Tăng tỷ lệ thành công các cuộc gọi chuyển giao trong các hệ thống thông tin di động không dự trữ kênh bằng kỹ thuật chuyển tiếp kênh
Trong bài viết này, chúng tôi phân tích mô hình mạng sử dụng các trạm chuyển tiếp để chuyển các kênh còn dư ở các cell lạnh sang các cell nóng nhằm cải thiện chỉ số cấp độ dịch vụ GoS của mạng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Tăng tỷ lệ thành công các cuộc gọi chuyển giao trong các hệ thống thông tin di động không dự trữ kênh bằng kỹ thuật chuyển tiếp kênh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng tỷ lệ thành công các cuộc gọi chuyển giao trong các hệ thống thông tin di động không dự trữ kênh bằng kỹ thuật chuyển tiếp kênh
Ngô Thế Anh, Hoàng Đăng Hải, Nguyễn Cảnh Minh Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Số 2 (CS.01) 2016 27 TĂNG TỶ LỆ THÀNH CÔNG CÁC CUỘC GỌI CHUYỂN GIAO TRONG CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG kHÔNG DỰ TRỮ kêNH BẰNG kỸ THUẬT CHUYỂN TIẾP kêNH Ngô Thế Anh1, Hoàng Đăng Hải2, Nguyễn Cảnh Minh1 1 Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội 2 Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Tóm tắt: Trong bài viết này, chúng tôi phân tích mô hình mạng sử dụng các trạm chuyển tiếp để chuyển các kênh còn dư ở các cell lạnh sang các cell nóng nhằm cải thiện chỉ số cấp độ dịch vụ GoS của mạng. Chúng tôi đã mở rộng nghiên cứu trong trường hợp mạng nghẽn cục bộ với mức độ rất cao, khi mà tất cả các kênh được cấp cho các cell trong một khu vực nhất định luôn bị chiếm cho các cuộc gọi mới nên không có bất kỳ một kênh nào được dự trữ để cho chuyển giao. Khi sử dụng kỹ thuật chuyển tiếp kênh CRS, tỷ lệ chuyển giao thành công trong khu vực nghẽn này được cải thiện rất nhiều. Các kết quả mô phỏng chỉ ra rằng hệ thống có thể phục vụ được hơn 99% các yêu cầu chuyển giao.1 Từ khóa: chuyển tiếp kênh, chuyển giao, dự trữ kênh. I. MỞ ĐẦU Nhìn vào tốc độ phát triển của các loại hình truyền thông vô tuyến trong những năm gần đây, có thể nói rằng các hệ thống thông tin vô tuyến đã khẳng định được ưu thế vượt trội của mình so với thông tin hữu tuyến trong việc cung cấp các dịch vụ tới người sử dụng. Người ta ngày càng ít lệ thuộc vào các thiết bị kết nối có dây, mà gần như chuyển hẳn sang loại hình kết nối không dây. Nếu bỏ qua việc phải sử dụng đến các dây dẫn cho việc cung cấp điện thì ngay cả các tivi cũng đã hoàn toàn có thể sử dụng kết nối không dây cho các dịch vụ truyền hình tại các gia đình. Tác giả liên hệ: Ngô Thế Anh Email: ntanh@utc.edu.vn Đến tòa soạn: 23/7/2016, chỉnh sửa: 30/8/2016, chấp nhận đăng: 03/9/2016. Trong các loại hình truyền thông vô tuyến, thông tin di động được phát triển mạnh mẽ hơn hẳn. Các hệ thống thông tin di động ra đời và phát triển nhằm phục vụ nhu cầu trao đổi thông tin mọi lúc, mọi nơi của người sử dụng. Đặc trưng cơ bản nhất của thông tin di động là việc bảo đảm kết nối cho các cuộc gọi của người dùng trong khi di chuyển. Do khả năng phủ sóng của các trạm thu phát bị giới hạn nên việc thuê bao chuyển từ vùng phục vụ của trạm này sang vùng phục vụ của trạm khác khi đang thực hiện cuộc gọi là hoàn toàn bình thường. Quá trình này được gọi là chuyển giao và là hoạt động điển hình của hệ thống. Trong thông tin di động, việc cấp kênh cho các cuộc gọi chuyển giao được ưu tiên hơn so với cuộc gọi mới, vì người dùng sẵn lòng quay số lại cho một cuộc gọi mới phát sinh và thường cảm thấy rất khó chịu với việc ngắt ngang một cuộc gọi đang diễn ra cho dù với bất kỳ lý do nào [1]. Theo báo cáo tổng kết năm 2015 của Hiệp hội Hệ thống di động toàn cầu GSMA (Global System for Mobile Communications Association), số thuê bao di động thuần túy tính đến hết năm 2015 là khoảng trên 3,8 tỉ và chiếm khoảng hơn 50% dân số thế giới và tổng số kết nối di động trên toàn cầu (không tính đến các kết nối M2M (Machine-to-Machine)) đã vượt con số 7,5 tỉ [2]. Cũng theo [2], dự báo đến năm 2020, số lượng thuê bao là vào khoảng 4,6 tỉ - chiếm gần 60% dân số thế giới và số lượng kết nối di động toàn cầu là khoảng hơn 9 tỉ. So với các con số khiêm tốn về băng tần được cung cấp cho các hệ thống của GSMA (2×25 MHz/2×75 MHz cho 2G GSM, khoảng 2 × 80 MHz cho 3G UMTS và cũng TĂNG TỶ LỆ THÀNH CÔNG CÁC CUỘC GỌI CHUYỂN GIAO TRONG CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG... Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG28 Số 2 (CS.01) 2016 khoảng 2×80 MHz cho 4G LTE), các nhà cung cấp dịch vụ di động luôn đứng trước các thách thức rất lớn về sự khan hiếm tài nguyên tần số để bảo đảm cho các hoạt động của các hệ thống [2]. Nói một cách khác, bài toán về việc khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên tần số trong các hệ thống thông tin di động luôn được đặt ra cho các nhà nghiên cứu. Không những phải đối mặt với việc khan hiếm tài nguyên tần số, trong quá trình hệ thống hoạt động, các nhà cung cấp dịch vụ di động còn phải xử lý một bài toán điển hình khác là hiện tượng nghẽn cục bộ gây ra bởi việc thuê bao tập trung quá lớn ở một khu vực nhất định trong một khoảng thời gian nhất định như tại các khu vui chơi, mua sắm vào dịp lễ hội hay tại các khu công nghiệp, văn phòng, trường học trong thời gian làm việc. Lúc này, các cell trong khu vực nghẽn nhận được số yêu cầu cấp kênh lớn hơn rất nhiều so với số kênh mà các cell đó được cấp. Các cell này được gọi là các cell nóng. Trong khi đó, các cell ở các khu vực lân cận lại còn dư kênh vì có số lượng thuê bao tập trung với các yêu cầu cấp kênh thấp. Các cell này được gọi là các cell lạnh. Điều này dẫn đến việc mạng bị mất cân bằng lưu lượng và các cuộc gọi trong các cell nóng có xác suất thất bại rất cao, làm cho cấp độ dịch vụ GoS (Grade of Service) của các cell này bị ảnh hưởng rất lớn. Chuyển tiếp kênh là giải pháp hoàn toàn hiệu quả trong trường hợp này để cải thiện GoS [3-6]. Có hai quan điểm cơ bản để thực hiện chuyển tiếp kênh, nhưng đều cùng một mục đích cải thiện hiệu năng mạng, đó là quan điểm ở lớp vật lý và quan điểm ở lớp mạng. Các nghiên cứu về chuyển tiếp kênh trên quan điểm của lớp vật lý tập trung vào các bài toán xử lý tín hiệu và mã hóa để nhận được chất lượng đường truyền tốt nhất, mức tiêu thụ công suất hiệu quả nhất, hay chỉ số lỗi thu thấp nhất [7-12]. Điều dễ dàng nhận thấy ở các nghiên cứu này là các tác giả không quan tâm tới trạng thái của mạng và cell (mạng nghẽn hay không, cell nóng hay lạnh), mà chỉ quan tâm tới việc sử dụng các node chuyển tiếp thông thường (relaying node) để chuyển tiếp thông tin từ node nguồn tới node đích. Như vậy, mạng được mặc định là luôn có khả năng đáp ứng cho các yêu cầu gọi của các thuê bao. Nói một c ... ênh vô tuyến của cell B và đứng trong vùng phủ sóng của RS1 để thực hiện CRS. Cuộc gọi của By sẽ được tiếp tục trên 1 kênh vô tuyến của cell A theo đường kết nối BTS A à RS1 à By và kênh vô tuyến của cell B mà By đang chiếm sẽ được giải phóng để phục vụ A1. Việc hoán đổi kênh thực sự phát huy hiệu quả khi mà cả 2 cell A và B đều là các cell nóng. Giả sử điều này xảy ra đối với mô hình mạng như trong Hình 1. Lúc này, cuộc gọi chuyển giao của A2 sẽ được duy trì như sau. Thông thường, khi A2 chuyển giao từ cell A sang cell B thì kênh vô tuyến bị chiếm bởi A2 sẽ được giải phóng và trả lại cho cell A. Cell A sẽ dùng chính kênh này để chuyển tiếp cho thuê bao By bên cell B, đổi lại, cell B sẽ dùng kênh vô tuyến vừa được By giải phóng để phục vụ cho thuê bao A2. Đây là đặc điểm nổi bật của HCRS-CS để nâng cao tỷ lệ chuyển giao thành công trong điều kiện mạng bị nghẽn. III. MÔ HÌNH HỆ THỐNG Xét mô hình mạng gồm 7 cell như trong Hình 2. Giả sử rằng mạng phải làm việc dưới áp lực của mật độ thuê bao tập trung cao làm cho tất cả các cell trong mạng đều nóng và lưu lượng cuộc gọi mới trong mạng lớn đến mức duy trì trạng thái nóng của mạng trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Trong khoảng thời gian này, tất cả các kênh được cấp cho các cell đều bị chiếm để phục vụ cho các yêu cầu gọi mới xuất phát từ chính các cell đó và nếu bất kỳ một kênh nào được giải phóng ra mà không phải đang trong điều kiện thực hiện hoán đổi kênh cho HCRS thì sẽ bị chiếm ngay cho các cuộc gọi mới. Điều này để bảo đảm rằng các cell không còn một kênh nào thực sự rảnh để phục vụ cuộc gọi chuyển giao đến chúng mà không cần phải sử dụng HCRS-CS. Hình 2. Mô hình mạng sử dụng HCRS Ngô Thế Anh, Hoàng Đăng Hải, Nguyễn Cảnh Minh Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Số 2 (CS.01) 2016 31 Giả sử rằng lúc này có một thuê bao C 1,j đang thực hiện cuộc gọi chuyển giao từ cell C1 sang cell C4. Nhắc lại rằng C 1,j sẽ di chuyển ra ngoài vùng phủ sóng của RS 3 và RS 4 để không thể thực hiện được việc duy trì kênh mà cell C1 cấp cho nó thông qua các trạm chuyển tiếp này. Đồng thời, khi không thể tiếp tục kết nối với cell C1 thì C1,j sẽ giải phóng kênh mà nó đang chiếm và tạm thời trả về cho cell C1 và coi như C1 đang có 1 kênh để thực hiện việc hoán đổi. Các khả năng mà HCRS kết hợp hoán đổi kênh sẽ được sử dụng để phục vụ cuộc gọi của C 1,j được tính toán như trong các trường hợp (TH) sau [6]: • TH1: có một thuê bao C 4,j của cell C 4 đang thực hiện cuộc gọi và đứng trong vùng phủ sóng của RS 3 hoặc RS 4 . Lúc này, các kết nối sẽ là: C1 à RS 3 /RS 4 à C 4,j và C 4 à C 1,j . • TH2: C 4,j không đứng trong vùng phủ sóng của RS 3 và RS 4 , nhưng có một thuê bao của cell C 2 (hoặc cell C 3 ) đứng trong vùng phủ sóng của RS1 hoặc RS4 (hoặc RS2 và RS3). Việc hoán đổi kênh sẽ được thực hiện vòng qua các cell C 2 (hoặc C 3 ) để tới cell C 4 nếu C 4,j đứng trong vùng phủ sóng của RS 5 (hoặc RS 8 ) tương ứng. • TH3: C 4,j không đứng trong vùng phủ sóng của RS 3 , RS 4 , RS 5 và RS 8 , nhưng có một thuê bao của cell C 2 (hoặc cell C 3 ) đứng trong vùng phủ sóng của RS1 hoặc RS 4 (hoặc RS 2 và RS 3 ) và một thuê bao của cell C 5 (hoặc C 6 ) và C 7 đứng trong vùng phủ sóng của RS 5 hoặc RS 6 (hoặc RS 7 hoặc RS 8 ) và RS 9 hoặc RS 10 . Việc hoán đổi kênh sẽ được thực hiện vòng qua các cell C 2 (hoặc C 3 ) và C 5 (hoặc C 6 ) và C 7 để tới cell C 4 nếu C 4,j đứng trong vùng phủ sóng của RS 9 (hoặc RS 10 ) tương ứng. Như vậy, cuộc gọi của C 1,j chỉ bị rớt khi xảy ra một trong các khả năng (KN) sau: • KN1: không có một thuê bao nào của cell C 4 đứng trong vùng phủ sóng của các trạm chuyển tiếp nên không thể thực hiện được việc hoán đổi kênh với cell này để C 4 có thể rảnh 1 kênh cho C 1,j . • KN2: cell C1 không thể thực hiện việc hoán đổi kênh với bất kỳ cell nào ở xung quanh nó; tức là không có bất kỳ một thuê bao nào của các cell C 2 , C 3 , hoặc C 4 đứng trong vùng phủ sóng của RS1 hoặc RS4, RS2 hoặc RS3, hoặc RS3 hoặc RS 4 tương ứng. Giả sử các thuê bao được phân bố ngẫu nhiên và đồng nhất trong các cell thì xác suất của các khả năng này là: P(KN1) = (1 ‒ P 1 )Nc (2) P(KN2) = [(1 ‒ P2) Nc]3 (3) Với NC là dung lượng của cell và P1 là xác suất mà 1 thuê bao không đứng trong vùng phủ sóng của bất kỳ một RS nào, P2 là xác suất mà 1 thuê bao không đứng trong vùng phủ sóng của 2 RS nào liên quan và: 2 1 2 1 66 ( ) 13 2 R S cell rS cell P S R π π ⋅ ⋅⋅ = = = (4) 2 1 2 ( ) 1 1 3 6 R S cell S cell P P S ⋅ = = = (5) Vậy, xác suất rớt cuộc gọi của C 1,j là: CC NN dropP 3) 6 11() 2 11()3()2( −+−=+= (6) Từ (6), xác suất chuyển giao thành công được tính toán với các giá trị khác nhau của NC như trong Bảng I. Bảng I. Xác suất chuyển giao thành công NC 10 15 20 25 30 35 40 Pcgtc(%) 99,5 99,9 99,9 99,9 99,9 100 100 Với dung lượng cell NC đủ lớn, có thể thấy rằng Pdrop gần như bằng 0, tức là cuộc gọi được chuyển giao thành công với xác suất gần bằng 1. IV. CÁC KẾT QUẢ TÍNH TOÁN Mô hình mạng sử dụng để tính toán gồm 7 cell như mô tả trong Hình 2 với các giả thiết như trong Phần III ở trên. Các tham số mô phỏng được cho như trong Bảng II. Ở đây, vận tốc di chuyển của thuê bao được tính cho hai trường hợp di chuyển trung bình và di chuyển nhanh với phân bố ngẫu nhiên từ [0 – 15] m/s và [0 – 25] m/s tương ứng. Hơn nữa, khi di TĂNG TỶ LỆ THÀNH CÔNG CÁC CUỘC GỌI CHUYỂN GIAO TRONG CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG... Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG32 Số 2 (CS.01) 2016 chuyển nhanh thì thời gian đàm thoại trung bình là (90, 120 và 150) giây so với giá trị (120, 150 và 180) giây của di chuyển trung bình. Bảng II. Tham số mô phỏng Ký hiệu Giá trị R 1.500 m NC [20:5:40] V [0 – 15] m/s và [0 – 25] m/s t [120:30:180]s và [90:30:150]s Chương trình Matlab được sử dụng để mô phỏng cho các trạng thái của mạng như sau: • Chiếm kênh (OCCUPATION): tất cả các kênh đều bị chiếm ngay khi thiết lập; và ở điều kiện hoạt động bình thường của mạng, các kênh này luôn bận. • Kết thúc cuộc gọi (TERMINATION): là trạng thái thuê bao chủ động kết thúc cuộc gọi trong 1 cell bất kỳ. • Chuyển giao (HANDOVER): là trạng thái xảy ra khi tính toán xác suất thuê bao vượt ra khỏi vùng phủ sóng của một cell với các thông số đã được gán một cách ngẫu nhiên cho các thuê bao như: vị trí ban đầu trong cell, tốc độ di chuyển, hướng di chuyển và thời gian đàm thoại. Trạng thái này của mạng lại được chia thành ba trạng thái con như sau đây. - Chuyển giao thành công (HANDOVER SUCCESS): khi HCRS kết hợp hoán đổi kênh được áp dụng thành công. - Chuyển giao thất bại (DROP): khi không thể tìm được một cơ hội nào cho cuộc gọi chuyển giao của thuê bao. - Kết thúc bắt buộc (DEATH): là trạng thái các thuê bao di chuyển ra khỏi 1 cell đang phục vụ nó và đi ra ngoài khu vực phủ sóng của mạng (vùng chết - death zone). Chương trình được xây dựng trên cơ sở như sau: Set up the simulation parameters. For STATUS := 1 to EVENT (= 10^6). Generate traffic loads in the simulated network. Determine the target time tcross that users will cross the coverage boundary of the current cell. If (min(t) < min(tcross)), then user terminates conversation in his home cell. TERMINATION = TERMINATION + 1. Else HANDOVER is activated. Meanwhile, EVENT = EVENT +1. Do HCRS - CS. End Hình 3. Xác suất chuyển giao thành công khi thuê bao di chuyển trung bình Hình 4. Xác suất chuyển giao thành công khi thuê bao di chuyển nhanh Tỷ lệ chuyển giao thành công là tỷ số của số chuyển giao thành công và tổng số các yêu cầu chuyển giao. Các kết quả về tỷ lệ chuyển giao thành công P cgtc được trình bày trong Hình 3 và Hình 4. Ngô Thế Anh, Hoàng Đăng Hải, Nguyễn Cảnh Minh Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Số 2 (CS.01) 2016 33 Có thể nhận thấy rằng với dung lượng đủ lớn (khi NC = 40 kênh/cell), HCRS kết hợp hoán đổi kênh đã đáp ứng được đến 99.5% các yêu cầu chuyển giao trong điều kiện mạng nghẽn cục bộ rất cao khi mà không có một kênh nào trong các cell được dự trữ cho chuyển giao. Điều này đã chứng tỏ khả năng vượt trội của CRS trong bài toán xử lý nghẽn cho các hệ thống thông tin di động. V. KẾT LUẬN Trong bài báo này, chúng tôi đã phân tích nguyên lý chuyển tiếp kênh CRS, đặc biệt là HCRS áp dụng cho việc bảo đảm kết nối cho các cuộc gọi chuyển giao trong điều kiện xảy ra nghẽn cục bộ ở một hệ thống thông tin di động. Các phân tích đã tính đến xác suất chuyển giao thành công trong một mạng nghẽn rất cao, khi mà không còn một kênh dự trữ nào cho các cuộc gọi chuyển giao. Các kết quả mô phỏng đã khẳng định được các ưu điểm của HCRS trong việc bảo đảm tỷ lệ chuyển giao thành công trong các mạng này. Tuy nhiên, bài báo mới chỉ dừng lại ở việc tính toán cho các cuộc gọi thoại thời gian thực mà chưa tính đến các cuộc gọi số liệu thời gian thực với băng thông và thời gian chiếm kênh lớn hơn nhiều. Ngoài ra, mô hình nghẽn mới chỉ dừng lại ở phạm vi 7 cell. Như vậy, căn cứ vào các kết quả trong bài này, hoàn toàn có thể phát triển theo các hướng mở rộng như đã đề cập. Hơn nữa, vấn đề dự trữ kênh trong thông tin di động cũng cần phải được tính toán và đưa vào bài toán CRS để nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Theodore S.Rappaport, “Wireless Communications: Principles and Practice”, Prentice Hall PTR, Upper Saddle River, New Jersey 07458, 1996. [2] GSMA Intelligent Report, “THE MOBILE ECONOMY 2015”, GSM Association, 2015. [3] H. Wu, et al., “Integrated cellular and ad hoc relaying systems: iCAR,” IEEE Journal on Selected Areas in Communications, vol. 19, pp. 2105-2115, 2001. [4] H. Wu, et al., “Hand-off performance of the Integrated Cellular and Ad Hoc Relaying (iCAR) system,” Wireless Networks, vol. 11, pp. 775-785, 2005. [5] T. A. Ngo, et al., “Releasing Congestion in Next Generation Cellular Networks by using Static Channel Relaying Strategy: Analytical Approach,” in 2005 IEEE 7th Malaysia International Conference on Communication Jointly held with the 13th IEEE International Conference on Networks (MICC-ICON 2005), 2005, pp. 87-92. [6] The-Anh Ngo, “Releasing congestion in cellular networks using relay stations”, master thesis, UniSA, 2012. [7] Vũ Đức Hiệp và Trần Xuân Nam, “Kết hợp mã hóa mạng lớp vật lý và lựa chọn nút chuyển tiếp cho kênh vô tuyến chuyển tiếp hai chiều”, Các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT-TT, Tập V-1, Số 10 (30), trang 14- 22, tháng 12/2013. [8] Ho Van Khuong and Vo Nguyen Quoc Bao, “Symbol Error Rate of Underlay Cognitive Relay Systems over Rayleigh Fading Channel”, IEICE Trans. Communications, vol. E95-B, No. 05, pp. 1873-1877, May 2012. [9] Vo Nguyen Quoc Bao, T. T. Thanh, T. D. Nguyen., and T. D. Vu, “Spectrum Sharing-based Multihop Decode-and-Forward Relay Networks under Interference Constraints: Performance Analysis and Relay Position Optimization”, Journal of Communications and Networks, vol. 15, no. 3, pp. 266-275, Jun. 2013. [10] Eunsung Oh at al., “Dynamic Base Station Switching-on/off Strategies for Green Cellular Networks”, IEEE Trans. on Wireless Comm. Vol.12 Issue.5, pp.2126-2136, May 2013. [11] Zhiguo Ding at al., “Power Allocation Strategies in Energy Harvesting Wireless Cooperative Networks”, IEEE Trans. on Wireless Comm., Vol.13, Issue 2, pp.846-860, Feb.2014. [12 Ehsan Moeen Taghavi and Ghosheh Abed Hodtani, “Extension of the Coverage Region of Mutiple Access Channels by using a Relays”, Journal of Communication Engineering, Vol. 4, No. 1, pp.1-22, June 2015. TĂNG TỶ LỆ THÀNH CÔNG CÁC CUỘC GỌI CHUYỂN GIAO TRONG CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN DI ĐỘNG... Tạp chí KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG34 Số 2 (CS.01) 2016 INCREASING SUCCESSFUL RATE OF HANDOVER IN WIRELESS CELLULAR NETWORKS WITHOUT RESERVED CHANNELS BY CHANNEL RELAYING STRATEGY Abstract: In this paper, we analyse a network model in which using the Relay Station (RS) to relay available channels in cold cell to hot cell for Grade of Service (GoS) improvement. Then, we develop the analyses for the case of heavy congested in the network. In this case, all of channels assigned to cells in a certain area have been occupied to serve the new calls, therefore, there is not any channel reserved for handover call. This leads to the very high rate of call dropping probability in that area. However, the successful rate of handover in this heavy congested area will be improved significantly when Channel Relaying Strategy (CRS) has been applied. The numerical results shown that the network using CRS can satisfy over 99% of handover channel requests. Keyword: Channel Relaying Strategy (CRS), handover, reserved channel. Ngô Thế Anh, nhận học vị Thạc sỹ năm 2012. Hiện công tác tại Phân hiệu Trường Đại học Giao thông Vận tải tại Thành phố Hồ Chí Minh và là nghiên cứu sinh tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Lĩnh vực nghiên cứu: truyền thông vô tuyến (cải thiện hiệu năng các hệ thống thông tin di động), truyền thông bước sóng milimet, truyền thông giữa các thiết bị. Hoàng Đăng Hải, PGS.TSKH., TS. (1999), TSKH. (2003) tại Đại học Tổng hợp Kỹ thuật Ilmenau, CHLB Đức. Hiện công tác tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Lĩnh vực nghiên cứu: chất lượng dịch vụ, giao thức truyền thông, hiệu năng mạng, mạng và hệ thống thông tin, an ninh mạng, viễn thông Nguyễn Cảnh Minh, nhận học vị Tiến sỹ năm 1997. Hiện công tác tại Trường Đại học Giao thông Vận tải. Lĩnh vực nghiên cứu chính: mạng di động thế hệ mới, công nghệ loT
File đính kèm:
- tang_ty_le_thanh_cong_cac_cuoc_goi_chuyen_giao_trong_cac_he.pdf