Tạp chí Dầu khí - Số 5 năm 2015
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
20. Những khó khăn, thách thức của Vietsovpetro trong vận chuyển dầu nhiều paraffin bằng đường ống ngầm ngoài khơi
26. Đặc trưng tầng chứa đá carbonate Mesozoic ở cụm cấu tạo Hàm Rồng, Lô 106 thềm lục địa Việt Nam
32. Giải pháp khai thác dầu khí cho các mỏ nhỏ, cận biên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tạp chí Dầu khí - Số 5 năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Dầu khí - Số 5 năm 2015
SỐ 5 - 2015T¹p chÝ cña tËp ®oμn dÇu khÝ quèc gia viÖt nam - petrovietnam DÇuKhÝ Petro ietnam ISSN-0866-854X VỀ ĐÍCH TRƯỚC 1 THÁNG NHIỆT HUYẾT, SÁNG TẠO, CHUYÊN NGHIỆP, KỶ CƯƠNG SỐ 5 - 2015T¹p chÝ cña tËp ®oμn dÇu khÝ quèc gia viÖt nam - petrovietnam DÇuKhÝ Petro ietnam ISSN-0866-854X VỀ ĐÍCH TRƯỚC 1 THÁNG NHIỆT HUYẾT, SÁNG TẠO, CHUYÊN NGHIỆP, KỶ CƯƠNG Giấy phép xuất bản số 100/GP - BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 15/4/2013 TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ Tầng 16, Tòa nhà Viện Dầu khí Việt Nam - 167 Trung Kính, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội Tel: 04-37727108 | 0982288671 * Fax: 04-37727107 * Email: tapchidk@vpi.pvn.vn Ảnh bìa: Dự án phát triển khai thác mỏ Bir Seba (Lô 433a và 416b, Algeria) là dự án đầu tiên PVN/PVEP triển khai tại nước ngoài với vai trò là nhà điều hành. Ảnh: Đoàn Công TỔNG BIÊN TẬP TS. Nguyễn Quốc Thập PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. Lê Mạnh Hùng TS. Phan Ngọc Trung BAN BIÊN TẬP TS. Hoàng Ngọc Đang TS. Nguyễn Minh Đạo CN. Vũ Khánh Đông TS. Nguyễn Anh Đức ThS. Trần Hưng Hiển ThS. Vũ Văn Nghiêm ThS. Lê Ngọc Sơn KS. Lê Hồng Thái ThS. Nguyễn Văn Tuấn TS. Phan Tiến Viễn ThS. Trần Quốc Việt TS. Nguyễn Tiến Vinh TS. Nguyễn Hoàng Yến THƯ KÝ TÒA SOẠN ThS. Lê Văn Khoa ThS. Nguyễn Thị Việt Hà PHỤ TRÁCH MỸ THUẬT Lê Hồng Văn TỔ CHỨC THỰC HIỆN, XUẤT BẢN Viện Dầu khí Việt Nam NỘI DUNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ HÓA CHẾ BIẾN DẦU KHÍ CÔNG NGHỆ - CÔNG TRÌNH DẦU KHÍ KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ 20. Những khó khăn, thách thức của Vietsovpetro trong vận chuyển dầu nhiều paraffin bằng đường ống ngầm ngoài khơi 26. Đặc trưng tầng chứa đá carbonate Mesozoic ở cụm cấu tạo Hàm Rồng, Lô 106 thềm lục địa Việt Nam 32. Giải pháp khai thác dầu khí cho các mỏ nhỏ, cận biên 38. Phân tích thành phần khí argon khi có lẫn khí oxygen sử dụng đầu dò TCD với khí mang nitrogen 42. Đánh giá hiệu quả của tổ hợp ức chế ăn mòn - chống đóng cặn cho hệ thống đường ống dẫn dầu 49. Mô phỏng quá trình xử lý lưu huỳnh nguyên liệu LCO Nhà máy Lọc dầu Dung Quất 55. Giải pháp thiết kế xây dựng công trình phục vụ khai thác các mỏ nhỏ và mỏ cận biên 61. Áp dụng công nghệ Phased Array lập bản đồ ăn mòn cho các thiết bị trong ngành công nghiệp dầu khí 66. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và phần mềm quản lý các hợp đồng dầu khí trong nước 7,8ï,ŧ0 6 'p8.+ - 6Ӕ Rusvietpetro đã khai thác 10 triệu tấn dầu Trong chuyến thăm Liên bang Nga tham dự Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ngày 9/5/2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin. Trong không khí hữu nghị, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, lãnh đạo hai nước đã trao đổi ý kiến về các vấn đề hợp tác song phương và thống nhất nhiều biện pháp nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn mới. Hai bên đánh giá cao hoạt động của các công ty dầu khí hai nước và các liên doanh đang hoạt động tại thềm lục địa Việt Nam và trên lãnh thổ Liên bang Nga, khẳng định sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các dự án thăm dò và khai thác dầu khí hiện nay cũng như các dự án mới trong các lĩnh vực chế biến và lọc hóa dầu. Ngày 10/5, tại trụ sở Zarubezhneft ở Moscow (Liên bang Nga), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đoàn công tác đã đến dự Lễ chào mừng sự kiện khai thác 10 triệu tấn dầu của Liên doanh Rusvietpetro. Rusvietpetro là công ty liên doanh giữa Zarubezhneft (51%) và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (49%), được thành lập tháng 12/2008, với giấy phép 25 năm. Diện tích thăm dò khai thác lên tới 807km2, tại 4 lô, nằm trên đất liền ở Khu tự trị Nenetskiy bên bờ Bắc Băng Dương. Theo kết quả thăm dò, Rusvietpetro đã phát hiện ra 13 mỏ dầu khí có trữ lượng thu hồi 95,6 triệu tấn dầu ở khu vực này. Mặc dù điều kiện triển khai dự án rất khó khăn, phức tạp do địa hình khu vực Nenetskiy chủ yếu là đầm lầy, nhiệt độ thường xuyên dưới -45°C, tuy nhiên, chỉ sau gần 2 năm kể từ ngày ký hợp đồng và 1 năm tích cực triển khai trên thực địa, Dự án đã cho dòng dầu công nghiệp đầu tiên từ mỏ Bắc - Khosedayu vào ngày 30/9/2010. Tiếp đó, Rusvietpetro đã đưa thêm 2 mỏ mới vào khai thác: mỏ Visovoi (29/7/2011) và mỏ Tây Khosedayu (1/8/2012). Theo Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Nguyễn Xuân Sơn, đây là dự án có tiến độ triển khai nhanh nhất và cũng là dự án có hiệu quả nhất của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại nước ngoài cho tới thời điểm hiện nay. Sau 6 năm hoạt động, đến nay, Rusvietpetro đã khai thác được 10 triệu tấn dầu, đem lại lợi nhuận khá cho cả hai phía. Lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cảm ơn Chính phủ, các Bộ, Ngành của hai nước, lãnh đạo Khu tự trị Nenetskiy đã ủng hộ, tạo điều kiện cho Liên doanh khai thác; đồng thời biểu dương sự cố gắng, nỗ lực của cán bộ, công nhân viên Rusvietpetro đã khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Zarubezhneft trong thời gian qua với biểu tượng là Liên doanh Vietsovpetro và Rusvietpetro, Chủ 7õ1*&óľ1*+Ł37¤&7521*/Ģ1+9ŋ&'Ŝ8.+° YåL/LÂQEDQJ1JDY¬$]HUEDLMDQ Trong chuyến thăm Liên bang Nga và Azerbaijan từ ngày 7 - 15/5/2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội đàm với Tổng thống Vladimir Putin và Tổng thống Azerbaijan Ilham Alyev nhằm đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực trụ cột của quan hệ song phương, trong đó có lĩnh vực dầu khí. Lãnh đạo Liên bang Nga và Azerbaijan khẳng định sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy đầu tư trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao cán bộ, kỹ sư Rusvietpetro đã vượt qua khó khăn, khai thác thành công 10 triệu tấn dầu. Ảnh: TTXVN 7,8ï,ŧ0 10 'p8.+ - 6Ӕ Tăng cường thăm dò, khai thác và cung cấp dịch vụ dầu khí Trong khuôn khổ Lễ ký chính thức Hiệp định Thư ... ya Joseph Njoroge cho biết Toyota Tsusho (Nhật Bản) đã được trao hợp đồng soạn thảo đề án nghiên cứu khả thi và thiết kế công nghệ sơ bộ đường ống dẫn dầu từ Hoima (Uganda) xuyên qua bồn trũng Lokichar, đến cảng Lamu của Kenya; đồng thời thiết kế các bồn chứa, terminals giao nhận dầu ở Hoima, Lokichar và Lamu. Từ tháng 10/2014, Ngân hàng Thế giới đã cấp 8 tỷ USD hỗ trợ tài chính cho các đề án xây dựng đường ống dẫn dầu khí liên châu lục nối liền 8 quốc gia châu Phi, trong đó có Kenya. Cơ quan Đầu tư và Thương mại Vương quốc Anh (UKTI) đang khuyến khích các công ty Anh tăng cường sử dụng cơ hội xuất khẩu để thắng các thương vụ mới từ ngành công nghiệp dầu khí đang phát triển ở Đông Phi, bao gồm: Tanzania, Mozambique, Kenya và Uganda. UKTI cho biết ở các nước này nhiều bồn trũng dầu khí chưa được thăm dò, nhiều trữ lượng chưa được phát triển hiện nay đã trở thành các đối tượng cho các công ty Anh hoạt động, nhất là các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng. Báo cáo Tổng quan Năng lượng châu Phi (2015) cho biết cần đầu tư thêm 450 tỷ USD cho ngành điện lực giúp nền kinh tế khu vực hạ sa mạc Sahara (SSA) tăng 30% vào năm 2040. Các chương trình cải cách đang bắt đầu triển khai nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, bao gồm cả các nhà đầu tư tư nhân. Theo “kịch bản chính” đến năm 2040, công suất phát điện sẽ tăng gấp 4 lần từ mức rất thấp 90GW như hiện nay, trong đó gần một nửa là của Nam Phi. Báo cáo viết “Việc giảm những rủi ro cho các nhà đầu tư làm cho các đề án (khai thác dầu khí ở SSA) trở nên cạnh tranh hơn so với khai thác ở các nơi khác trên thế giới và điều này đủ sức giúp cho nhiều đề án phát triển, từ đó doanh thu về thuế (của các nước nước trong khu vực) tăng cao sẽ được dùng để đảo ngược hiệu quả đồng vốn trong hạ tầng cơ sở chủ yếu”. Hoạt động mua bán tài sản dầu khí Royal Dutch Shell mua lại BG Group - tập đoàn năng lượng lớn thứ ba của Vương quốc Anh, có địa bàn hoạt động toàn cầu, sở hữu nhiều mỏ dầu khí ở Nam Mỹ và Australia. Với giá 47 tỷ Euro (tương đương 69,6 tỷ USD), đây là thương vụ sáp nhập lớn nhất trong ngành dầu khí thế giới trong 10 năm qua và là hệ quả của giá dầu suy giảm liên tục từ cuối năm 2014. Nhờ đó, trữ lượng dầu khí của Royal Dutch Shell tăng thêm 28% và sản lượng tăng 20%, tạo ra lợi nhuận 2,5 tỷ USD/năm. Ngay sau khi thông báo này được đưa ra, cổ phiếu của BG Group tại thị trường London tăng 38%. Tập đoàn mới sẽ có giá trị tài sản cao gấp đôi BP, lớn hơn cả Chevron. Với việc bổ sung đội ngũ kỹ thuật cao từ BG Group, Royal Dutch Shell hy vọng sẽ trở thành một tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực LNG. Torc Oil & Gas Ltd., mua lại tài sản Saskatchevan từ Surge Inc., với giá 430 triệu CAD. Tài sản mua gồm một mỏ có sản lượng 4.759 thùng dầu quy đổi/ngày, trong đó 98% là dầu nhẹ và condensate với mức suy giảm sản lượng 20%/năm. Tổng các cấp trữ lượng xác minh - thương mại đạt khoảng 21 triệu thùng dầu quy đổi. Surge Inc., phải bán bớt tài sản để trả nợ và dồn tiền đầu tư vào 2 plays ở Saskatchevan và ở Tây Bắc Alberta (Canada). Noble Energy Inc., mua 75% quyền lợi và nắm quyền điều hành Lô PL001 ở bồn trũng Falkland từ Argos Resources Ltd. Edison International S.p.A mua 25% còn lại. Lô PL001 có diện tích 285.000 mẫu Anh, nằm ở phía Tây Bắc Lô Pl032, trong đó có phát hiện Sea Lion. Noble Energy Inc., và Edison International S.p.A phải trả 5% thuế tài nguyên cho Argos Resources Ltd toàn bộ diện tích phát triển hydrocarbon của lô tô nhượng. Mục tiêu ban đầu của phần lô thuộc Noble Energy Inc., là bẫy địa tầng thuộc cấu tạo triển vọng Rhea tuổi Cretaceous với trữ lượng khai thác 250 triệu thùng dầu. Công tác khoan sẽ được bắt đầu vào Quý III/2015, mực nước sâu 1.550ft và chiều sâu giếng khoan sẽ là 8.760ft. Cấu tạo triển vọng Humpback của Noble nằm ở trũng South Falkland có thể được khoan trong tháng 5 gồm nhiều lớp chứa quạt cát hỗn hợp nối tiếp nhau trong phụ bể Fitzroy, trữ lượng không rủi ro ước đạt 250 triệu thùng dầu và tổng trữ lượng toàn phụ bể khoảng 1 tỷ thùng. Giếng Humpback có mực nước 4.170ft và độ sâu giếng 17.550ft. Noble Energy Inc., có 35% quyền lợi ở phụ bể này. MOL Group (Hungary) sẽ khoan 3 giếng thăm dò ở thềm lục địa Na Uy trong giai đoạn 2015 - 2016 theo một thỏa thuận mua Ithaca Petroleum Norge (IPN) từ Ithaca Petroleum Ltd., với giá ban đầu là 60 triệu USD. Ithaca Petroleum Norge có 14 lô tô nhượng ở thềm lục địa Na Uy và đang hoạt động trên 3 lô. Tiền hoa hồng lên đến 30 triệu USD, trả khi thăm dò có kết quả. MOL Group có kế hoạch sẽ sáp nhập với Ithaca Petroleum Norge và trở thành MOL NordsjonBV. Hà Phong (tổng hợp) PETROVIETNAM 83DẦU KHÍ - SỐ 5/2015 Tạ Quang Minh (giới thiệu) Dung dịch khoan có chức năng bôi trơn, làm mát nhằm giảm ma sát của bộ khoan cụ khoan, giảm mô men quay. Trong quá trình khoan, pha rắn phân tán trong dung dịch khoan va chạm với các thiết bị trong lòng giếng và với bộ dụng cụ khoan sẽ làm nhiệt độ tăng lên đáng kể. Trong điều kiện nhiệt độ cao kéo dài sẽ làm mỏi cấu trúc kim loại, dẫn đến phá hỏng các chi tiết khoan như thủng và gãy cần khoan. Nhằm giảm các sự cố và nâng cao tuổi thọ của bộ dụng cụ khoan, dung dịch phải được nâng cao tính năng bôi trơn bằng cách bổ sung phụ gia bôi trơn. Ngoài chức năng bôi trơn, phụ gia bôi trơn còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm kẹt mút cần ống, thường hay gặp nhất là kẹt cần do chênh áp vi sai. Ước tính, Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” sử dụng hàng nghìn tấn chất bôi trơn cho hệ dung dịch gốc nước FCL/AKK. Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ (CTAT) - Viện Dầu khí Việt Nam đã nghiên cứu chất bôi trơn VPI-Lub từ năm 2006. Nghiên cứu này chia thành 3 giai đoạn: (1) Nghiên cứu tổng hợp và đề xuất công nghệ sản xuất chất bôi trơn mới từ dầu thực vật cho dung dịch khoan dầu khí; (2) Nghiên cứu sản xuất thử nghiệm chất bôi trơn từ dầu thực vật cho dung dịch khoan dầu khí; (3) Dự án Nghiên cứu sản xuất, thử nghiệm chất bôi trơn từ dầu thực vật cho dung dịch khoan dầu khí ở quy mô lớn. Trong giai đoạn 3, nhóm tác giả đã kế thừa và phát triển công nghệ từ các kết quả nghiên cứu của trước đó để triển khai dự án sản xuất chất bôi trơn VPI-Lub trên dây chuyền công nghiệp đạt chất lượng nhằm mục tiêu xây dựng hoàn thiện quy trình công nghệ ở quy mô công nghiệp. Với dự án sản xuất thử, nhóm tác giả đã sản xuất 50 tấn chất bôi trơn VPI-Lub cho dung dịch khoan từ dầu thực vật ở quy mô công nghiệp, đánh giá chất lượng chất bôi trơn trong phòng thí nghiệm theo các chỉ tiêu kỹ thuật của các bộ tiêu chuẩn RD-SP 61-09 và RD-SP 61- 11 của Vietsovpetro, thực hiện thử nghiệm chất bôi trơn VPI-Lub ở điều kiện hiện trường. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả đã tổng kết rút kinh nghiệm nhằm tăng quy mô công nghệ trong sản xuất lớn, xây dựng công thức thành phần hoàn chỉnh của chất bôi trơn VPI-Lub đáp ứng yêu cầu chất lượng cả trong thực tế sử dụng và đánh giá hiệu quả kinh tế kỹ thuật của dự án sản xuất, thử nghiệm, từ đó đề xuất hoàn thiện quy trình công nghệ, tính toán thiết kế hệ thống thiết bị phản ứng sản xuất chất bôi trơn. Kết quả quan trọng trên cơ sở đề xuất hoàn thiện quy trình công nghệ để sản xuất và công thức thành phần của chất bôi trơn VPI-Lub. Công nghệ sản xuất chất bôi trơn VPI-Lub hoàn thiện có công suất thiết kế là 1 - 2 tấn/mẻ và 2 mẻ/ngày, được hoàn thiện bằng bổ sung giai đoạn xử lý nguồn nguyên liệu dầu thực vật đầu vào nhằm giảm chỉ số acid của dầu xuống dưới 7mgKOH/g (FFA < 2%), đồng thời bổ sung các phụ gia cải thiện tính năng tăng độ bền màng bôi trơn, chống oxy hóa, tăng phân tán và bền nhiệt. Quy trình công nghệ được cải tiến so với giai đoạn nghiên cứu trước đây, cho phép sử dụng mở rộng nguồn nguyên liệu khác, góp phần giảm giá thành sản phẩm, cũng như mở rộng phạm vi sản xuất. Theo kết quả nghiên cứu trên mẫu dung dịch lấy từ giàn Tam Đảo-01 và giàn MSP-7, chất lượng và hiệu quả bôi trơn của VPI-Lub tương đương Viet Lub - chất bôi trơn thương phẩm đang sử dụng tại Vietsovpetro, giúp giảm moment, cải thiện độ nhớt phễu và gel. Căn cứ vào hệ thống phân loại độ độc cấp tích pha nước của OCNS, chất bôi trơn VPI-Lub được xếp vào nhóm E (tốt nhất) - nhóm chất ít gây độc cấp tính nhất cho sinh vật biển trong tầng nước. Do giá thành nguyên liệu dầu hạt cao su cao (khoảng 28.000 đồng/kg) nên chi phí sản xuất chất bôi trơn vẫn đang ở mức cao khoảng 70.000 đồng/kg. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả kiến nghị tiếp tục nghiên cứu mở rộng ứng dụng chất bôi trơn cho hệ dung dịch pha rắn thấp đang được sử dụng và có xu hướng tăng lên ở Vietsovpetro. Báo cáo tổng kết gồm 4 chương với các nội dung liên quan đến tổng quan về đặc điểm, tính chất của hệ dung dịch khoan FCL/AKK, thành phần cơ bản và cơ chế hoạt động của chất bôi trơn, kết quả sản xuất thử 50 tấn sản phẩm, quá trình đánh giá chất lượng sản phẩm, hiệu chỉnh chất lượng và thử nghiệm hiện trường sản phẩm, đánh giá hiệu quả kinh tế đầu tư sản xuất thử chất bôi trơn, tính toán thiết kế thiết bị phản ứng sản xuất chính và các kết luận, kiến nghị về các nghiên cứu bổ sung cần thực hiện để có thể thương mại hóa sản phẩm trong tương lai. Nghiên cứu sản xuất, thử nghiệm chất bôi trơn từ dầu thực vật cho dung dịch khoan ở quy mô lớn CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC PHỔ BIẾN SÁNG KIẾN 84 DẦU KHÍ - SỐ 3/2015 Lê Thị Phượng (giới thiệu) Theo quy trình công nghệ thi công các giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, sau khi khoan đến chiều sâu thiết kế, các loại ống chống có đường kính khác nhau (508mm, 340mm, 245mm, 194mm...) sẽ lần lượt được thả xuống giếng, bơm trám xi măng và tiến hành lắp ráp thiết bị miệng giếng lên trên đầu mỗi ống chống. Để lắp được thiết bị miệng giếng, ngay sau khi bơm trám cần nhanh chóng tháo mặt bích nối hệ thống thiết bị đối áp khỏi miệng giếng, dùng tời nâng cột đối áp lên, làm sạch vị trí lắp đầu treo ống chống, căn chỉnh đồng tâm cột ống chống và tiến hành lắp đầu treo để treo cột ống chống vào miệng giếng, sau đó làm kín vành xuyến giữa hai cột ống chống. Sau khi chống, ống giữa hai cột ống chống thường bị lệch với độ lệch và hướng lệch khác nhau tùy điều kiện của từng giếng. Do đó, việc lắp đầu treo ống đòi hỏi phải căn chỉnh chính xác độ đồng tâm giữa hai cột ống chống này. Trước đây, để chỉnh cho hai cột ống chống đồng tâm phải dùng 1 pa lăng xích để kéo ống trong, một pa lăng khác giữ cố định miệng giếng. Việc sử dụng các pa lăng để định tâm gặp rất nhiều khó khăn do không phải lúc nào cũng tìm được điểm cố định để treo pa lăng trùng với hướng cần kéo, nhất là trên các giàn tự nâng, quanh vị trí lắp đầu giếng là một sàn treo di động trên cáp. Hơn nữa, việc dùng pa lăng sẽ mất nhiều thời gian, thao tác khó khăn và các sợi cáp, xích sẽ làm vướng vào vị trí làm việc, gây mất an toàn. Do không chỉnh chính xác được độ đồng tâm, nhiều giếng trước đây phải lắp đầu treo ôm vào cột ống chống, sau đó vừa kéo dạo cột ống vừa dùng cây sắt đóng đầu treo xuống (trong khi cột đối áp vẫn đang treo). Công việc này vừa nặng nhọc, nguy hiểm lại có thể gây móp méo phần trên đầu treo, có trường hợp không đóng được đầu treo xuống đến vị trí cần thiết lại phải tìm cách để kéo lên xử lý lại, mất rất nhiều thời gian và công sức. Trên thực tế, một số giếng khoan sau khi bơm trám, xi măng lên đến miệng đông kết rất nhanh, không kịp chỉnh đồng tâm dẫn đến độ lệch cột ống chống không cho phép lắp đầu treo phải mất thời gian công sức đào, xối rửa xi măng xuống cách miệng giếng từ 5 - 7m. Khe hở vành xuyến giữa các ống nhỏ nên quá trình thao tác rất khó khăn. Có nhiều giếng không chỉnh được đồng tâm đã phải mất 2 - 3 ngày khắc phục bằng cách cắt ống chống phía ngoài, sau đó hàn lại cho đồng tâm mới lắp được miệng giếng (như một số giếng trên MSP-11, giếng số 119 - RP-1...). Việc khắc phục này không treo được tải cột ống lên đầu treo và một số loại còn không nén được gioăng làm kín trong đầu treo, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Để chỉnh được đồng tâm giữa hai cột ống nhanh chóng, dễ dàng lắp đầu treo ống đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo treo được tải của cột ống chống lên đầu treo, nén được gioăng làm kín của đầu treo để làm kín miệng giếng, tác giả Nguyễn An Bình và các cộng sự (Xí nghiệp Khoan và Sửa giếng - Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”) đã nghiên cứu giải pháp “Chế tạo đồ gá định tâm hỗ trợ công việc lắp ráp đầu treo ống chống và làm kín cho giếng khoan”.. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã chế tạo một bộ đồ gá định tâm lắp ngay lên miệng giếng. Sau khi nhấc cột đối áp lên, xác định được vị trí lệch, lắp đồ gá vào vị trí 2 ống sát nhau nhất (dùng ngay bu lông miệng giếng để kẹp đồ gá). Việc định tâm được thực hiện bằng cách vặn bu lông để ép đẩy cột ống này so với cột ống kia cho đến khi chúng trùng tâm nhau, khi xi măng còn ướt việc đẩy này khá dễ dàng, phần xi măng chỗ lệch nhiều sẽ bị ép bù sang chỗ lệch ít. Sau khi chỉnh được đồng tâm có thể lắp ngay đầu treo ống vào đầu giếng và hạ tải để treo cột ống lên đầu treo. Để bu lông đẩy ống không bị trượt, không làm móp ống, một miếng ốp được đặt giữa bu lông và thành ống, bề mặt tiếp xúc với bu lông được phay phẳng. Thời gian mỗi lần lắp đầu treo chỉ cần khoảng 15 - 20 phút, thao tác dễ dàng, đơn giản tốn ít công sức và an toàn. Để thi công một giếng khoan cần 2 - 3 lần lắp thiết bị miệng giếng, thời gian tiết kiệm trung bình là 6 giờ/giếng. Với số lượng giếng khoan trung bình 14 giếng/ năm, sáng kiến trên sẽ giúp Vietsovpetro tiết kiệm được trên 400 nghìn USD/năm. Giải pháp trên được công nhận là sáng kiến cấp Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, có thể áp dụng để thi công các giếng khoan thăm dò và khai thác. Chế tạo đồ gá định tâm hỗ trợ công việc lắp ráp đầu treo ống chống và làm kín cho giếng khoan
File đính kèm:
- tap_chi_dau_khi_so_5_nam_2015.pdf