Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành sư phạm mĩ thuật trường đại học sư phạm Hà Nội
Trong xu thế hội nhập giáo dục quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển năng
lực học tập và năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất cần thiết. Sinh viên chuyên
ngành Sư phạm Mĩ thuật mai sau trở thành giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các
trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, sinh viên cần tự rèn luyện và nâng cao
các kĩ năng của nhà khoa học tương lai để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn
đề về nghệ thuật, về giáo dục nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành sư phạm mĩ thuật trường đại học sư phạm Hà Nội
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật 188 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0018 Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 188-195 This paper is available online at PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH SƯ PHẠM MĨ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Nguyễn Thu Tuấn Khoa Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập giáo dục quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển năng lực học tập và năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất cần thiết. Sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật mai sau trở thành giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, sinh viên cần tự rèn luyện và nâng cao các kĩ năng của nhà khoa học tương lai để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn đề về nghệ thuật, về giáo dục nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay. Từ khóa: Năng lực nghiên cứu khoa học; chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật; sinh viên Mĩ thuật. 1. Mở đầu Đào tạo (ĐT) và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các trường đại học (ĐH). Tuy nhiên, khác với hoạt động ĐT, hoạt động NCKH thường chỉ được sinh viên (SV) biết đến khi các em bước vào môi trường giảng đường. Nếu như người thầy đồng thời vừa giảng dạy, vừa NCKH thì SV cũng cần phải học tập và kết hợp NCKH. Vì vậy, việc tiếp cận và phát triển năng lực (NL) học tập và NL NCKH của SV là rất cần thiết và cấp bách, phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục (GD) ở nước ta hiện nay. Hoạt động này sẽ giúp SV dần tiếp cận, làm quen với phương pháp, kĩ năng nghiên cứu, rèn luyện tư duy logic, khoa học, kích thích sự hứng thú tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức khoa học mới, khám phá bản chất và các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội [1, 2]. Chính vì vậy, tập trung ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao và chú trọng tới hoạt động NCKH đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội là một chủ trương đúng đắn nhằm góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT thì hoạt động NCKH càng trở nên hết sức quan trọng và cần thiết [3, 4]. - Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động NCKH, từ nhiều năm qua, trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) thường xuyên coi trọng, tổ chức có nề nếp hoạt động NCKH của SV. Ngày nhận bài: 28/5/2017. Ngày chỉnh sửa: 09/08/2017. Ngày nhận đăng: 12/08/2017. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Tuấn, e-mail: thutuan.dhsphn@gmail.com Nguyễn Thu Tuấn 189 Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho SV trong công tác NCKH, do đó thành tích NCKH của SV ngày càng được nâng cao. Hằng năm, các Hội nghị SV NCKH cấp Khoa, cấp Trường được tổ chức đều đặn, tạo một môi trường học thuật sôi nổi, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng ĐT của nhà trường, biến quá trình ĐT thành quá trình tự ĐT và hình thành tư duy nghiên cứu ở SV. Trong điều kiện đổi mới căn bản và toàn diện GD, trong đó có GD đại học (ĐH) hội nhập vào nền GD ĐH khu vực và thế giới thì hoạt động NCKH của SV đã thực sự trở thành một tâm điểm trong công tác ĐT của nhà trường. Nhiều công trình khoa học xuất sắc của SV đã đoạt giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam, giải thưởng SV NCKH cấp Bộ [5]. Tham gia NCKH là cơ hội để SV tìm hiểu sâu kiến thức chuyên ngành, vận dụng kiến thức được học trên giảng đường vào các vấn đề của thực tiễn, tự rèn luyện và nâng cao các kĩ năng của nhà khoa học tương lai, được làm việc và học tập tác phong, kinh nghiệm làm khoa học thông qua cán bộ, giảng viên hướng dẫn Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng ĐT của nhà trường, đáp ứng yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kì mới [6]. Chính từ hoạt động NCKH này, các SV của trường đã từng bước trưởng thành và có thêm động lực vững bước trên chặng đường NCKH tiếp theo, nhiều SV đã trở thành các nhà khoa học trẻ tài năng, đóng góp xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, công nghệ, được xã hội ghi nhận và tôn vinh. Nhiều SV tốt nghiệp từ trường ĐHSPHN không chỉ trở thành giáo viên (GV) giỏi mà còn trở thành các nhà NCKH giàu tiềm năng. Qua đó góp phần khẳng định vị thế và uy tín của trường ĐHSP trọng điểm đầu ngành của cả nước. - SV chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật (SPMT) là những người được ĐT chuyên nghiệp để sau này trở thành GV Mĩ thuật ở trường phổ thông hoặc trở thành giảng viên Mĩ thuật ở một số trường/khoa sư phạm. Để góp phần nâng cao chất lượng GD phổ thông, đối với SV chuyên ngành SPMT, bên cạnh hoạt động học tập, họ cần phải NCKH để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn đề về nghệ thuật, về GD nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy sau này của mình. Vì vậy, SV Mĩ thuật phải được ĐT, bồi dưỡng để phát triển đầy đủ các phẩm chất, NL nghề nghiệp của người GV trường phổ thông – trong đó có NL NCKH. Trong Quy định Chuẩn nghề nghiệp GV THCS, THPT được ban hành theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã xác định rõ các NL NCKH của GV phổ thông (được quy định cụ thể ở các tiêu chí số 6, số 7 và số 25) [7]. Với quy định này, đòi hỏi các cơ sở ĐT GV (trong đó có khoa Nghệ thuật của trường ĐHSPHN) cần phải quan tâm, bồi dưỡng để phát triển NL NCKH cho SV chuyên ngành SPMT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vượt trội của SV trường ĐHSPHN đạt được như trên, trong nhiều năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật còn bộc lộ quá nhiều hạn chế và bất cập, cần sớm khắc phục. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng hoạt động NCKH của SV chuyên ngành SPMT trường ĐH ... mang lại những lợi ích không thể phủ nhận cho SV. Hoạt động này đã trở thành một hình thức hỗ trợ học tập có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng ĐT, rèn luyện chuyên môn, qua đó góp phần hoàn thiện các NL cần có của một nhà sư phạm, một nhà khoa học trong tương lai, đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Đối với SV chuyên ngành SPMT, muốn làm NCKH tốt phải có được những kiến thức và kĩ năng cơ bản về NCKH (như: phương pháp sư tầm, tập hợp tư liệu, khả năng tổng hợp, phân tích, diễn giải vấn đề, biết so sánh, giám định các loại tài liệu) để trên cơ sở đó hiểu được bản chất và hiểu đúng các nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, SV SPMT còn phải có những kĩ năng khác như vẽ hình minh họa, vẽ sơ đồ, biểu đồ, đồ thị Chính những kĩ năng đó đã giúp họ trưởng thành từ NCKH, và sau này khi ra trường, họ có thể hướng dẫn một cách thuần thục cho HS ở trường phổ thông [9]. Để khuyến khích, tạo động lực cho SV SPMT tham gia NCKH, trước hết phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động này cho SV. Phải làm cho mỗi SV hiểu rõ NCKH là một hoạt động quan trọng của quá trình học tập, giúp SV hoàn thành tốt chương trình ĐT trong nhà trường. Mặt khác, nó còn giúp SV hiểu rõ khả năng của mình khi tham gia NCKH, từ đó SV có thái độ tích cực, tự giác tham gia NCKH. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật 192 Để giải pháp này có tính khả thi, BCN khoa Nghệ thuật cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, GD để làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng, nhận thức của SV về hoạt động NCKH, làm sao để mọi SV trong toàn khoa nhận thức được rằng học tập và NCKH đều rất quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Tham gia NCKH không chỉ là “phong trào” mà còn là hoạt động tự ĐT hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng học tập của mỗi SV. Cùng với đó, Đoàn thanh niên và Hội SV cần phải có những hoạt động thúc đẩy tuyên truyền, đưa các thông tin về NCKH đến gần hơn nữa với SV, làm cho mỗi SV đều tự ý thức được tầm quan trọng của NCKH và NCKH không phải là một hoạt động xa vời, mà rất thiết thực với chính bản thân SV [10]. 2.2.3. Trang bị cho sinh viên lí thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực giáo dục Việc trang bị cho SV chuyên ngành SPMT lí thuyết về phương pháp NCKH thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật sẽ giúp họ nắm được các cơ chế sáng tạo nói chung và trong lĩnh vực GD nghệ thuật nói riêng, cũng như các quan điểm tiếp cận đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực này và nắm được logic tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật, từ đó giúp SV SPMT tránh được sự mò mẫm và sai lầm có thể mắc phải trong quá trình nghiên cứu. 2.2.4. Trang bị cho sinh viên các kĩ năng nghiên cứu khoa học Các kĩ năng trong NCKH là phương pháp thu thập, xử lý thông tin; phương pháp khảo sát, điều tra, phỏng vấn, điền dã; cách xây dựng giả thuyết khoa học; cách đọc tài liệu tham khảo để tìm và phát hiện vấn đề; cách trình bày đề cương của một tiểu luận, khóa luận, bài viết khoa học, chuyên khảo khoa học; cách viết tiểu kết, kết luận; cách trình bày phụ lục; cách hành văn theo văn phong khoa học v.v Tất các các yếu tố đó tổng hợp lại thành kĩ năng NCKH của một người nghiên cứu, giúp họ trong quá trình thực hiện đề tài. Đối với các SV nói chung và SV chuyên ngành SPMT nói riêng, các em thường rất lúng túng khi NCKH vì chưa có kiến thức nền vững chắc và những thao tác chuẩn xác trong NCKH. Vì vậy, người thầy cần trang bị cho SV những kiến thức và kĩ năng cơ bản về NCKH để SV hiểu được bản chất của NCKH và những vấn đề xung quanh NCKH. Theo các chuyên gia về lĩnh vực NCKH, nếu một người làm NCKH nắm chắc các kiến thức, các kĩ năng cơ bản trong nghiên cứu thì người đó chắc chắn sẽ thành công. Điều đó cho thấy kiến thức và kĩ năng nghiên cứu là chìa khóa để đạt tới hiệu quả cao trong NCKH. Tuy nhiên, kiến thức và kĩ năng NCKH của mỗi người phải được tích lũy, rèn luyện thường xuyên qua nhiều năm tháng. Chuyên ngành SPMT rất cần những công trình NCKH đi sâu vào các vấn đề về nghệ thuật, về GD nghệ thuật. Không ai khác, chính SV SPMT là lực lượng nòng cốt trong những nghiên cứu này, bởi họ sẽ là những GV Mĩ thuật trong tương lai, góp phần tạo nguồn năng khiếu nghệ thuật từ môi trường GD phổ thông. Chúng tôi cho rằng, nếu SV chuyên ngành SPMT có năng lực NCKH tốt thì chắc chắn sau này khi đứng trên bục giảng, họ sẽ rất tự tin và làm chủ được những kiến thức mà họ đã được học, từ đó có phương pháp và hình thức tổ chức DH đúng đắn để truyền đạt chuẩn xác những kiến thức về Mĩ thuật cho các thế hệ HS phổ thông. 2.2.5. Tổ chức cho sinh viên thực hiện những bài tập nhỏ, bài tập lớn, tiểu luận ở các môn học lí thuyết chuyên ngành Muốn SV SPMT có kiến thức về NCKH, có kĩ năng chuẩn xác trong nghiên cứu thì ngay từ những năm học đầu, giảng viên nên lồng ghép NCKH vào các môn học lí thuyết chuyên ngành để SV có điều kiện tiếp cận và làm quen sớm hơn với NCKH. Theo đó, SV có thể lồng ghép NCKH thông qua các môn học như: Lịch sử Mĩ thuật Việt Nam, Lịch sử Mĩ thuật thế giới, Mỹ học, Mĩ Nguyễn Thu Tuấn 193 thuật đại cương, GD nghệ thuật, Phương pháp dạy học Mĩ thuật Khi dạy các môn học này, giảng viên nên hướng dẫn cho SV tìm các ý tưởng nghiên cứu thông qua làm các bài tập nhỏ, bài tập lớn, tiểu luận; thông qua các hình thức thực hiện báo cáo kiến tập, thực tập; làm đề tài NCKH hoặc khóa luận tốt nghiệp. Từ sự trải nghiệm này, SV được rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo, được thực hành các kĩ năng phân tích, đánh giá, phản biện, giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không phải SV nào cũng ý thức được những lợi ích đó. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy truyền thông về NCKH đối với SV. Đối với seminar, đây là một hình thức DH cơ bản ở trường ĐH. Với hình thức DH này, SV được phát huy tối đa tính năng động và tích cực hoạt động, SV rèn luyện được tư duy phê phán, có ý thức nghiên cứu sâu tài liệu liên quan đến chủ đề seminar, vì vậy SV phát huy được khả năng tự học cao, từ đó các em phát triển ý thức làm chủ và có trách nhiệm trong học tập. Do vậy, tăng cường các seminar khoa học trong DH ở trường ĐH là một hướng quan trọng để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ĐH hiện nay [11]. 2.2.6. Hướng dẫn sinh viên thực hiện và tham gia báo cáo đề tài khoa học tại Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học các cấp, và đăng bài trên tạp chí khoa học chuyên ngành Công bố kết quả nghiên cứu là một bước quan trọng trong quá trình NCKH. Đối với SV SPMT, việc công bố này có thể theo hai hình thức: Báo cáo tại Hội nghị SV NCKH (thậm chí là ở Hội thảo khoa học lớn hơn) và đăng bài trên tạp chí khoa học chuyên ngành. Dù ở hình thức nào thì vai trò hướng dẫn của giảng viên cũng rất quan trọng. Khi tham gia thực hiện đề tài NCKH với giảng viên (hoặc với tổ chuyên môn), SV sẽ có cơ hội rèn luyện kĩ năng, phát triển NL NCKH (thông qua việc thu thập tài liệu và nghiên cứu xử lí những vấn đề đặt ra) rồi đúc kết viết thành bài báo khoa học đăng trong kỉ yếu của các hội nghị, hội thảo hay tạp chí chuyên ngành [12]. Thiết nghĩ, với cách dạy và học như vậy sẽ rèn luyện và tạo cho SV cách làm NCKH với sự sáng tạo theo phương pháp học tập mới. Bởi lẽ, suy cho cùng, NCKH chính là việc hướng tới và giải quyết những vấn đề của thực tiễn xã hội. Như vậy, không cần phải chờ đến năm cuối SV chuyên ngành SPMT mới được NCKH mà ngay từ những năm học đầu các em đã được làm quen với NCKH thông qua các môn học lí thuyết chuyên ngành. Điều quan trọng là giảng viên phải định hướng và khuyến khích các em làm NCKH với các dạng bài viết khoa học, các bài tiểu luận của môn học. Dần dần như vậy, đến năm học cuối, SV đã có thói quen và những kĩ năng cơ bản NCKH để thực hiện khóa luận tốt nghiệp và các công trình NCKH khác lớn hơn, đáp ứng yêu cầu của nhà trường, của khoa và của xã hội đặt ra. 2.2.7. Bố trí dạy môn Phương pháp nghiên cứu khoa học vào năm học thứ nhất hoặc đầu năm học thứ hai để SV có thể tiếp cận sớm với phương pháp NCKH, từ đó SV hiểu và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong quá trình DH môn này, giảng viên cần cung cấp cho SV hệ thống kiến thức về NCKH (bao gồm: Lí luận khoa học và phương pháp luận NCKH; cách thức thực hiện các phương pháp NCKH; cách thức sử dụng các phương tiện kĩ thuật, thiết bị nghiên cứu; các giai đoạn nghiên cứu và những nhiệm vụ cần thực hiện trong mỗi giai đoạn). Đồng thời tăng cường rèn luyện kĩ năng độc lập suy nghĩ cho SV, giúp SV có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và suy luận. 2.3. Thảo luận Bên cạnh những thành tích vượt trội của SV các khoa trong trường về hoạt động NCKH, SV khoa Nghệ thuật còn bộc lộ nhiều yếu kém. Những bất cập đang hiện hữu này do nhiều nguyên Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật 194 nhân (của trò, của thầy, của những người quản lí khoa). Không có lí do gì để có thể bao biện cho cả thầy và trò khoa Nghệ thuật được phép đứng ngoài vòng quay đó. Vì vậy, ngoài sự nỗ lực cần thiết bắt buộc đối với từng bản thân SV thì vai trò lãnh đạo của BCN Nghệ thuật là vô cùng quan trọng, đó là: Cần đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới cơ chế đánh giá, chỉ đạo sát sao bằng chế tài cụ thể hoạt động NCKH của giảng viên và SV để đảm bảo cho hoạt động NCKH diễn ra đúng thực chất và mang lại hiệu quả thực sự cho công tác dạy và học của khoa. Để hoạt động NCKH của khoa Nghệ thuật nói chung và NCKH của SV nói riêng có kết quả, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp (biện pháp đối với SV và cả biện pháp đối với giảng viên). Rất nhiều giảng viên của khoa chưa nhận thức đúng về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc hướng dẫn SV NCKH, vì vậy BCN cần có chế tài cụ thể đề cao trách nhiệm của người giảng viên trong quá trình hướng dẫn SV NCKH. Có như vậy thì hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật mới thực sự đạt hiệu quả cao. 3. Kết luận Trong xu thế hội nhập GD quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển NL học tập và NL NCKH của SV là rất cần thiết và cấp bách. SV chuyên ngành SPMT mai sau trở thành những GV giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, họ cần phải NCKH để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn đề về nghệ thuật, về GD nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình. Tuy nhiên, để góp phần nâng cao chất lượng ĐT của nhà trường, của khoa Nghệ thuật, để giúp SV chuyên ngành SPMT đạt được mức độ cao nhất trong các tiêu chí của Chuẩn nghề nghiệp GV, đòi hỏi các cấp quản lí của trường, của khoa phải triển khai kịp thời, đồng bộ các giải pháp nâng cao NL NCKH cho SV. Hy vọng rằng, trong tương lai gần, hoạt động NCKH của SV chuyên ngành SPMT khoa Nghệ thuật trường ĐHSPHN sẽ đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn, đáp ứng được yêu cầu của ngành GD và phục vụ tốt cho công tác giảng dạy Mĩ thuật ở trường phổ thông. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Hồng Quang, 2006. Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên sư phạm. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [2] Phạm Hồng Quang, 2016. Hoạt động khoa học công nghệ đối với các trường sư phạm trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tạp chí Giáo dục, 381, tr. 1-4. [3] Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lí cơ sở giáo dục, 2015. Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học của giáo viên (Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên). Nxb Giáo dục Việt Nam – Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [4] Phan Trọng Nam, Danh Trung, 2016. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên sư phạm – tiền đề nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của giáo viên Trung học phổ thông. Tạp chí Khoa học giáo dục, 130, tr. 24-26. [5] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2015. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học. Năm học 2014-2015. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. Nguyễn Thu Tuấn 195 [6] Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2016. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học. Năm học 2015-2016. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [7] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009. Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009, Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. [8] Nguyễn Thu Tuấn, 2015. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục Mĩ thuật. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [9] Nguyễn Thu Tuấn, 2011. Giáo trình Phương pháp dạy học Mĩ thuật (tập 1 và 2). Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [10] Nguyễn Văn Tuấn, 2016. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học. Tạp chí Thiết bị giáo dục, 136, tr. 148-150. [11] Nguyễn Chiến Thắng, 2016. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học giáo dục cho sinh viên ngành sư phạm Toán học. Tạp chí Khoa học Giáo dục, 133, tr. 23-27. [12] Nguyễn Thu Tuấn, 2016. Lí luận dạy học Mĩ thuật ở trường Trung học cơ sở. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. ABSTRACT Developing the capacity of scientific research for students specialized in education of Art, Hanoi National University of Education Nguyen Thu Tuan Faculty of Fine Art and Music, Hanoi National University of Education In the current trend of international education integration, it is necessary to approach and develop the academic capacity and scientific research capacity of students. In general, a student in Fine Arts could graduate as a teacher of arts in schools. Therefore, a part from learning activities, students need to train themselves and improve the skills of future scientists to discover and study the nature of artistic issues to serve well for teaching. Based on the current situation analysis, the paper proposes a number of measures to improve the capacity of scientific research for students specialized in education of art, contributing to improve the teaching and learn the quality of the Faculty of Fine Arts of Hanoi National University of Education in the current situation. Keywords: Capacity of scientific research, specialized in education of art, art students.
File đính kèm:
- phat_trien_nang_luc_nghien_cuu_khoa_hoc_cho_sinh_vien_chuyen.pdf