi đây thường xuyên bị giặc Tàu Ô vào cướp phá, (2) Địa hình gần cửa biển thường xuyên bị biến động, (3) Thiên tai bão lũ làm cho làng Hòa Duân bị tàn phá nghiêm trọng, cuộc sống người dân không được ổn định. Từ đó, cư dân bị hao hụt (phần bị chết vì thiên tai, nhân tai, phần do họ tìm nơi khác để an cư lạc nghiệp). (3) Hằng năm, dân làng vẫn tiến hành tế lễ để tưởng nhớ công lao của vị khai canh vào ngày Đông chí (22/12) và khi tế khấn “tôn thần liệt vị” (tế chung cho tất cả các họ có công khai phá đất đai). (4) Lê Quý Đôn (2013), Đại Việt thông sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.132. Trong Ô Châu cận lục, Dương Văn An cũng có đề cập tương tự: “Hòa Duân phi: phi người làng Hòa Duân, huyện Kim Trà. Khi vua Lê (Thánh Tông) đi đánh Chiêm Thành, đã nghỉ lại ở đây, thấy bà đi gánh nước, nhan sắc xinh đẹp, vua rất thích bèn nạp làm hậu cung sinh được hoàng tử phong làm Triệu vương”, Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Sđd, tr.102. (5) Qua tra cứu địa danh làng xã ở miền Bắc thì có hai làng Thanh Hà (青河): Một làng thuộc tổng An Trú, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương; một làng thuộc tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa. Theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.29, 116. (6) Theo Trương Viết tộc phổ chí, lưu tại nhà thờ họ Trương Viết làng An Dương, Phú Thuận, Phú Vang. (7) Nguyễn Thị Vi (2015), Sự hình thành làng xã vùng ven biển huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế từ thế kỷ XV đến năm 1945, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Huế, Huế, tr.27. (8) Làng Trài có nghĩa là làng của ông Trài, do ông Trài lập nên. Ngài thủy tổ họ Phan là Phan Văn Trài chính là người có công khai phá làng đầu tiên, được phong là “Bổn thổ tiền khai canh”. Để tưởng nhớ công lao lập làng nên người dân nơi đây đã gọi với cái tên thân thương ấy, cũng là để nhắc nhở các thế hệ con dân làng Cự Lại phải biết “uống nước nhớ nguồn”. (9) Làng Cự Lại không được Dương Văn An chép trong Ô Châu cận lục, tuy nhiên dựa trên các tư liệu lưu giữ tại địa phương có thể khẳng định rằng làng này đã được thành lập khoảng cuối thế kỷ XV. (10) Lê Quý Đôn (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Phủ Biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.79. (11) Dẫn theo Nguyễn Thị Vi (2015), Tlđd, tr.29. (12) Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Sđd, tr.85. (13) Theo ông Huỳnh Tư, 83 tuổi, Trưởng họ Huỳnh làng Hòa Duân, xã Phú Thuận. Căn cứ vào những lời truyền tích trên thì rất có thể họ Huỳnh này là gốc họ Đoàn ở làng An Truyền; do cuộc nổi dậy của Đoàn Hữu Trưng thất bại nên con cháu bị đổi sang họ Đoạn, thất tán nhiều nơi; rất có thể ông Huỳnh Văn Thiện là một người trong họ Đoàn này đã chạy đến Hòa Duân đổi họ và bắt đầu một cuộc sống mới. Tuy vậy, điểm này cần được nghiên cứu xác minh thêm. (14) Ngư dân thường tính độ sâu theo đơn vị sải (sải tay người lớn), sải tính theo đơn vị quốc tế thì 01 sải = 1,8288m. (15) Người con cả Trương Viết Mạng đến định cư ở làng Hà Trữ (Phú Vang); con trai út là Trương Viết Mai ở lại Hà Hồng. Người con thứ hai là Trương Viết Binh lấy vợ đầu không có 47Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017 con, vợ thứ hai là Thị Ruộng có một người con là Trương Viết Vụ. Khi bà thứ hai đang mang thai thì người vợ cả đánh đập khiến bà phải bỏ đi, đến cư ngụ tại làng An Dương và sinh con ở đây. Về sau khi làm tờ khai xin nhận sắc phong, con cháu trong họ đã xin sắc phong cho ông Trương Viết Binh. Theo gia phả họ Trương Viết tại nhà thờ họ, xã Phú Thuận. (16) - Theo địa bạ phường An Bằng (Vinh An) được lập vào năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) lần đầu tiên đề cập đến nghề ngư của phường: “Các loại ghe thả lưới ở vùng biển cạn năm trước và mới thêm năm nay, từ trên cửa Eo đến Cảnh Dương tổng cộng 14 chiếc. Năm trước khai thác thả lưới ở vùng biển cạn là 8 chiếc ghe. Năm nay mới thêm ở vùng thả lưới, ở vùng biển cạn là 6 chiếc”. Dẫn theo Nguyễn Thị Vi, Tlđd, tr. 80. - Theo tờ khai các hạng thuế năm Minh Mạng thứ 16 (1835) của làng Hà Thanh (Vinh Thanh) thì cả xã có 2 thuyền chài (từ 5-10 người làm/thuyền). Dẫn theo Nguyễn Văn Đăng (2010), “Một số vấn đề về làng xã ven biển miền Trung qua tư liệu Hán Nôm ở làng Hà Thanh”, Văn hóa - Lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận và quan hệ với bên ngoài, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 201. (17) Nguyễn Quang Trung Tiến (1995), Ngư nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 84. (18) Trước đây làm bằng tre, nay thường sử dụng loại bị đan bằng cước sợi lớn. TÓM TẮT Phú Thuận và Phú Hải là hai xã ven biển huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, gồm ba làng Hòa Duân, An Dương, Cự Lại. Từ rất sớm, cư dân nơi đây đã biết dựa vào nguồn lợi của Biển Đông để sinh cơ lập nghiệp và trở thành những làng nổi bật với truyền thống kinh tế biển lớn nhất Thừa Thiên Huế. Trải qua khoảng nửa thiên niên kỷ, “nghề biển” được các thế hệ cư dân nơi đây truyền nối và phát triển. Có được điều đó là nhờ sợi dây huyết thống gia đình, dòng họ đã liên kết tất cả họ lại để có thể đứng vững trước sóng biển và đại dương mênh mông. ABSTRACT TRADITION OF MARITIME ECONOMY IN SOME FAMILIES OF PHÚ THUẬN AND PHÚ HẢI COMMUNES IN THỪA THIÊN HUẾ PROVINCE Phú Thuận and Phú Hải are two coastal communes of Phú Vang district, Thừa Thiên Huế province, including three villages of Hòa Duân, An Dương and Cự Lại. Since the early days, the residents there have relied on the resources of the East Sea to earn their livings and become prominent villages with the tradition of maritime economy in Thừa Thiên Huế Province. Over half a millennium, “maritime fisheries” has been inherited and developed by generations of local residents. It is thanks to the blood-relationship of the families which has connected all of them that they are able to confront big waves and immense ocean. 48 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (140) . 2017
File đính kèm:
- truyen_thong_kinh_te_bien_cua_mot_so_dong_ho_o_xa_phu_thuan.pdf