Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel OLS) để đánh giá tác
động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990- 2016).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 37 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM NGUYỄN THỊ CÀNH Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - canhnt@uel.edu.vn NGUYỄN THANH LIÊM Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - liemnt@uel.edu.vn NGUYỄN THỊ THÙY LIÊN Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - nttlien@vnuhcm.edu.vn (Ngày nhận: 11/01/2018; Ngày nhận lại: 02/02/2018; Ngày duyệt đăng: 26/02/2018) TÓM TẮT Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel OLS) để đánh giá tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990- 2016). Nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng nhất quán về hiệu quả tích cực của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP ngành ở Việt Nam. Kết quả cho thấy đầu tư công không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn làm tăng GDP trong dài hạn. Bằng chứng này rất quan trọng trong việc quyết định có nên duy trì đầu tư từ khu vực chính phủ hay không. Tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả. Bởi vì khi kết hợp đầu tư của doanh nghiệp nhà nước với đầu tư công thành đầu tư của khu vực nhà nước cho thấy ảnh hưởng của đầu tư khu vực nhà nước có tác động làm giảm tác động tích cực của đầu tư nhà nước đối với GDP so với tác động riêng biệt của đầu tư công. Kết quả này gợi ý chính sách cần cơ cấu lại khu vực công nói chung và khu vực doanh nghiệp nhà nước nói riêng tại Việt Nam. Từ khóa: Đầu tư công; Đầu tư khu vực nhà nước; Tăng trưởng kinh tế; Tổng đầu tư tư nhân. The effect of public investment on private investment and economic growth in Vietnam ABSTRACT The study used a co-integration method (Fully Modified OLS and Dynamic Panel OLS) to assess the long-run impact of public investment on private investment and economic growth, using data from 22 economic industries over a 27-year period (1990-2016). We have obtained strongly consistent evidence of the positive effect of private and public investment on industrial GDP in Vietnam. We find that public investment not only helps spur private investment, but also boosts GDP in the long run. This evidence is important in deciding whether to maintain the investment from the public sector. Nonetheless, there is some evidence suggesting that the investment from state- owned enterprise is not as efficient as the public investment in infrastructure. However, the investment from state- owned enterprise combined with public investment tends to decline effects on GDP, thus calling for the further restructuring of the state-owned enterprises in Vietnam. Keywords: Public investment; State sector investment; Economic growth; Total private investment. 1. Giới thiệu Việt Nam qua 30 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế và đã thu được những thành quả đáng khích lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với nhiều nước trong khu vực và ổn định trong nhiều năm. Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, chính sách tài khóa được cải thiện (thu, chi ngân sách được cân đối phù hợp với qui mô nền kinh tế, tỷ lệ bội chi trong giới hạn cho phép) đã tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư và các tổ chức tài trợ quốc tế. 38 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đầu năm 2016 cộng đồng kinh tế các nước ASEAN-AEC bắt đầu hoạt động. Việt Nam đã và đang thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo các cam kết hội nhập. Cắt giảm thuế quan có nghĩa là một phần nguồn thu cho ngân sách theo các dòng thuế quy định sẽ bị giảm, cùng với giá dầu giảm nguồn thu cũng giảm mạnh, trong khi Việt Nam vẫn cần duy trì các khoản chi cho hoạt động của chính phủ, chi cho các sự nghiệp kinh tế, xã hội và chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém. Trong bối cảnh có sức ép cao về ngân sách yêu cầu đặt ra phải tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên, muốn có tăng trưởng phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế để thu hút các nguồn đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài (FDI), cần phải cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh. Muốn cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh, vai trò của nhà nước phải cung cấp dịch vụ hàng hóa công thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cầu cống, cảng, hạ tầng cho các khu công nghiệp, thương mại) và cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện). Như vậy yêu cầu đặt ra vẫn cần phải tăng cường đầu tư công từ nhà nước, và đầu tư công phải đảm bảo tính hiệu quả thông qua thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Hiện các kết quả nghiên cứu về đầu tư công trên thế giới có hai xu hướng đối lập nhau. Xu hướng thứ nhất, nhiều nghiên cứu ở các nước đang phát triển đều có bằng chứng cho rằng đầu tư công có tác động đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Xu hướng thứ hai, có kết quả ngược lại với xu hướng thứ nhất, thể hiện qua kết quả một vài nghiên cứu ở các nước phát triển thì lại cho rằng đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân và không hoặc ít tác động hoặc thậm chí tác động nghịch đến tăng trưởng kinh tế. Trong giới hạn phần nghiên cứu thực nghiệm này, chúng tôi muốn xem xét đầu tư công ở Việt Nam có tạo ra hiệu ứng tích cực hay không, tức đầu tư công có tác động đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế hay không. 2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước Lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa các nguồn đầu vào và sự tăng trưởng trong sản phẩm quốc dân được gọi là hàm sản xuất. Ở giác độ vi mô hàm sản xuất miêu tả mối tương quan giữa tổng số đầu vào cho trước và tổng ... tiêu chuẩn AIC. Các kiểm định IPS, (Im, Pesaran, Smith); LLC (Levin, Lin, Chu); PP (Phillips Perron) và Kiểm định Fisher theo Fisher – Johansen. Ho (Null hypothesis) trong mỗi kiểm định là có nghiệm đơn vị. Khi các biến được tích hợp bậc 1, chúng tôi tiến hành kiểm định theo Pedroni (2001, 1999) để cho kiểm định đồng liên kết bảng, tại đó có thể tiến hành kiểm định cho một số kết hợp của các biến. Trong số bảy trị số thống kê kiểm định, chúng tôi chủ yếu dựa vào thống kê bảng và nhóm ADF để đưa đến kết luận về sự đồng liên kết của các biến. Chúng tôi sử dụng các kiểm định đồng liên kết Fisher để củng cố thêm quyết định cũng như xem liệu có tồn tại bất kỳ đồng liên kết nào giữa các biến hay không. Dựa vào mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các kiểm định đồng liên kết về các mô hình dưới đây, với mô hình 1-2 phân tích mối quan hệ dài hạn giữa các loại hình đầu tư; với mô hình 3 và 4 thể hiện mối quan hệ dài hạn giữa các loại hình đầu tư và GDP ngành: = (1) = (2) = (3) = (4) Các kết quả của các kiểm định đồng liên kết cho các mô hình 1-4 được trình bày trong các Bảng 3 và Bảng 4. Theo Bảng 3 và Bảng 4, gần như tất cả các trị số thống kê theo kiểm định của Pedroni (1999, 2001) đều cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về sự tồn tại đồng liên kết giữa các biến y, peifdi, geigi và gi. Đặc biệt, các trị số thống kê ADF- Bảng và ADF- Nhóm có ý nghĩa ở mức 1% cho tất cả các mô hình, và chỉ có duy nhất trị số thống kê rho theo nhóm cho mô hình 3 có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Bên cạnh thử nghiệm đồng liên kết theo phương pháp Pedroni, chúng tôi sử dụng kiểm định Fisher để xác định chắc chắn bản chất của mối liên hệ giữa các biến. Các kết quả một lần nữa cho thấy rằng các trị số thống kê kiểm định của Fisher cho tất cả các mô hình đã bác bỏ giả thuyết không đồng liên kết của các biến một cách mạnh mẽ. Từ các kết quả này, có thể đi đến kết luận rằng có sự tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong tất cả các mô hình. Nói cách khác, đây là những mối quan hệ dài hạn sẽ được ước lượng trong bước tiếp theo. 46 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 Bảng 3 Kiểm định đồng liên kết cho các mô hình 1-4 theo Pedroni Model Panel v Panel rho Panel PP Panel ADF Group rho Group PP Group ADF 1 4.559794*** -3.660681*** -2.775124*** -2.947321*** -4.729435*** -5.749737*** -6.02814*** 2 11.38107*** -9.208029*** -6.42381*** -5.817672*** -5.434107*** -7.18715*** -4.906681*** 3 4.468027*** -3.511605*** -3.724917*** -2.074787** -1.425112* -3.175936*** -5.102904*** 4 7.532648*** -11.31355*** -8.108176*** -8.677381*** -2.925939*** -3.675493*** -5.09253*** *, **, ***. có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1% . Độ trễ được chọn dựa vào các tiêu chuẩn AIC. Bảng 4 Tóm lược kiểm định đồng liên kết cho các mô hình 1-4 theo Fisher Model Variable Ho: Không có quan hệ đồng tích hợp 1 peifdi gi bác bỏ 2 peifdi geigi bác bỏ 3 y peifdi geigi bác bỏ 4 y gi bác bỏ Ghi chú: Các trị số kiểm định thống kê có ý nghĩa ở mức 5%. Sau khi thiết lập quan hệ đồng liên kết giữa các biến, chúng tôi tiến hành ước lượng mối quan hệ dài hạn dựa trên 4 mô hình để tìm hiểu đầu tư công và đầu tư của khu vực nhà nước (bao gồm đầu tư công và đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN)) ảnh hưởng đến tổng đầu tư tư nhân (bao gồm đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (peifdi)) trong dài hạn. Sau đó, sẽ phân tích mối quan hệ giữa các loại hình đầu tư này với tăng trưởng kinh tế, xem đâu là động lực quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế. Bảng 5 trình bày các kết quả ước lượng về mối quan hệ giữa các loại hình đầu tư. Trong mô hình 1, kết quả ước lượng theo DOLS - Nhóm cho thấy đầu tư công (gi) có ảnh hưởng tích cực đến tổng đầu tư tư nhân (gồm đầu tư tư nhân trong nước và FDI). Trong mô hình 2, cả đầu tư công và đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước được gộp lại để đại diện cho tổng đầu tư từ khu vực nhà nước. Kết quả của mô hình 2 khẳng định vai trò của đầu tư khu vực nhà nước trong việc thúc đẩy tổng đầu tư tư nhân, cũng như các thành phần của nó (đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài). Kết quả từ ước lượng theo DOLS và FMOLS luôn thống nhất với nhau, cho thấy kết quả ước lượng có độ tin cậy cao. Ngoài ra, có một chi tiết đáng chú ý là xét hệ số trong 2 cột DOLS và FMOLS grouped, khi hai loại đầu tư công và đầu tư của DNNN gộp lại (biến geigi) thì tác động có vẻ ít tích cực hơn so với khi chỉ có tác động của đầu tư công (gi). Điều này cung cấp một số bằng chứng cho thấy đầu tư của DNNN có thể không hiệu quả bằng đầu tư công trong việc thu hút hay khuyến khích đầu tư tư nhân (tức chèn lấn đầu tư tư nhân). Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 47 Bảng 5 Kết quả ước lượng theo DOLS và FMOLS của các mô hình 1-2 Mô hình Biến DOLS FMOLS Dep var Regressors Pooled Grouped Pooled Grouped 1 peifdi gi 0.942737*** 11.23833*** 0.897564*** 11.03689*** 2 peifdi geigi 1.144212*** 6.950187*** 1.34981*** 6.797065*** Ghi chú: *, **, *** thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng 10%, 5% và 1% Bảng 6 trình bày kết quả các ước lượng cho mối quan hệ dài hạn giữa các loại hình đầu tư và tăng trưởng GDP. Trong mô hình 3, biến tổng đầu tư tư nhân (PEIFDI) (tổng đầu tư tư nhân bao gồm đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài) và biến tổng đầu tư nhà nước (GEIGI) (tổng đầu tư của khu vực nhà nước bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) được coi là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Kết quả ước lượng cho thấy đầu tư khu vực nhà nước tác động đến tăng trưởng kinh tế không mạnh bằng đầu tư của khu vực tư nhân trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong mô hình 4, chúng tôi cho thấy gi (đầu tư công) có tác động tích cực đến GDP ngành, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của đầu tư công trong cung cấp cơ sở hạ tầng cho đầu tư tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cũng như kết quả của mô hình 3 và 4, có bằng chứng cho thấy đầu tư của DNNN kém hơn đầu tư công, khi đầu tư DNNN gộp vào đầu tư công thì hệ số tác động thấp (3,371367 đối với DOLS grouped), nhưng khi chỉ có riêng đầu tư công thì hệ số tác động rất cao (trên 31). Tóm lại, kết quả trên đã cho bằng chứng nhất quán về hiệu quả tích cực của đầu tư từ cả khu vực tư nhân và khu vực nhà nước đối với GDP ngành ở Việt Nam. Rõ ràng chi tiêu của khu vực nhà nước không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn thúc đẩy GDP trong dài hạn. Bằng chứng này rất quan trọng trong việc quyết định có nên duy trì đầu tư từ khu vực nhà nước hay không. Tuy nhiên, khoản đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có xu hướng thể hiện nhược điểm rõ ràng, vì khi kết hợp đầu tư của DNNN với đầu tư công cho thấy ảnh hưởng của đầu tư nhà nước có tác động làm giảm tác động tích cực đối với GDP. Bảng 6 Kết quả ước lượng các mô hình 3 - 4 theo DOLS và FMOLS Mô hình Biến DOLS FMOLS Biến phụ thuộc Biến giải thích Pooled Grouped Pooled Grouped 3 y PEIFDI 2.535821*** 3.638536*** 2.43086*** 2.414649*** GEIGI 1.331646*** 3.371367*** 2.233894*** 3.712089*** 4 y GI 4.429998*** 31.48279*** 4.74006*** 32.77765*** Ghi chú: *, **, *** thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng 10%, 5% và 1% 48 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 6. Kết luận và hàm ý chính sách cho đầu tư công và đầu tư của khu vực nhà nước nói chung tại Việt Nam Chính phủ Việt Nam không chỉ tham gia cung cấp hàng hóa, dịch vụ công và đầu tư cơ sở hạ tầng để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài FDI, mà còn trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Qua lịch sử phát triển, Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong quá trình này mặc dù khu vực tư nhân đã phát triển qua nhiều năm, khu vực nhà nước vẫn còn chiếm ưu thế. Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel OLS) để đánh giá tác động dài hạn của đầu tư công lên đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990- 2016). Nghiên cứu đã có được bằng chứng nhất quán về hiệu quả tích cực của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP ngành ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, đầu tư công không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn làm tăng GDP trong thời gian dài hạn. Bằng chứng này rất quan trọng trong việc quyết định có nên duy trì đầu tư từ khu vực chính phủ hay không. Tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, vì khi kết hợp đầu tư của DNNN với đầu tư công cho thấy ảnh hưởng của tổng đầu tư nhà nước có tác động làm giảm GDP. Kết quả này gợi ý cần cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tổng đầu tư tư nhân gồm đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài FDI đều đóng một vai trò quan trọng trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Nhìn chung, kết quả của chúng tôi tương đối phù hợp với các nghiên cứu trước đó, như nghiên cứu của Barro (1990) hay nghiên cứu ở Phetsavong và Ichihashi (2012) ở các nước đang phát triển châu Á, nơi mà đầu tư công (đầu tư vào cơ sở hạ tầng) thu hút đầu tư tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ các kết quả nêu trên, dưới đây sẽ đưa ra một số gợi ý và một số khuyến nghị chính sách cụ thể hơn bao gồm: Thứ nhất, rõ ràng là đầu tư công là "vốn mồi" cho đầu tư của khu vực tư nhân - là khu vực động lực tăng trưởng kinh tế. Để làm cho đầu tư công trở nên ổn định và trở thành nhân tố “thúc đẩy”, chính phủ cần có một kế hoạch đầu tư dài hạn mang tính chiến lược để giảm thiểu sự không chắc chắn của đầu tư công (nghĩa là điều chỉnh tăng/giảm sự bất ổn); Thứ hai, đầu tư tư nhân trong nước có vai trò rất lớn trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế, ngoài đầu tư từ nguồn vốn FDI. Do đó, chính sách của Việt Nam cần tạo động lực cho khu vực tư nhân trong nước phát triển chứ không chỉ ưu tiên cho các doanh nghiệp FDI; Thứ ba, vì đầu tư của khu vực nhà nước bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng vai trò của các doanh nghiệp nhà nước cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tác động hiệu quả hơn tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng do có sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, vì vậy nghiên cứu đề xuất cần giảm bớt sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh bằng cách tiếp tục cổ phần hóa DNNN nhằm thu hẹp khu vực này trong nền kinh tế, thoái vốn từ khu vực DNNN cổ phần hóa để tăng cường đầu tư công cho cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế (Nghiên cứu này được tài trợ bởi ngân sách của ĐHQG-HCM với mã số đề tài No B2016-34-01) Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 49 Tài liệu tham khảo Breitung, J. (2000). The local power of some unit root tests for panel data. Advances in Econometrics, 15, 161-178. Bukhari, S. A. H. A. S., Ali, L., & Saddaqat, M. (2007). Public Investment and Economic Growth in the Three Little Dragons: Evidence from Heterogeneous Dynamic Panel Data International. Journal of Business and Information, 57-79. Dreger, C., & Reimers, H. (2016). Does public investment stimulate private investment? Evidence for the euro area. Economic Modelling, 58, 154–158. Gujarati, D. N., & Porter, D. C. (2009). Basic Econometrics, 5th ed., McGraw-Hill. New York, 2009. Haque, S. T. (2013). Effect of Public and Private Investment on Economic Growth in Bangladesh: An econometric Analysis. Research Study Series, 104-126. Im, K. S., Pesaran, M. H., Shin, Y. (2003). Testing for unit roots in heterogeneous panels. Journal of Econometrics, 115, 53-74. Johansen, S. (1988). Statistical analysis of cointegrating vectors. Econometric Reviews, 12, 231–254. Lee, G. (2007). Long run equilibrium relationship between inward FDI and productivity. Journal of Economic Development, 32(2), 183-192. Levin, A., Lin, C. F., Chu, C. S. J. (2002). Unit root tests in panel data: Asymptotic and finite-sample properties. Journal of Econometrics, 108, 1-24. Phetsavong, K. & Ichihashi, M. (2012). The Impact of Public and Private Investment on Economic Growth: Evidence from Developing Asian Countries. IDEC Discussion paper, Hiroshima University. Pedroni, P. (1999). Critical Values for Cointegration Tests in Heterogeneous Panels with Multiple Regressors. Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 61, 653-70. Pedroni, P. (2001). Purchasing Power Parity Tests in Cointegrated Panels. Review of Economics and Statistics, 83, 727-731. Reungsri, T. (2010). The impact of public infrastructure investment on economic growth in Thailand; Doctor of Philosophy Thesis, School of Economics and Finance, Victoria University Australia. Solow, R. (1956). A Contribution to the Theory of Economic Growth. The Quarterly Journal of Economics, 70(1), 65-94. Tô Trung Thành (2011). Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM. Tạp chí Tài chính, 6(560). Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư & Lê Hoàng Phong (2014). Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình ARDL. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 19, 3-10. Vedder, R. K. & Gallaway, L. E. (1998). Government size and economic growth- G-01 Dirksen Building, Washington, DC 20510. Retrieved from Zainah, P. (2009). The Role of Public Investment in Promoting Economic Growth: A case study of Mauritius. SADRN/TIPS project.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_dau_tu_cong_den_thu_hut_dau_tu_tu_nhan_va_tang.pdf