Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel OLS) để đánh giá tác

động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990- 2016).

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang Danh Thịnh 11/01/2024 2680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Tác động của đầu tư công đến thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 37 
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ 
TƯ NHÂN VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM 
NGUYỄN THỊ CÀNH 
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - canhnt@uel.edu.vn 
NGUYỄN THANH LIÊM 
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - liemnt@uel.edu.vn 
NGUYỄN THỊ THÙY LIÊN 
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM - nttlien@vnuhcm.edu.vn 
(Ngày nhận: 11/01/2018; Ngày nhận lại: 02/02/2018; Ngày duyệt đăng: 26/02/2018) 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic Panel OLS) để đánh giá tác 
động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành 
kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm (1990- 2016). Nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng nhất quán về hiệu quả 
tích cực của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP ngành ở Việt Nam. Kết quả cho thấy đầu tư công 
không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn làm tăng GDP trong dài hạn. Bằng chứng này rất quan 
trọng trong việc quyết định có nên duy trì đầu tư từ khu vực chính phủ hay không. Tuy nhiên, có một số bằng chứng 
cho thấy đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả. Bởi vì khi kết hợp đầu tư của doanh nghiệp nhà nước với 
đầu tư công thành đầu tư của khu vực nhà nước cho thấy ảnh hưởng của đầu tư khu vực nhà nước có tác động làm 
giảm tác động tích cực của đầu tư nhà nước đối với GDP so với tác động riêng biệt của đầu tư công. Kết quả này gợi 
ý chính sách cần cơ cấu lại khu vực công nói chung và khu vực doanh nghiệp nhà nước nói riêng tại Việt Nam. 
Từ khóa: Đầu tư công; Đầu tư khu vực nhà nước; Tăng trưởng kinh tế; Tổng đầu tư tư nhân. 
The effect of public investment on private investment and economic growth in Vietnam 
ABSTRACT 
The study used a co-integration method (Fully Modified OLS and Dynamic Panel OLS) to assess the long-run 
impact of public investment on private investment and economic growth, using data from 22 economic industries 
over a 27-year period (1990-2016). We have obtained strongly consistent evidence of the positive effect of private 
and public investment on industrial GDP in Vietnam. We find that public investment not only helps spur private 
investment, but also boosts GDP in the long run. This evidence is important in deciding whether to maintain the 
investment from the public sector. Nonetheless, there is some evidence suggesting that the investment from state-
owned enterprise is not as efficient as the public investment in infrastructure. However, the investment from state-
owned enterprise combined with public investment tends to decline effects on GDP, thus calling for the further 
restructuring of the state-owned enterprises in Vietnam. 
Keywords: Public investment; State sector investment; Economic growth; Total private investment. 
1. Giới thiệu 
Việt Nam qua 30 năm thực hiện chính 
sách đổi mới kinh tế và đã thu được những 
thành quả đáng khích lệ với tốc độ tăng 
trưởng kinh tế cao so với nhiều nước trong 
khu vực và ổn định trong nhiều năm. Nền 
kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền 
kinh tế thế giới, chính sách tài khóa được cải 
thiện (thu, chi ngân sách được cân đối phù 
hợp với qui mô nền kinh tế, tỷ lệ bội chi trong 
giới hạn cho phép) đã tạo được niềm tin cho 
các nhà đầu tư và các tổ chức tài trợ quốc tế. 
38 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 
Tuy nhiên, từ đầu năm 2007 Việt Nam đã trở 
thành thành viên chính thức của tổ chức 
thương mại thế giới (WTO), đầu năm 2016 
cộng đồng kinh tế các nước ASEAN-AEC bắt 
đầu hoạt động. Việt Nam đã và đang thực hiện 
lộ trình cắt giảm thuế quan theo các cam kết 
hội nhập. Cắt giảm thuế quan có nghĩa là một 
phần nguồn thu cho ngân sách theo các dòng 
thuế quy định sẽ bị giảm, cùng với giá dầu 
giảm nguồn thu cũng giảm mạnh, trong khi 
Việt Nam vẫn cần duy trì các khoản chi cho 
hoạt động của chính phủ, chi cho các sự 
nghiệp kinh tế, xã hội và chi đầu tư phát triển 
cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém. Trong bối 
cảnh có sức ép cao về ngân sách yêu cầu đặt 
ra phải tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Tuy 
nhiên, muốn có tăng trưởng phát triển kinh tế, 
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế để 
thu hút các nguồn đầu tư tư nhân, đầu tư nước 
ngoài (FDI), cần phải cải thiện môi trường 
đầu tư, môi trường kinh doanh. Muốn cải 
thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh 
doanh, vai trò của nhà nước phải cung cấp 
dịch vụ hàng hóa công thông qua đầu tư vào 
cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cầu cống, 
cảng, hạ tầng cho các khu công nghiệp, 
thương mại) và cơ sở hạ tầng xã hội (trường 
học, bệnh viện). 
Như vậy yêu cầu đặt ra vẫn cần phải tăng 
cường đầu tư công từ nhà nước, và đầu tư 
công phải đảm bảo tính hiệu quả thông qua 
thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. 
Hiện các kết quả nghiên cứu về đầu tư công 
trên thế giới có hai xu hướng đối lập nhau. Xu 
hướng thứ nhất, nhiều nghiên cứu ở các nước 
đang phát triển đều có bằng chứng cho rằng 
đầu tư công có tác động đến đầu tư tư nhân và 
tăng trưởng kinh tế. Xu hướng thứ hai, có kết 
quả ngược lại với xu hướng thứ nhất, thể hiện 
qua kết quả một vài nghiên cứu ở các nước 
phát triển thì lại cho rằng đầu tư công lấn át 
đầu tư tư nhân và không hoặc ít tác động hoặc 
thậm chí tác động nghịch đến tăng trưởng 
kinh tế. Trong giới hạn phần nghiên cứu thực 
nghiệm này, chúng tôi muốn xem xét đầu tư 
công ở Việt Nam có tạo ra hiệu ứng tích cực 
hay không, tức đầu tư công có tác động đến 
thu hút đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế 
hay không. 
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước 
Lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa các 
nguồn đầu vào và sự tăng trưởng trong sản 
phẩm quốc dân được gọi là hàm sản xuất. Ở 
giác độ vi mô hàm sản xuất miêu tả mối tương 
quan giữa tổng số đầu vào cho trước và tổng ... tiêu chuẩn AIC. Các 
kiểm định IPS, (Im, Pesaran, Smith); LLC (Levin, Lin, Chu); PP (Phillips Perron) và Kiểm định Fisher theo Fisher – 
Johansen. Ho (Null hypothesis) trong mỗi kiểm định là có nghiệm đơn vị. 
Khi các biến được tích hợp bậc 1, chúng 
tôi tiến hành kiểm định theo Pedroni (2001, 
1999) để cho kiểm định đồng liên kết bảng, 
tại đó có thể tiến hành kiểm định cho một số 
kết hợp của các biến. Trong số bảy trị số 
thống kê kiểm định, chúng tôi chủ yếu dựa 
vào thống kê bảng và nhóm ADF để đưa đến 
kết luận về sự đồng liên kết của các biến. 
Chúng tôi sử dụng các kiểm định đồng liên 
kết Fisher để củng cố thêm quyết định cũng 
như xem liệu có tồn tại bất kỳ đồng liên kết 
nào giữa các biến hay không. Dựa vào mục 
tiêu nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các kiểm 
định đồng liên kết về các mô hình dưới đây, 
với mô hình 1-2 phân tích mối quan hệ dài 
hạn giữa các loại hình đầu tư; với mô hình 3 
và 4 thể hiện mối quan hệ dài hạn giữa các 
loại hình đầu tư và GDP ngành: 
= (1) 
= (2) 
= (3) 
= (4) 
Các kết quả của các kiểm định đồng liên 
kết cho các mô hình 1-4 được trình bày trong 
các Bảng 3 và Bảng 4. Theo Bảng 3 và Bảng 
4, gần như tất cả các trị số thống kê theo kiểm 
định của Pedroni (1999, 2001) đều cung cấp 
bằng chứng mạnh mẽ về sự tồn tại đồng liên 
kết giữa các biến y, peifdi, geigi và gi. Đặc 
biệt, các trị số thống kê ADF- Bảng và ADF- 
Nhóm có ý nghĩa ở mức 1% cho tất cả các mô 
hình, và chỉ có duy nhất trị số thống kê rho 
theo nhóm cho mô hình 3 có ý nghĩa thống kê 
ở mức 10%. Bên cạnh thử nghiệm đồng liên 
kết theo phương pháp Pedroni, chúng tôi sử 
dụng kiểm định Fisher để xác định chắc chắn 
bản chất của mối liên hệ giữa các biến. Các 
kết quả một lần nữa cho thấy rằng các trị số 
thống kê kiểm định của Fisher cho tất cả các 
mô hình đã bác bỏ giả thuyết không đồng liên 
kết của các biến một cách mạnh mẽ. Từ các 
kết quả này, có thể đi đến kết luận rằng có sự 
tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong tất cả 
các mô hình. Nói cách khác, đây là những mối 
quan hệ dài hạn sẽ được ước lượng trong bước 
tiếp theo. 
46 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 
Bảng 3 
Kiểm định đồng liên kết cho các mô hình 1-4 theo Pedroni 
Model Panel v Panel rho Panel PP Panel ADF Group rho Group PP Group ADF 
1 4.559794*** -3.660681*** -2.775124*** -2.947321*** -4.729435*** -5.749737*** -6.02814*** 
2 11.38107*** -9.208029*** -6.42381*** -5.817672*** -5.434107*** -7.18715*** -4.906681*** 
3 4.468027*** -3.511605*** -3.724917*** -2.074787** -1.425112* -3.175936*** -5.102904*** 
4 7.532648*** -11.31355*** -8.108176*** -8.677381*** -2.925939*** -3.675493*** -5.09253*** 
*, **, ***. có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1% . Độ trễ được chọn dựa vào các tiêu chuẩn AIC. 
Bảng 4 
Tóm lược kiểm định đồng liên kết cho các mô hình 1-4 theo Fisher 
Model Variable Ho: Không có quan hệ đồng tích hợp 
1 peifdi gi bác bỏ 
2 peifdi geigi bác bỏ 
3 y peifdi geigi bác bỏ 
4 y gi bác bỏ 
Ghi chú: Các trị số kiểm định thống kê có ý nghĩa ở mức 5%. 
Sau khi thiết lập quan hệ đồng liên kết 
giữa các biến, chúng tôi tiến hành ước lượng 
mối quan hệ dài hạn dựa trên 4 mô hình để 
tìm hiểu đầu tư công và đầu tư của khu vực 
nhà nước (bao gồm đầu tư công và đầu tư từ 
các doanh nghiệp nhà nước (DNNN)) ảnh 
hưởng đến tổng đầu tư tư nhân (bao gồm đầu 
tư tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (peifdi)) trong dài hạn. Sau đó, sẽ phân 
tích mối quan hệ giữa các loại hình đầu tư này 
với tăng trưởng kinh tế, xem đâu là động lực 
quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế. 
Bảng 5 trình bày các kết quả ước lượng 
về mối quan hệ giữa các loại hình đầu tư. 
Trong mô hình 1, kết quả ước lượng theo 
DOLS - Nhóm cho thấy đầu tư công (gi) có 
ảnh hưởng tích cực đến tổng đầu tư tư nhân 
(gồm đầu tư tư nhân trong nước và FDI). 
Trong mô hình 2, cả đầu tư công và đầu tư từ 
các doanh nghiệp nhà nước được gộp lại để 
đại diện cho tổng đầu tư từ khu vực nhà nước. 
Kết quả của mô hình 2 khẳng định vai trò của 
đầu tư khu vực nhà nước trong việc thúc đẩy 
tổng đầu tư tư nhân, cũng như các thành phần 
của nó (đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư 
trực tiếp nước ngoài). Kết quả từ ước lượng 
theo DOLS và FMOLS luôn thống nhất với 
nhau, cho thấy kết quả ước lượng có độ tin 
cậy cao. Ngoài ra, có một chi tiết đáng chú ý 
là xét hệ số trong 2 cột DOLS và FMOLS 
grouped, khi hai loại đầu tư công và đầu tư 
của DNNN gộp lại (biến geigi) thì tác động có 
vẻ ít tích cực hơn so với khi chỉ có tác động 
của đầu tư công (gi). Điều này cung cấp một 
số bằng chứng cho thấy đầu tư của DNNN có 
thể không hiệu quả bằng đầu tư công trong 
việc thu hút hay khuyến khích đầu tư tư nhân 
(tức chèn lấn đầu tư tư nhân). 
Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 47 
Bảng 5 
Kết quả ước lượng theo DOLS và FMOLS của các mô hình 1-2 
Mô hình 
Biến DOLS FMOLS 
Dep var Regressors Pooled Grouped Pooled Grouped 
1 peifdi gi 0.942737*** 11.23833*** 0.897564*** 11.03689*** 
2 peifdi geigi 1.144212*** 6.950187*** 1.34981*** 6.797065*** 
Ghi chú: *, **, *** thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng 10%, 5% và 1% 
Bảng 6 trình bày kết quả các ước lượng 
cho mối quan hệ dài hạn giữa các loại hình 
đầu tư và tăng trưởng GDP. Trong mô hình 3, 
biến tổng đầu tư tư nhân (PEIFDI) (tổng đầu 
tư tư nhân bao gồm đầu tư tư nhân trong nước 
và đầu tư nước ngoài) và biến tổng đầu tư nhà 
nước (GEIGI) (tổng đầu tư của khu vực nhà 
nước bao gồm đầu tư công và đầu tư của các 
doanh nghiệp nhà nước) được coi là động lực 
chính của tăng trưởng kinh tế. Kết quả ước 
lượng cho thấy đầu tư khu vực nhà nước tác 
động đến tăng trưởng kinh tế không mạnh 
bằng đầu tư của khu vực tư nhân trong thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế. 
Trong mô hình 4, chúng tôi cho thấy gi 
(đầu tư công) có tác động tích cực đến GDP 
ngành, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan 
trọng của đầu tư công trong cung cấp cơ sở hạ 
tầng cho đầu tư tư nhân và thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế. Cũng như kết quả của mô hình 
3 và 4, có bằng chứng cho thấy đầu tư của 
DNNN kém hơn đầu tư công, khi đầu tư 
DNNN gộp vào đầu tư công thì hệ số tác động 
thấp (3,371367 đối với DOLS grouped), 
nhưng khi chỉ có riêng đầu tư công thì hệ số 
tác động rất cao (trên 31). 
Tóm lại, kết quả trên đã cho bằng chứng 
nhất quán về hiệu quả tích cực của đầu tư từ 
cả khu vực tư nhân và khu vực nhà nước đối 
với GDP ngành ở Việt Nam. Rõ ràng chi tiêu 
của khu vực nhà nước không chỉ giúp thúc 
đẩy đầu tư của khu vực tư nhân mà còn thúc 
đẩy GDP trong dài hạn. Bằng chứng này rất 
quan trọng trong việc quyết định có nên duy 
trì đầu tư từ khu vực nhà nước hay không. 
Tuy nhiên, khoản đầu tư từ các doanh nghiệp 
nhà nước (DNNN) có xu hướng thể hiện 
nhược điểm rõ ràng, vì khi kết hợp đầu tư của 
DNNN với đầu tư công cho thấy ảnh hưởng 
của đầu tư nhà nước có tác động làm giảm tác 
động tích cực đối với GDP. 
Bảng 6 
Kết quả ước lượng các mô hình 3 - 4 theo DOLS và FMOLS 
Mô hình 
Biến DOLS FMOLS 
Biến phụ 
thuộc Biến giải thích Pooled Grouped Pooled Grouped 
3 y PEIFDI 2.535821*** 3.638536*** 2.43086*** 2.414649*** 
 GEIGI 1.331646*** 3.371367*** 2.233894*** 3.712089*** 
4 y GI 4.429998*** 31.48279*** 4.74006*** 32.77765*** 
Ghi chú: *, **, *** thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng 10%, 5% và 1% 
48 Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 
6. Kết luận và hàm ý chính sách cho 
đầu tư công và đầu tư của khu vực nhà 
nước nói chung tại Việt Nam 
Chính phủ Việt Nam không chỉ tham gia 
cung cấp hàng hóa, dịch vụ công và đầu tư cơ 
sở hạ tầng để tạo môi trường kinh doanh 
thuận lợi nhằm thu hút đầu tư tư nhân và đầu 
tư nước ngoài FDI, mà còn trực tiếp tham gia 
vào hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua 
các doanh nghiệp nhà nước. Qua lịch sử phát 
triển, Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế 
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. 
Trong quá trình này mặc dù khu vực tư nhân 
đã phát triển qua nhiều năm, khu vực nhà 
nước vẫn còn chiếm ưu thế. 
Nghiên cứu áp dụng phương pháp đồng 
liên kết (Fully Modified OLS và Dynamic 
Panel OLS) để đánh giá tác động dài hạn của 
đầu tư công lên đầu tư tư nhân và tăng trưởng 
kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu từ 22 ngành 
kinh tế cấp 1 trong khoảng thời gian 27 năm 
(1990- 2016). Nghiên cứu đã có được bằng 
chứng nhất quán về hiệu quả tích cực của đầu 
tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng GDP 
ngành ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, đầu tư 
công không chỉ giúp thúc đẩy đầu tư của khu 
vực tư nhân mà còn làm tăng GDP trong thời 
gian dài hạn. Bằng chứng này rất quan trọng 
trong việc quyết định có nên duy trì đầu tư từ 
khu vực chính phủ hay không. Tuy nhiên, có 
một số bằng chứng cho thấy đầu tư từ doanh 
nghiệp nhà nước không hiệu quả, vì khi kết 
hợp đầu tư của DNNN với đầu tư công cho 
thấy ảnh hưởng của tổng đầu tư nhà nước có 
tác động làm giảm GDP. Kết quả này gợi ý 
cần cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước ở 
Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tổng 
đầu tư tư nhân gồm đầu tư tư nhân trong nước 
và đầu tư nước ngoài FDI đều đóng một vai 
trò quan trọng trong việc kích thích tăng 
trưởng kinh tế. Nhìn chung, kết quả của chúng 
tôi tương đối phù hợp với các nghiên cứu 
trước đó, như nghiên cứu của Barro (1990) 
hay nghiên cứu ở Phetsavong và Ichihashi 
(2012) ở các nước đang phát triển châu Á, nơi 
mà đầu tư công (đầu tư vào cơ sở hạ tầng) thu 
hút đầu tư tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế. 
Từ các kết quả nêu trên, dưới đây sẽ đưa 
ra một số gợi ý và một số khuyến nghị chính 
sách cụ thể hơn bao gồm: 
Thứ nhất, rõ ràng là đầu tư công là "vốn 
mồi" cho đầu tư của khu vực tư nhân - là 
khu vực động lực tăng trưởng kinh tế. Để 
làm cho đầu tư công trở nên ổn định và trở 
thành nhân tố “thúc đẩy”, chính phủ cần có 
một kế hoạch đầu tư dài hạn mang tính 
chiến lược để giảm thiểu sự không chắc 
chắn của đầu tư công (nghĩa là điều chỉnh 
tăng/giảm sự bất ổn); 
Thứ hai, đầu tư tư nhân trong nước có vai 
trò rất lớn trong việc kích thích tăng trưởng 
kinh tế, ngoài đầu tư từ nguồn vốn FDI. Do 
đó, chính sách của Việt Nam cần tạo động lực 
cho khu vực tư nhân trong nước phát triển chứ 
không chỉ ưu tiên cho các doanh nghiệp FDI; 
Thứ ba, vì đầu tư của khu vực nhà nước 
bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đầu tư 
của các doanh nghiệp nhà nước vào hoạt động 
sản xuất kinh doanh, nhưng vai trò của các 
doanh nghiệp nhà nước cần được xem xét kỹ 
lưỡng để đảm bảo tác động hiệu quả hơn tới 
tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 
rằng do có sự kém hiệu quả của các doanh 
nghiệp nhà nước, vì vậy nghiên cứu đề xuất 
cần giảm bớt sự can thiệp của chính phủ vào 
lĩnh vực sản xuất kinh doanh bằng cách tiếp 
tục cổ phần hóa DNNN nhằm thu hẹp khu vực 
này trong nền kinh tế, thoái vốn từ khu vực 
DNNN cổ phần hóa để tăng cường đầu tư 
công cho cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư tư 
nhân và tăng trưởng kinh tế 
(Nghiên cứu này được tài trợ bởi ngân sách của ĐHQG-HCM với mã số đề tài No B2016-34-01) 
Nguyễn Thị Cành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 60(3), 37-49 49 
Tài liệu tham khảo 
Breitung, J. (2000). The local power of some unit root tests for panel data. Advances in Econometrics, 15, 161-178. 
Bukhari, S. A. H. A. S., Ali, L., & Saddaqat, M. (2007). Public Investment and Economic Growth in the Three 
Little Dragons: Evidence from Heterogeneous Dynamic Panel Data International. Journal of Business and 
Information, 57-79. 
Dreger, C., & Reimers, H. (2016). Does public investment stimulate private investment? Evidence for the euro area. 
Economic Modelling, 58, 154–158. 
Gujarati, D. N., & Porter, D. C. (2009). Basic Econometrics, 5th ed., McGraw-Hill. New York, 2009. 
Haque, S. T. (2013). Effect of Public and Private Investment on Economic Growth in Bangladesh: An econometric 
Analysis. Research Study Series, 104-126. 
Im, K. S., Pesaran, M. H., Shin, Y. (2003). Testing for unit roots in heterogeneous panels. Journal of Econometrics, 
115, 53-74. 
Johansen, S. (1988). Statistical analysis of cointegrating vectors. Econometric Reviews, 12, 231–254. 
Lee, G. (2007). Long run equilibrium relationship between inward FDI and productivity. Journal of Economic 
Development, 32(2), 183-192. 
Levin, A., Lin, C. F., Chu, C. S. J. (2002). Unit root tests in panel data: Asymptotic and finite-sample properties. 
Journal of Econometrics, 108, 1-24. 
Phetsavong, K. & Ichihashi, M. (2012). The Impact of Public and Private Investment on Economic Growth: 
Evidence from Developing Asian Countries. IDEC Discussion paper, Hiroshima University. 
Pedroni, P. (1999). Critical Values for Cointegration Tests in Heterogeneous Panels with Multiple Regressors. 
Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 61, 653-70. 
Pedroni, P. (2001). Purchasing Power Parity Tests in Cointegrated Panels. Review of Economics and Statistics, 83, 
727-731. 
Reungsri, T. (2010). The impact of public infrastructure investment on economic growth in Thailand; Doctor of 
Philosophy Thesis, School of Economics and Finance, Victoria University Australia. 
Solow, R. (1956). A Contribution to the Theory of Economic Growth. The Quarterly Journal of Economics, 70(1), 
65-94. 
Tô Trung Thành (2011). Đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM. Tạp chí 
Tài chính, 6(560). 
Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư & Lê Hoàng Phong (2014). Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế ở 
Việt Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình ARDL. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 19, 3-10. 
Vedder, R. K. & Gallaway, L. E. (1998). Government size and economic growth- G-01 Dirksen Building, 
Washington, DC 20510. Retrieved from  
Zainah, P. (2009). The Role of Public Investment in Promoting Economic Growth: A case study of Mauritius. 
SADRN/TIPS project. 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_dau_tu_cong_den_thu_hut_dau_tu_tu_nhan_va_tang.pdf