Phức hệ hóa thạch khuê tảo trong các trầm tích bề mặt đáy biển ở khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn
Bài báo trình bày đặc điểm phức hệ hóa thạch khuê tảo (diatom, hay còn gọi là tảo silic) trong 25 mẫu trầm tích bề mặt đáy biển ở
khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn. Đặc trưng phức hệ hóa thạch khuê tảo phản ánh các mẫu trầm tích được thành tạo trong môi trường
biển nông và ở vùng khí hậu nhiệt đới. Kết quả nghiên cứu đã phân chia phức hệ hóa thạch khuê tảo thành 3 vùng khác nhau do sự khác
biệt về tổng lượng hóa thạch và thành phần loài. Kết quả thể hiện sự phù hợp của phức hệ hóa thạch với điều kiện sinh thái của các trầm
tích ở khu vực nghiên cứu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Phức hệ hóa thạch khuê tảo trong các trầm tích bề mặt đáy biển ở khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phức hệ hóa thạch khuê tảo trong các trầm tích bề mặt đáy biển ở khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn
17DẦU KHÍ - SỐ 11/2020 PETROVIETNAM PHỨC HỆ HÓA THẠCH KHUÊ TẢO TRONG CÁC TRẦM TÍCH BỀ MẶT ĐÁY BIỂN Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM BỂ NAM CÔN SƠN TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 11 - 2020, trang 17 - 25 ISSN 2615-9902 Nguyễn Văn Sử1, Mai Hoàng Đảm1, Nguyễn Thị Thu Cúc2 1Viện Dầu khí Việt Nam 2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội Email: sunv@vpi.pvn.vn https://doi.org/10.47800/PVJ.2020.11-02 Tóm tắt Bài báo trình bày đặc điểm phức hệ hóa thạch khuê tảo (diatom, hay còn gọi là tảo silic) trong 25 mẫu trầm tích bề mặt đáy biển ở khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn. Đặc trưng phức hệ hóa thạch khuê tảo phản ánh các mẫu trầm tích được thành tạo trong môi trường biển nông và ở vùng khí hậu nhiệt đới. Kết quả nghiên cứu đã phân chia phức hệ hóa thạch khuê tảo thành 3 vùng khác nhau do sự khác biệt về tổng lượng hóa thạch và thành phần loài. Kết quả thể hiện sự phù hợp của phức hệ hóa thạch với điều kiện sinh thái của các trầm tích ở khu vực nghiên cứu. Từ khóa: Khuê tảo, trầm tích bề mặt, môi trường biển nông, khí hậu nhiệt đới, Đông Nam bể Nam Côn Sơn. 1. Giới thiệu Biển Đông có tốc độ lắng đọng trầm tích lớn hơn so với nhiều vùng biển khác ở khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nghiên cứu về cổ địa tầng và cổ sinh thái đã được thực hiện đối với các trầm tích Pleistocene-Holocene về các nhóm vi cổ sinh như: trùng lỗ (foraminifera), tảo vôi (calcareous nannofossil), trùng tia (radiolaria) và khuê tảo (diatom) [1 - 3] nhằm khôi phục các điều kiện cổ môi trường và cổ khí hậu ở khu vực này. Thềm lục địa Việt Nam thuộc rìa phía Tây của Biển Đông, có diện tích hơn 1 triệu km2 và trải dài từ Bắc xuống Nam. Tại đây, các nghiên cứu về khuê tảo chưa nhiều và chủ yếu phát hiện, liệt kê, phân loại và mô tả các giống loài đang sống [4, 5]. Một số nghiên cứu hóa thạch nhóm sinh vật này trong trầm tích Đệ tứ đã được công bố, tuy nhiên chỉ tập trung ở vùng cửa sông và ven biển [6 - 9]. Các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến phức hệ khuê tảo trong trầm tích ở ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam. Khuê tảo là nhóm sinh vật đơn bào, có kích thước hiển vi [10], khung xương bằng hợp chất silic dioxide (SiO2.nH2O) và có các tô điểm phức tạp ở trên bề mặt vỏ. Khuê tảo rất đa dạng về hình thái, sống riêng lẻ hoặc liên kết thành các tập đoàn. Khuê tảo chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sinh khối các hệ sinh thái nước, các phức hệ thường phong phú về chi, loài. Ước tính trên thế giới có khoảng 10.000 - 12.000 loài khuê tảo đang sống và hóa thạch [10], có nghiên cứu đã thống kê hơn 100.000 loài [10, 11] hoặc thậm chí gần 200.000 loài [12]. Đồng thời, khuê tảo là nhóm sinh vật phân bố rộng rãi trong hầu hết các hệ sinh thái nước mặn, nước lợ và nước ngọt, từ vùng cực đến xích đạo [11]. Trong từng điều kiện, khuê tảo có các chi, loài đặc trưng riêng. Ngoài ra, khuê tảo thuộc nhóm sinh vật có thời gian sinh sản ngắn nhất (khoảng 2 tuần) [11], do đó rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường như: độ muối, nhiệt độ, hàm lượng chất dinh dưỡng. Vì vậy, khuê tảo được coi là nhóm sinh vật chỉ thị cho môi trường, là công cụ hữu ích cho các nghiên cứu cổ môi trường, cổ địa lý và cổ khí hậu, đặc biệt trong các trầm tích Đệ tứ [1 - 4, 7 - 9]. Bể Nam Côn Sơn nằm ở phía Đông Nam thềm lục địa Việt Nam (Hình 1), là bể trầm tích Cenozoic lớn ở Việt Nam. Ở đây, nhiều nghiên cứu địa tầng dựa vào các hóa thạch vi cổ sinh đã được thực hiện. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hóa thạch khuê tảo chưa được quan tâm và công bố. Bài báo trình bày chi tiết các đặc điểm phức hệ khuê tảo trong 25 mẫu trầm tích bề mặt cùng mối quan hệ với môi trường thành tạo trầm tích và điều kiện khí hậu, nhằm tạo cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu sinh địa tầng và cổ sinh thái các trầm tích trong vùng nghiên cứu và các khu vực lân cận. Ngày nhận bài: 26/8/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 26/8 - 4/11/2020. Ngày bài báo được duyệt đăng: 9/11/2020. 18 DẦU KHÍ - SỐ 11/2020 THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ 2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Các mẫu nghiên cứu được thu thập tại khu vực Đông Nam bể Nam Côn Sơn (Hình 1) theo chương trình lấy mẫu đáy biển của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển An toàn và Môi trường Dầu khí (CPSE), Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) thực hiện vào tháng 10/2019. Tại các vị trí lấy mẫu, độ sâu đáy biển dao động 80 - 130 m (Bảng 1). Mẫu nghiên cứu là các trầm tích cát mịn, bở rời, lấy ở lớp 2 cm trên cùng của trầm tích tầng mặt đáy biển. Tổng cộng có 25 mẫu trầm tích được thu thập, kí hiệu S1 tới S25 (Hình 1, Bảng 1). Các mẫu được gia công và phân tích tại Trung tâm Phân tích Thí nghiệm, VPI. Các mẫu được gia công chủ yếu theo phương pháp của R.W. Barttarbee [13]. Ngoài ra, hóa thạch khuê tảo trong các mẫu được làm giàu theo Trần Đức Thạnh [14]. Các mẫu (khoảng 5 g/mẫu) được xử lý với H2O2 30% để loại bỏ vật chất hữu cơ, đun với HCl 10% để loại bỏ thành phần carbonate và tiếp tục xử lý với HNO3 25% để tẩy bỏ các mảnh hữu cơ. Tẩy khoáng vật sét bằng dung dịch sodium pyrophosphate (Na4P2O7.nH2O), sau đó làm giàu các mảnh vỏ hóa thạch có trong mẫu bằng dung dịch nặng (CdI2 + KI) tỷ trọng 2,5. Mẫu sau khi xử lý được pha loãng và nhỏ lên kính phủ 22 × 22 mm, sau đó sấy khô trên bếp điện ở 60 oC. Gắn kính phủ vào lam kính bằng nhựa naphrax (chiết suất = 1,73) ở 130 oC. Lát mỏng được quan sát dưới kính hiển vi quang học Axio Imager A2 và Leica DM4000B, độ phóng đại 400 lần (sử dụng v ... D I 1 5 4 2 3 7 2 5 2 2 2 6 5 6 7 8 D I 6 12 6 1 12 13 2 1 1 11 14 4 17 13 5 5 28 38 75 30 D I 7 2 11 5 4 51 3 4 30 16 5 6 7 9 4 126 26 105 51 32 48 92 90 42 D I 4 1 1 2 2 6 1 2 1 D I 39 30 26 8 9 22 11 10 24 2 5 1 4 1 5 2 3 2 5 6 2 2 D I 4 1 1 1 1 1 D I 5 6 7 1 1 11 3 4 9 7 6 8 1 4 5 7 5 8 30 3 7 10 16 13 14 D I 6 10 22 6 4 14 2 6 5 6 4 16 6 13 12 10 2 8 1 12 11 1 D I 3 1 8 16 1 10 3 5 3 5 1 9 11 7 12 6 1 8 1 16 38 14 D I 3 2 13 1 1 9 12 1 4 14 13 6 9 4 4 3 7 14 14 21 D I 1 1 2 2 1 1 1 1 2 D I 5 2 4 2 1 5 1 1 10 1 5 10 16 8 28 16 7 4 6 8 11 32 D I 224 40 185 120 28 120 30 38 61 60 45 16 60 47 254 82 216 234 960 114 364 360 608 765 345 D I 14 2 3 1 1 3 1 3 1 10 8 3 1 1 1 4 6 5 5 * 11 13 67 45 44 105 25 39 24 13 5 6 30 10 60 96 62 300 32 35 70 148 165 76 D I 3 6 22 5 1 2 15 3 1 10 44 2 1 4 7 26 6 3 7 20 D I 1 1 7 2 2 2 3 6 1 8 6 9 D I 58 21 34 15 6 34 3 12 28 2 5 1 10 17 45 30 24 46 30 12 18 46 104 75 72 D I 10 8 21 6 5 18 3 7 10 4 5 5 10 13 12 38 7 32 18 9 12 13 30 11 D I 4 1 2 5 3 1 2 D I 1 1 1 2 2 1 1 1 1 D I 3 2 4 17 8 5 1 1 3 6 14 D I 2 4 4 3 2 10 3 3 34 7 1 1 11 1 7 13 8 10 32 6 16 10 11 26 30 Nhóm ven bờ Nhóm ven bờ~biển Nhóm biển Số hiệu mẫu Tổng lượng hóa thạch các nhóm môi trường Một số loài khuê tảo đặc trưng cho các môi trường Nhóm mẫu Bi ển n ôn g Phần trăm (%) Hình 10. Đặc điểm phân bố hóa thạch khuê tảo theo độ muối của môi trường nước 23DẦU KHÍ - SỐ 11/2020 PETROVIETNAM thấp hơn so với vùng I và II. Kết quả ghi nhận số loài và thứ loài ở các mẫu dao động 15 - 44, tổng số lượng hóa thạch của phức hệ và từng cá thể suy giảm đáng kể so với các mẫu ở vùng I và vùng II (Hình 11), các cá thể đều có tần suất bắt gặp ít hoặc hiếm (Hình 10). Tỷ lệ % số loài và thứ loài lớp trung tâm và lông chim tương đối đồng đều, nhưng tổng số lượng cá thể lớp trung tâm chiếm ưu thế hơn (57 - 84%) so với lớp lông chim (16 - 43%) (Hình 11). - Vùng III: gồm 11 mẫu S1, S5, S6, S8, S12, S13, S25, S17, S18, S22 và S23 (Hình 12), phân bố ở độ sâu nước biển từ 112 - 170 m (Bảng 1). Các hóa thạch lớp trung tâm (73 - 93%) cho thấy sự thống trị về số lượng so với lớp lông chim (7 - 27%), và phong phú nhất so với các vùng khác (Hình 11). Trong đó, các loài và thứ loài thuộc nhóm sống trôi nổi có số lượng cá thể chiếm ưu thế vượt trội trong các mẫu, điển hình là: Alveus marinus, Asterolampra marylandica, Asteromphalus arachne, Azpeitia nodulifera, Az. africana, Coscinodiscus asteromphalus, Cs. radiatus, Planktoniella sol (Hình 10). Thành phần loài đa dạng ở mức trung bình tới cao, số loài và thứ loài dao động 42 - 57, Hs = 1,96 - 3,25. Ngoài ra, các loài và thứ loài nhóm nước mặn cũng cho thấy số lượng vượt trội (85 - 95%) so với các loài ven bờ (5 - 15%) (Hình 11). Phức hệ hóa thạch khuê tảo ở các mẫu phân tích thể hiện tính đa dạng loài trung bình tới cao (số loài và thứ loài dao động 15 - 65, Hs = 1,96 - 3,50). Tỷ lệ số loài và thứ loài thuộc lớp lông chim chiếm ưu thế so với lớp trung tâm, tuy nhiên tổng số lượng hóa thạch lớp trung tâm, sống trôi nổi trong môi trường biển có tỷ lệ vượt trội (52 - 93%) so với lớp lông chim sống đáy (7 - 48%), (Hình 9). Đồng thời, phức hệ hóa thạch ghi nhận sự vắng mặt của các loài và thứ loài khuê tảo nước ngọt. Như vậy, đặc điểm phức hệ hóa thạch khuê tảo phản ánh các mẫu trầm tích nghiên cứu được lắng đọng ở môi trường biển nông. Theo sự phân chia các kiểu môi trường trầm tích của I. Koizumi [23] khi nghiên cứu khuê tảo ở Thái Bình Dương: vùng nước biển 1. Lớp trung tâm 2. Lớp lông chim có rãnh 3. Lớp lông chim không rãnh 100 1. Nhóm sống đáy 2. Nhóm trôi nổi 100 1. Nhóm nước ngọt 2. Nhóm nước lợ 3. Nhóm nước lợ~biển 4. Nhóm biển 100 S2 S3 S4 S7 S9 S10 S11 S14 S24 S15 S16 S19 S20 S21 S1 S5 S6 S8 S12 S13 S25 S17 S18 S22 S23 I II III M ôi tr ườ ng tr ầm tí ch 1. Lớp trung tâm 2. Lớp lông chim có rãnh 3. Lớp lông chim không rãnh 2000 Số lượng 1. Nhóm sống đáy 2. Nhóm trôi nổi 2000 1. Nhóm nước ngọt 2. Nhóm nước lợ 3. Nhóm nước lợ~biển 4. Nhóm biển 2000 1. Lớp trung tâm 2. Lớp lông chim có rãnh 3. Lớp lông chim không rãnh 80 5 2.92 3.34 3.23 2.82 3.48 3.3 3.3 3.43 3.5 2.73 2.66 2.08 2.9 3.04 2.69 3.25 2.8 2.71 1.96 2.61 2.15 2.34 2.54 2.36 2.71 Số lượng loài Số hiệu mẫu Tổng lượng hóa thạch Nhóm sống đáy/trôi nổi Các nhóm theo môi trường Đa dạng loài Nhóm mẫu Phần trăm (%) Số lượng Phần trăm (%) Số lượng Phần trăm (%) Chỉ số Shannon & Wiener Bi ển n ôn g Hình 11. Môi trường trầm tích biển nông và đặc trưng phức hệ khuê tảo ở 25 mẫu bề mặt Hình 12. Sơ đồ phân chia các nhóm mẫu theo phức hệ khuê tảo ở 25 mẫu bề mặt 24 DẦU KHÍ - SỐ 11/2020 THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ 30 - 200 m xếp vào môi trường biển nông (thềm), tương ứng với đới ánh sáng, ở vùng này có cả khuê tảo trôi nổi và sống đáy. Như vậy, mặc dù các mẫu trầm tích đều có nguồn gốc môi trường biển nông, nhưng phức hệ hóa thạch có sự khác biệt về tổng số lượng hóa thạch và thành phần loài ở các vùng. Sự khác biệt này phản ánh các mẫu trầm tích ở vùng III được lắng đọng trong điều kiện sâu hơn so với vùng I và II, thể hiện bởi sự ưu trội của các loài và thứ loài khuê tảo biển, trôi nổi. Trong khi đó, các mẫu trầm tích ở vùng I chịu sự ảnh hưởng của lục địa nhiều nhất bởi sự có mặt của nhiều loài khuê tảo lông chim, sống đáy môi trường nước lợ ven bờ. Đặc biệt, trong toàn bộ mẫu phân tích vắng mặt khuê tảo nước ngọt chứng tỏ vùng nghiên cứu không chịu ảnh hưởng của nguồn vật liệu từ đất liền đưa ra. 4. Kết luận Phức hệ hóa thạch khuê tảo ở 25 mẫu trầm tích bề mặt khá phổ biến, đa dạng loài trung bình đến cao và đa số các mảnh vỏ được bảo tồn tốt, rất ít mảnh vỏ bị phá hủy hoặc bào mòn. Kết quả phân tích ghi nhận có 101 taxa (gồm 98 loài và 3 thứ loài) thuộc 44 chi, 29 họ, 19 bộ và 3 lớp. Lớp lông chim có rãnh chiếm ưu thế về thành phần loài gồm 53 loài và 1 thứ loài tương đương 53,46%. Lớp trung tâm có 41 loài và 2 thứ loài chiếm 42,58%. Lớp lông chim không rãnh có thành phần loài thấp nhất, chỉ có 4 loài tương đương 3,96%. Lớp khuê tảo trung tâm thống trị về số lượng mảnh vỏ hóa thạch (52 - 93%) ở các mẫu phân tích. Phổ biến nhất là Azpeitia nodulifera, tần suất xuất hiện từ trung bình tới cao cho thấy loài này có khả năng chống chịu cao với sự hòa tan silic ở khu vực Biển Đông. Bên cạnh Azpeitia nodulifera, còn gặp nhiều khuê tảo đặc trưng cho vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trong các mẫu phân tích. Sự thống trị về số lượng mảnh vỏ của nhóm khuê tảo biển, trôi nổi và nhóm nhiệt đới trong các mẫu phân tích cho thấy trầm tích được thành tạo trong vùng biển ấm nhiệt đới tương đối xa bờ. Ba vùng thành tạo trầm tích với sự khác biệt rõ rệt về tổng số lượng hóa thạch, thành phần loài, tỷ lệ các loài trôi nổi và sống đáy, tỷ lệ các loài nhóm biển và ven bờ trong mẫu cũng thể hiện mức độ ảnh hưởng của lục địa tới vùng nghiên cứu. Sự vắng mặt của khuê tảo nước ngọt cho thấy vùng nghiên cứu không có nguồn trầm tích từ đất liền đưa ra. Đối với vùng thành tạo trầm tích II cần có sự nghiên cứu chi tiết hơn những hoạt động của các yếu tố thủy động lực ảnh hưởng tới quá trình lắng đọng trầm tích gây ra hiện tượng hiếm gặp các hóa thạch khuê tảo ở vùng này. Tài liệu tham khảo [1] Hui Jiang, Yulong Zheng, Lihua Ran, and Marit Solveig Seidenkrantz, “Diatoms from the surface sediments of the South China Sea and their relationships to modern hydrography”, Marine Micropaleontology, Vol. 53, No. 3 - 4, pp. 279 - 292, 2004. DOI: 10.1016/j.marmicro.2004.06.005. [2] Yue Huang, Hui Jiang, M. Sarnthein, Karen Luise Knudsen, and Dongling Li, “Diatom response to changes in palaeoenvironments of the northern South China Sea during the last 15000 years”, Marine Micropaleontology, Vol. 72, No. 1 - 2, pp. 99 - 109, 2009. DOI: 10.1016/j. marmicro.2009.04.003. [3] Meiqin Sun, Dongzhao Lan, and Zhimin Cao, “Diatoms from the southwestern continental slope, South China Sea, and their paleoenvironmental significance since last glacial times”, Progress in Natural Science, Vol. 19, No. 10, pp. 1413 - 1418, 2009. DOI: 10.1016/j. pnsc.2009.03.007. [4] Trương Ngọc An, Phân loại tảo silic phù du biển Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 1993. [5] Đặng Thị Sy, “Tảo silic vùng cửa sông ven biển Việt Nam”, Luận án Phó Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996. [6] Trần Đức Thạnh, “Phân bố tảo silic trong trầm tích bề mặt vùng ven biển từ cửa Văn Úc tới cửa Ba Lạt”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường biển, Tập 1, tr. 67 - 72, 1991. [7] Tạ Thị Kim Oanh và Nguyễn Văn Lập, “Diatom - chỉ thị môi trường trầm tích và dao động mực nước biển trong Pleistocen muộn - Holocen”, Tạp chí các khoa học về trái đất, Tập 22, Số 3, tr. 226 - 233, 2000. [8] Đào Thị Miên, Nguyễn Ngọc và Nguyễn Thị Thu Cúc, “Ý nghĩa của các phức hệ Diatomeae trong việc xác định nguồn gốc trầm tích cuối Holocen giữa - Holocen muộn ở một số đồng bằng ven biển Việt Nam”, Tạp chí Địa chất, Tập 295, Số 7 - 8, tr. 1 - 14, 2006. [9] Nguyễn Thị Thu Cúc và Doãn Đình Lâm, “Diatomeae và sự thay đổi môi trường trầm tích Holocen khu vực cửa sông ven biển sông Tiền”, Tạp chí Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3, tr. 14 - 25, 2013. [10] G.R. Hasle and E.E. Syvertsen, “Marine diatoms”, Identifying marine phytoplankton, Carmelo Tomas. (Ed.). Academic Press, Harcourt Brace & Company, 1997: pp. 5 - 385. [11] F.E. Round, R.M. Crawford, and D.G. Mann, The 25DẦU KHÍ - SỐ 11/2020 PETROVIETNAM diatoms: Biology & Morphology of the genera. Cambridge University Press, Cambridge, 1990. [12] V. Jone, “Diatom introduction”, Encyclopedia of Quaternary Science, pp. 476 - 484, 2007. DOI: 10.1016/B0- 44-452747-8/00232-5. [13] R.W. Barttarbee, “Diatom analysis”, Handbook of palaeoecology and palaeohydrology. John Wiley and Sons, Chichester, 1986. [14] Trần Đức Thạnh, “Phương pháp gia công mẫu làm giàu tảo silic trong trầm tích”, Tạp chí các khoa học về trái đất, Tập 37, Số 2, tr. 97 - 103, 2015. [15] N.Ingram Hendey, “An introductory account of the smaller Algae of British coastal waters”, Fishery Investigation, Series IV, Part V: Bacillariaceae (Diatoms). London, Her Majesty’s Stationery Office, 1964. [16] A.P. Jousé, “Atlas of microorganisms in bottom sediments of the oceans”, Diatoms, radiolarian, silicoflagellates and coccoliths. Publishing house “Nauka”, Moscow, 1977. [17] T.V. Desikachary, “Marine diatoms of the Indian ocean region”, Atlas of Diatoms. Madras Science Foundation, Madras, 1986, Plates 1 - 77. [18] T.V. Desikachary, “Marine diatoms of the Indian ocean region”, Atlas of Diatoms. Madras Science Foundation, Madras, 1987, Plates 78 - 221. [19] T.V. Desikachary, “Marine diatoms of the Indian ocean region”, Atlas of diatoms. Madras Science Foundation, Madras, 1987, Plates 222 - 400. [20] T.V. Desikachary, “Marine diatoms of the Indian ocean region”, Atlas of Diatoms. Madras Science Foundation, Madras, 1988, Plates 401 - 621. [21] T.V. Desikachary, “Marine diatoms of the Indian ocean region”, Atlas of Diatoms. Madras Science Foundation, Madras, 1989, Plates 622 - 809. [22] S.R. Stidolph, F.A.S. Sterrenburg, K.E.L. Smith, and A. Kraberg, “Stuart R. Stidolph diatom atlas”, U.S. Geological Survey, 2012. DOI: 10.3133/ofr20121163. [23] I. Koizumi, “Diatom records|Pacific”, Encyclopedia of Quaternary Science. Elsevier B.V, pp. 576 - 598. 2007. [24] John A. Barron, Elisabeth Fourtanier, and Steven M. Bohaty, “Oligocene and earliest Miocene diatom biostratigraphy of ODP Leg 199 Site 1220, equatorial pacific”, Proceedings of the Ocean Drilling Program, Scientific Results, Vol. 199, 2004. DOI: 10.2973/odp.proc. sr.199.204.2004. [25] Claude E. Shannon and Warren Weaver, The mathematical theory of communication. University of Illinois Press, Urbana, 1949. Summary The paper presents the characteristics of diatom assemblages taken from 25 samples of surface sediments in the southeastern part of Nam Con Son basin. The characteristics of diatom assemblages indicate a neritic condition and tropical climate. Three diatom assemblages were distinguished due to the significant differences in the total abundance and species composition. The result shows a clear suitability between the distribution of diatoms and the ecology of the samples in the study area. Key words: Diatoms, surface sediments, neritic condition, tropical climate, southeastern part of Nam Con Son basin. MARINE DIATOM ASSEMBLAGES FROM SURFACE SEDIMENTS OF SOUTHEASTERN PART OF NAM CON SON BASIN Nguyen Van Su1, Mai Hoang Dam1, Nguyen Thi Thu Cuc2 1Vietnam Petroleum Institute 2Hanoi University of Science, VNU Email: sunv@vpi.pvn.vn
File đính kèm:
- phuc_he_hoa_thach_khue_tao_trong_cac_tram_tich_be_mat_day_bi.pdf