Quá trình sinh dầu khí của đá mẹ khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng trung tâm bể Nam Côn Sơn
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí được tiến hành ở bể Nam Côn Sơn từ rất sớm, đến nay nhiều phát hiện dầu/khí
đã được phát triển và đưa vào khai thác như: Đại Hùng, Rồng Đôi, Hải Thạch, Mộc Tinh, Lan Tây Bể Nam Côn Sơn đặc
biệt là khu vực Đông và Đông Bắc bể có lịch sử phát triển địa chất khá phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình
sinh và di cư hydrocarbon của đá mẹ. Trong bài báo này, nhóm tác giả giới thiệu mô hình địa hóa đá mẹ cho 1 tuyến
cắt qua khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm của bể Nam Côn Sơn nhằm đánh giá quá trình
sinh và di thoát hydrocarbon (HC) của đá mẹ.
Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ khu vực nghiên cứu cho thấy: Trầm tích sét Miocene giữa, Miocene dưới và
Oligocene đạt tiêu chuẩn đá mẹ về độ giàu vật chất hữu cơ. Đá mẹ Oligocene chứa vật chất hữu cơ loại I/III và loại
III. Đá mẹ Miocene dưới và giữa chứa chủ yếu vật chất hữu cơ loại III và ít loại II. Ở thời điểm hiện tại, độ sâu đạt
cửa sổ tạo dầu từ 2.500 - 4.700m, khí ẩm và condensate ở 4.700 - 6.200m, đới tạo khí khô nằm dưới độ sâu 6.000 -
7.200m. Thành phần hydrocarbon trong các tầng chứa ở thời điểm hiện tại cho thấy chúng được cung cấp từ cả đá
mẹ Oligocene, Miocene dưới lẫn Miocene giữa, trong đó hydrocarbon từ đá mẹ Miocene dưới chiếm ưu thế, thứ hai là
từ đá mẹ Oligocene còn hydrocarbon từ đá mẹ Miocene giữa không đáng kể. Các tích tụ hydrocarbon trong khu vực
nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Những bẫy hình
thành trong đầu Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình sinh dầu khí của đá mẹ khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng trung tâm bể Nam Côn Sơn
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ 14 DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 1. Giới thiệu Bể Nam Côn Sơn có diện tích trên 100.000km2, nằm trong khoảng từ 6o00’ đến 10o30’ vĩ độ Bắc và 106o00’ đến 110o30’ kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc của bể là đới nâng Côn Sơn, phía Tây và Nam là đới nâng Khorat - Natuna, phía Đông là bể Tư Chính - Vũng Mây và phía Đông Bắc là bể Phú Khánh. Độ sâu nước biển trong phạm vi của bể thay đổi rất lớn, từ vài chục mét ở phía Tây đến hơn 2.000m ở phía Đông. Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ xây dựng mô hình địa hóa đá mẹ cho một tuyến chạy qua khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm của bể Nam Côn Sơn; phân tích và dự báo cổ địa hình bề mặt trầm tích tại từng thời kỳ địa chất, đặc biệt là vào thời kỳ diễn ra quá trình di cư và hình thành các tích tụ dầu/khí góp phần phục vụ công tác đánh giá rủi ro các cấu tạo triển vọng ở khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm bể Nam Côn Sơn. Trong nghiên cứu trước, nhóm tác giả đã đánh giá quá trình vận động của thành tạo Miocene giữa khu vực phụ QUÁ TRÌNH SINH DẦU KHÍ CỦA ĐÁ MẸ KHU VỰC PHỤ ĐỚI TRŨNG ĐÔNG BẮC VÀ PHỤ ĐỚI TRŨNG TRUNG TÂM BỂ NAM CÔN SƠN TS. Nguyễn Thị Dậu1, ThS. Phan Văn Thắng2 KS. Phan Mỹ Linh2, ThS. Hoàng Nhật Hưng2 1Hội địa chất Dầu khí Việt Nam 2Viện Dầu khí Việt Nam Email: daunt.epc@gmail.com Tóm tắt Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí được tiến hành ở bể Nam Côn Sơn từ rất sớm, đến nay nhiều phát hiện dầu/khí đã được phát triển và đưa vào khai thác như: Đại Hùng, Rồng Đôi, Hải Thạch, Mộc Tinh, Lan Tây Bể Nam Côn Sơn đặc biệt là khu vực Đông và Đông Bắc bể có lịch sử phát triển địa chất khá phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sinh và di cư hydrocarbon của đá mẹ. Trong bài báo này, nhóm tác giả giới thiệu mô hình địa hóa đá mẹ cho 1 tuyến cắt qua khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm của bể Nam Côn Sơn nhằm đánh giá quá trình sinh và di thoát hydrocarbon (HC) của đá mẹ. Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ khu vực nghiên cứu cho thấy: Trầm tích sét Miocene giữa, Miocene dưới và Oligocene đạt tiêu chuẩn đá mẹ về độ giàu vật chất hữu cơ. Đá mẹ Oligocene chứa vật chất hữu cơ loại I/III và loại III. Đá mẹ Miocene dưới và giữa chứa chủ yếu vật chất hữu cơ loại III và ít loại II. Ở thời điểm hiện tại, độ sâu đạt cửa sổ tạo dầu từ 2.500 - 4.700m, khí ẩm và condensate ở 4.700 - 6.200m, đới tạo khí khô nằm dưới độ sâu 6.000 - 7.200m. Thành phần hydrocarbon trong các tầng chứa ở thời điểm hiện tại cho thấy chúng được cung cấp từ cả đá mẹ Oligocene, Miocene dưới lẫn Miocene giữa, trong đó hydrocarbon từ đá mẹ Miocene dưới chiếm ưu thế, thứ hai là từ đá mẹ Oligocene còn hydrocarbon từ đá mẹ Miocene giữa không đáng kể. Các tích tụ hydrocarbon trong khu vực nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Những bẫy hình thành trong đầu Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn. Từ khóa: Thành phần dầu khí, nghịch đảo Miocene giữa, phụ đới trũng Trung tâm, bể Nam Côn Sơn. Hình 1. Cột địa tầng tổng hợp phía Ðông bể Nam Côn Sơn PETROVIETNAM 15DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 trũng Đông Bắc bể Nam Côn Sơn phục vụ lập dữ liệu đầu vào cho mô hình địa hóa mẹ [3]. Đá móng trước Cenozoic gặp ở các giếng khoan của bể Nam Côn Sơn có thành phần không đồng nhất gồm các đá magma và biến chất như: granite, diorite thạch anh, granodiorite và các đá biến chất tuổi Mesozoic. Lát cắt trầm tích Cenozoic bể Nam Côn Sơn nói chung có mặt đầy đủ các phân vị địa tầng từ Paleogene đến Đệ Tứ [3] (Hình 1). Lịch sử phát triển địa chất bể ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường lắng đọng trầm tích, quá trình sinh dầu khí của đá mẹ, tiềm năng dầu khí của các đối tượng triển vọng cũng như khả năng bảo tồn hay phá hủy các tích tụ dầu khí. Theo đặc điểm từng loại môi trường, kết hợp với các yếu tố chỉ thị môi trường theo kết quả khoan, có thể phân ra các đới môi trường tích tụ trầm tích vào từng thời từ đồng bằng châu thổ, đầm hồ tới biển nông và biển sâu, ứng với mỗi loại môi trường sẽ là những loại đá mẹ với khả năng sinh dầu khí khác nhau. Bể Nam Côn Sơn có cấu trúc phức tạp do hoạt động đứt gãy đã tạo nên các khối nâng, sụt phân bố không theo quy luật đặc trưng. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của móng có thể phân chia ra các đơn vị cấu trúc khác nhau [6] (Hình 2). Vùng nghiên cứu tập trung chủ yếu ở phụ đới trũng Đông Bắc (A1), một phần phụ đới trũng Trung tâm (A2) và phụ đới nâng Mãng Cầu (A6). - Phụ đới trũng Đông Bắc (A1): Nằm ở phía Bắc đới nâng Mãng Cầu phát triển dọc theo rìa phía Đông đới nâng Côn Sơn. Chiều dày trầm tích Cenozoic ở trung tâm trũng có thể đạt tới 10.000m. - Phụ đới trũng Trung tâm (A2): Đây là phần lún chìm sâu nhất của bể ở phía Nam đới nâng Mãng Cầu, có phương Đông Bắc - Tây Nam. Chiều dày trầm tích ở đây có thể trên 12.000m. Có lẽ do sự hiện diện của dải nâng Đại Hùng - Mãng Cầu, chất lượng đá mẹ khu vực phụ đới trũng Trung tâm (A2) có phần tốt hơn ở khu vực Phụ đới trũng Đông Bắc (A1). - Phụ đới nâng Mãng Cầu (A6): Nằm giữa phụ đới trũng Đông Bắc và trũng trung tâm có phương kéo dài Đông Bắc - Tây Nam. Đới nâng này bị các đứt gãy phân cắt tạo thành các khối rất phức tạp. Dải nâng Đại Hùng - Mãng Cầu phát triển chủ yếu ở các Lô 04-1, 04-3 một phần các Lô 05-1a, 10 và 11-1. Dải nâng này đóng vai trò như một dải nâng giữa trũng, ngăn cách giữa hai trũng lớn nhất ở bể Nam Côn Sơn là phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm. Lịch sử phát triển bể Nam Côn Sơn gắn liền với quá trình tách giãn Biển Đông, có hoạt động địa chất khá phức tạp, chia thành nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn lại có các hoạt động đặc trưng cho từng vùng/đơn vị cấu trúc khác nhau. Có thể ghi nhận được 3 giai đoạn phát triển chính ở bể Nam Côn Sơn: Giai đoạn trước tách giãn (pre-rift) từ Paleocene đến Eocene; giai đoạn đồng tách giãn (syn-rift) từ Oligocene đến Miocene sớm và ... u. Ngoài các ranh giới phản xạ chính tương đương với nóc Miocene trên, nóc Miocene giữa, nóc Miocene dưới, nóc Oligocene và nóc móng, ranh giới Bright spot được coi là nóc tập sét trong Pliocene [7, 8, 15]. Các tham số đầu vào về địa chất gồm các biến cố địa chất chính của vùng nghiên cứu (Bảng 1), tuổi địa chất của các tập, chiều dày hiện tại của các tập trầm tích; loại đá (liên quan đến độ dẫn nhiệt và quá trình nén ép trầm tích - sediment compaction); vai trò của các tập trầm tích trong hệ thống dầu khí... Tham số nhiệt (dòng nhiệt - heat fl ow) trên trái đất dao động trong khoảng 50 - 63mW/m2 (1,2 - 1,5HFU); ở vùng thềm là 38mW/m2 (0,9HFU); ở vùng núi lửa Cenozoic lên tới 84mW/m2 (2HFU); vùng sống PETROVIETNAM 19DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 núi giữa đại dương giá trị này là 8HFU (335mW/ m2) [11]. Trong quá trình khảo sát mô hình, dòng nhiệt cổ trong thời kỳ synrift sẽ được lấy xu thế theo mô hình Mackenzie và điều chỉnh cùng với những tham số điều kiện biên khác để đạt kết quả tối ưu [13]. Nhiệt độ bề mặt trầm tích hiện tại được lấy theo nhiệt độ đáy biển tại các giếng khoan. Thông thường nhiệt độ bề mặt cổ được dự đoán theo lịch sử phát triển địa chất của bể. Độ sâu mực nước vào thời kỳ hình thành các tập trầm tích cũng là dữ liệu tham khảo rất tốt cho việc xác định nhiệt độ bề mặt cổ. Khu vực độ sâu nước < 200m nhiệt độ bề mặt trầm tích khoảng 20oC, độ sâu nước 800m ứng với 17oC (khu vực giếng khoan SDN-1X), độ sâu nước khoảng 1.500m có thể ứng với 10oC [3]. Tại bể Nam Côn Sơn, thời kỳ đầu Oligocene, khu vực các Lô 05-2, 05-3, 04-1 và Lô 04-2 trầm tích được hình thành trong môi trường cửa sông tam giác châu, đầm hồ vũng vịnh chiếm ưu thế, biểu hiện bằng sự phổ biến các lớp sét chứa than và than. Thời kỳ cuối Oligocene, môi trường trầm tích chịu ảnh hưởng của yếu tố biển ven bờ đến biển nông, càng về phía Đông Bắc yếu tố biển càng tăng. Thời kỳ Miocene sớm, trầm tích tập này phủ trên toàn bộ khu vực nghiên cứu. Trầm tích Miocene dưới được lắng đọng trong môi trường thay đổi từ đồng bằng ven biển đến biển nông. Càng về phía Đông, tính chất biển càng tăng lên rõ rệt, tỷ lệ cát kết giảm dần, đá sét tăng lên, phong phú hóa đá biển và glauconite. Thời kỳ Miocene giữa, môi trường trầm tích yếu là biển nông, thềm giữa đến thềm ngoài, phần trên tập Miocene giữa khu vực giếng khoan SDN-1X thành tạo trong môi trường biển sâu [7, 9]. Dữ liệu về điều kiện biên (boundary condition) của mô hình 2D được kiểm soát bằng tài liệu môi trường, tài liệu địa chất khu vực nghiên cứu, tài liệu địa chấn, tài liệu cổ sinh, thạch học tại các giếng khoan và số liệu mô hình 1D tại các giếng 04-2-NB-1X, 04-1-ST-2X và 04-3-UT-1X. Cụ thể, tài liệu địa chấn giúp nhận diện tướng trầm tích (facies), xác định vị trí các slop cổ, dự báo độ sâu mực nước cổ (Hình 7). Tham số về đá mẹ gồm độ giàu vật chất hữu cơ được xác định thông qua phép phân tích tổng Bảng 2. Dữ liệu đầu vào cho mô hình 2D Hình 7. Mặt cắt địa chấn tuyến bb’ thể hiện các nêm lấn hình thành vào thời Pliocene - Đệ Tứ [3] Hình 8. Tuyến cc’, kết quả mô hình trưởng thành thời điểm hiện tại Bảng 3. Độ sâu đạt các ngưỡng trưởng thành tại tuyến cc’ Ngưỡng 0,55%Ro 0,72%Ro 1,3%Ro 2,0%Ro Độ sâu (m) 2.500 - 3.700 3.300 - 4.800 4.700 - 6.200 6.000 - 7.200 Hình 9. Tuyến cc’, độ bão hòa hydrocarbon thời điểm hiện tại Phụ đới trũng Đông Bắc Phụ đới trũng Trung tâm THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ 20 DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 hàm lượng carbon hữu cơ và nhiệt phân tiêu chuẩn Rock Eval. Chất lượng vật chất hữu cơ (loại vật chất hữu cơ) được xác định chủ yếu dựa vào kết quả nhiệt phân trên biểu đồ Van-Krevelen, có tham khảo các phân tích chi tiết khác như thành phần marceral, tướng môi trường, thành phần hóa học cũng như dấu hiệu sinh vật trong chất chiết từ đá mẹ (phân tích GC, GCMS). Kết hợp với kết quả nghiên cứu môi trường trầm tích và tướng địa chấn để có cơ sở input đá mẹ đầm hồ hay cửa sông tam giác châu cho từng vùng cụ thể trên mặt cắt. Khu vực nghiên cứu có mặt 3 tầng đá mẹ. Trầm tích hạt mịn tuổi Oligocene (đá mẹ Oligocene) chứa chủ yếu hỗn hợp kerogen loại I, hỗn hợp I/III (được hiểu là tương đương loại IIB trong cơ sở dữ liệu mô hình) và loại III. Độ giàu vật chất hữu cơ từ trung bình đến rất tốt, có tiềm năng sinh dầu và khí. Trầm tích hạt mịn tuổi Miocene sớm (đá mẹ Miocene dưới) chứa chủ yếu kerogen loại III và hỗn hợp loại I/III, độ giàu vật chất hữu cơ trung bình, có tiềm năng sinh dầu và khí. Than và sét than trong vùng nghiên cứu có tiềm năng sinh khí. Theo kết quả nghiên cứu địa chất và phân tích tướng địa chấn, vào thời kỳ Miocene sớm phía Đông bể Nam Côn Sơn trầm tích được lắng đọng trong điều kiện thềm giữa đến thềm ngoài; sang thời kỳ Miocene muộn xuất hiện môi trường biển sâu. Vì vậy, trong đá mẹ tuổi Miocene giữa dự đoán sẽ có mặt vật chất hữu cơ biển, loại II. Trầm tích hạt mịn tuổi Miocene giữa (đá mẹ Miocene giữ a) chứa chủ yếu kerogen loại III và một ít loại II (vật chất hữu cơ biển), độ giàu vật chất hữu cơ trung bình, có tiềm năng sinh dầu và khí (Bảng 2). Kết quả mô hình cho thấy độ sâu đạt các ngưỡng trưởng thành thay đổi khá mạnh do sự thay đổi về chế độ địa nhiệt và độ sâu nước tại từng vị trí trên mặt cắt (Hình 8, Bảng 3). Hình 8 cho thấy trầm tích Oligocene tại tuyến cc’ chủ yếu nằm trong đới tạo khí khô, phần lớn tầng trầm tích Miocene dưới đang nằm trong đới tạo khí ẩm và pha tạo dầu muộn. Chỉ có phần dưới của trầm tích Miocene giữa đạt cửa sổ tạo dầu vì vậy có thể đá mẹ này rất ít khả năng cung cấp hydrocarbon cho các bẫy trong vùng nghiên cứu. Như vậy, đá mẹ Miocene dưới và phần trên đá mẹ Oligocene vẫn tiếp tục cấp sản phẩm cho các bẫy ở khu vực này. Hình 10. Tuyến cc’, kết quả mô hình di cư thời điểm hiện tại Hình 11. Tuyến cc’, thành phần hydrocarbon trong tầng chứa thể hiện vai trò của các tầng đá mẹ thay đổi theo thời gian PETROVIETNAM 21DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 Mặt cắt thể hiện độ bão hòa hydrocarbon thời điểm hiện tai trên tuyến cc’ (Hình 9) cho thấy tại khu vực cấu tạo Sông Tiền (nơi trầm tích Miocene bị nâng cao) hydrocarbon tập trung cao hơn các nơi khác. Theo kết quả mô hình di cư (Hình 10 và 11), tại trũng sâu của phụ đới trũng Trung tâm thời điểm hydrocarbon bắt đầu di thoát sớm nhất từ khoảng đầu thời kỳ Miocene sớm nhưng thời điểm bắt đầu có tích tụ hydrocarbon trong tầng chứa mới chỉ từ khoảng 8 triệu năm trước (Hình 11). Thành phần hydrocarbon trong tầng chứa thay đổi khá rõ theo thời gian (Hình 11). Khoảng 10 triệu năm trước, chưa thấy xuất hiện tích tụ hydrocarbon. Khoảng 8 triệu năm trước, hydrocarbon trong tầng chứa gồm cả dầu và khí, được sinh ra chủ yếu từ đá mẹ Oligocene, hydrocarbon do đá mẹ Miocene dưới cung cấp rất ít (chỉ vài %). Đến khoảng 4 triệu năm trước, có tới ~90% hydrocarbon trong tầng chứa được sinh từ đá mẹ Oligocene và sản phẩm ở cả dạng dầu lẫn dạng khí. Khoảng 2 triệu năm trước, tỷ lệ hydrocarbon sinh từ đá mẹ Oligocene bắt đầu giảm rõ rệt nhưng vẫn có cả dầu lẫn khí. Hiện tại, sản phẩm trong tầng chứa hầu như là khí và được sinh chủ yếu từ đá mẹ Miocene dưới, đặc biệt bắt đầu xuất hiện (dù rất ít) sản phẩm của đá mẹ Miocene giữa. Như vậy, tại khu vực tuyến cc’, hydrocarbon còn lại trong tầng chứa chủ yếu được sinh từ đá mẹ Miocene dưới và sản phẩm chủ yếu là khí. Hình 10 thể hiện kết quả mô hình di cư hydrocarbon khu vực tuyến cc’ thời điểm hiện tại có xuất hiện những mũi tên màu xanh (biểu thị sự di cư của dầu) xuyên thẳng lên phía trên, có thể đây là biểu hiện thất thoát dầu. Điều này có thể lý giải một phần cho sự thay đổi tỷ lệ hydrocarbon trong tầng chứa được sinh từ đá mẹ Oligocene và Miocene dưới theo thời gian; sự vắng mặt dầu trong đá chứa ở thời điểm hiện tại (trong khi 2 triệu năm trước trong đá chứa đã tồn tại dầu) (Hình 11). Phân tích kết quả mô hình tuyến cc’ cho thấy sản phẩm (nếu có) ở khu vực cấu tạo Sông Tiền và kề cận chủ yếu là khí và có nguồn gốc chủ yếu từ đá mẹ Miocene dưới, các tích tụ hydrocarbon trong khu vực nghiên cứu nhìn chung không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Các bẫy hình thành trong đầu thời kỳ Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn. 3. Kết luận Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ cho thấy trầm tích sét Miocene giữa, Miocene dưới và Oligocene đạt tiêu chuẩn đá mẹ về độ giàu vật chất hữu cơ. Đá mẹ Oligocene chứa vật chất hữu cơ loại I/III và loại III. Đá mẹ Miocene dưới và giữa chứa chủ yếu vật chất hữu cơ loại III và ít loại II. Ở thời điểm hiện tại, độ sâu đạt cửa sổ tạo dầu từ 2.500 - 4.700m, khí ẩm và condensate ở 4.700 - 6.200m, đới tạo khí khô nằm dưới độ sâu 6.000 - 7.200m. Tại trũng sâu của phụ đới trũng Trung tâm, hydrocarbon bắt đầu di thoát sớm nhất từ khoảng 24 triệu năm trước. Từ khoảng 8 triệu năm trước, hydrocarbon đã di cư và tích tụ trong các tầng chứa Miocene. Hiện tại, đá mẹ Miocene dưới và phần trên đá mẹ Oligocene vẫn tiếp tục cấp sản phẩm cho các bẫy ở khu vực tuyến cc’. Thành phần hydrocarbon trong đá chứa từ 8 đến 2 triệu năm trước cho thấy trầm tích hạt mịn tuổi Oligocene là đá mẹ chính ở khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm. Tuy nhiên, thành phần hydrocarbon trong các tầng chứa ở thời điểm hiện tại cho thấy chúgn được cung cấp từ cả đá mẹ Oligocene, Miocene dưới lẫn Miocene giữa. Trong đó, hydrocarbon từ đá mẹ Miocene dưới chiếm ưu thế, thứ hai là từ đá mẹ Oligocene, còn hydrocarbon từ đá mẹ Miocene giữa không đáng kể. Các tích tụ hydrocarbon trong khu vực nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Các bẫy hình thành từ đầu thời kỳ Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Mô hình địa hóa bể trầm tích Nam Côn Sơn. Viện Dầu khí Việt Nam. 2000. 2. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Kết quả liên kết dầu - đá mẹ bể Nam Côn Sơn. Tuyển tập Báo cáo Hội nghị khoa học và Công nghệ Quốc tế “Dầu khí Việt Nam 2010 - Tăng tốc phát triển”. 9 /2010; 1; trang 341 - 358. 3. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Đánh giá quá trình vận động của thành tạo Miocene giữa khu vực phụ trũng Đông Bắc bể Nam Côn Sơn phục vụ lập dữ liệu đầu vào cho mô hình địa hóa mẹ. Tạp chí Dầu khí. 2014; 1: trang 33 - 43. 4. Nguyễn Du Hưng và nnk. Báo cáo tính trữ lượng mỏ Đại Hùng”. Viện Dầu khí Việt Nam. 2005. 5. Nguyễn Trọng Tín và nnk. Chính xác hoá cấu trúc địa chất và trữ lượng dầu khí phần phía Đông bể Cửu Long và Nam Côn Sơn. Viện Dầu khí Việt Nam. 1995. 6. Nguyễn Trọng Tín và nnk. Đánh giá tiềm năng và THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ 22 DẦU KHÍ - SỐ 2/2015 trữ lượng dầu khí bể trầm tích Nam Côn Sơn trên cơ sở tài liệu đến 12/2003. Viện Dầu khí Việt Nam. 2005. 7. VPI-Labs. Nghiên cứu cổ địa lý tướng đá Lô 04-1. Viện Dầu khí Việt Nam. 2012. 8. VPI-Labs. Nghiên cứu tầng sinh Lô 04-1. Viện Dầu khí Việt Nam. 2013. 9. VPI-Labs. Phân tích cổ sinh địa tầng giếng khoan 04-1-ST-2X. Viện Dầu khí Việt Nam. 2012. 10. Barry Katz. Petroleum source rocks. Springer. 1995. 11. Christian Hermanrud. Basin modelling techniques- an overview. Basin modelling advances and applications: Norwegian Petroleum Society (NPF) Special Publication. 1993; 3: p. 1 - 34. 12. M.L.Bordenave. Applied petroleum geochemistry. Editions Technip. 1993. 13. John M.Hunt. Petroleum geochemistry and geology (2nd edition). W.H Freeman. 1995. 14. Kenneth E.Peters, J.Michael Moldowan. The biomarkers guide: Interpreting molecular fossils in petroleum and ancient sediments. Prentice Hall. 1993. 15. Britist Gas Vietnam. Well 04.1-ST-1X fi nal well report. 1994. Summary Exploration activities have been carried out for a long time in the Nam Con Son basin. So far, many oil and gas dis- coveries have been made in this area and several fi elds developed and put into production such as Dai Hung, Rong Doi, Hai Thach, Moc Tinh, Lan Tay The Nam Con Son basin, especially the eastern and northeastern parts, has a complicated geological development history which strongly infl uences the hydrocarbon generation and migration in the area. In this paper, the authors present a geochemical model of a section through the northeastern and central sub-troughs to evaluate the hydrocarbon generation and migration processes of the source rocks. The results of geochemical model in the studied area showed that the Middle Miocene, Lower Miocene and Oligo- cene fi ne rained sediments are considered as source rocks in terms of organic matter richness. Oligocene source rock contains kerogen type I/III and type III. Middle Miocene and Lower Miocene source rock contain mainly kerogen type III and a little of type II. At present, the maturity thresholds are as follows: Oil window is from 2,500 - 4,700m, wet gas and condensate window is 4,700 - 6,200m and dry gas is below 6,000 - 7,200m. The hydrocarbon component in reservoirs indicate that they were supplied from Oligocene, Lower Miocene together with Middle Miocene, in which dominant is hydrocarbon from Lower Miocene, then from Oligocene source rock, while the volume of hydrocarbon from Middle Miocene is very small. In general, hydrocarbon traps in the studied areas were not aff ected by uplift creating an eroded unconformity at Middle Miocene. The traps, formed in early Late Miocene and earlier, will have higher chances to trap hydrocarbon expulsion from defi ned matured source rocks. Key word: Petroleum component, Middle Miocene uplift, central sub-trough, Nam Con Son basin. The maturation of source rock in the northeastern sub-trough and the central sub-trough, Nam Con Son basin Nguyen Thi Dau1, Phan Van Thang2 Phan My Linh2, Hoang Nhat Hung2 1Vietnam Association of Petroleum Geology 2Vietnam Petroleum Institute
File đính kèm:
- qua_trinh_sinh_dau_khi_cua_da_me_khu_vuc_phu_doi_trung_dong.pdf