Phân tích động lực học vết nứt trong vật liệu lẫn hạt cứng và lỗ rỗng bằng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng
Vật liệu có lẫn những hạt cứng là một trong những loại vật liệu được sử dụng phổ biến trong nền công nghiệp hiện đại. Vết nứt và khuyết tật xuất hiện sẽ gây ra hiện tượng tập trung ứng suất và làm ảnh hưởng lớn đến độ bền của kết cấu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích động lực học vết nứt trong vật liệu lẫn hạt cứng và lỗ rỗng bằng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích động lực học vết nứt trong vật liệu lẫn hạt cứng và lỗ rỗng bằng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng
2261(8) 8.2019 Khoa học Tự nhiên Giới thiệu Độ bền của cấu trúc vật liệu pha hạt cứng phụ thuộc rất nhiều vào sự xuất hiện của các biên bất liên tục. Đối với việc xấp xỉ những lời giải không liên tục, phương pháp phần tử hữu hạn truyền thống sử dụng không gian xấp xỉ đa thức và phụ thuộc rất nhiều vào lưới để đảm bảo độ chính xác của các kết quả gần miền suy biến hay những vùng có gradient cao. Việc mô phỏng các biên bất liên tục như vết nứt, lỗ trống bằng phương pháp phần tử hữu hạn truyền thống đòi hỏi mật độ lưới rất lớn. Và việc làm mịn lưới đòi hỏi một lượng tài nguyên máy tính khá lớn. Hơn nữa, việc làm mịn lưới thường khó có thể tiến hành một cách tự động mà đòi hỏi phải có sự can thiệp thủ công của người dùng. Phương pháp phần tử hữu hạn mở rộng (extended finite element method - XFEM) được giới thiệu bởi Belytschko và Black [1], Moës và các cộng sự [2]. Phương này thừa hưởng nền tảng lý thuyết vững chắc của phương pháp phần tử hữu hạn truyền thống và hạn chế được sự khó khăn trong quá trình làm mịn lưới và chia lưới lại. Gần đây nhất, tác giả Bui và các cộng sự [3] đã thành công trong việc thiết lập phần tử 4 nút nội suy liên tiếp (consecutive-interpolation 4-node quadrilateral element - CQ4), dựa trên ý tưởng theo [4, 5]. Các hàm cơ bản của CQ4 được xây dựng với hai lần nội suy. Lần nội suy thứ nhất hoàn toàn giống với phương pháp phần tử hữu hạn tiêu chuẩn. Lần nội suy thứ hai, hàm xấp xỉ được nội suy thông qua chuyển vị nút và trung bình đạo hàm chuyển vị tại nút. Do đó, hàm dạng nhận được liên tục và có đa thức bậc cao hơn mà không làm tăng thêm tổng số bậc tự do. Trường ứng suất trở nên liên tục mà không cần những biện pháp xử lý phức tạp, kết quả tính toán có sự hội tụ tăng đáng kể so với phương pháp phần tử hữu hạn truyền thống. Bài báo này phát triển phần tử làm giàu cho những đối tượng lỗ trống và hạt cứng trong vật liệu dạng hạt dựa trên ý tưởng nội suy liên tiếp mở rộng (extended twice- interpolation finite element method - XTFEM). Điều này sẽ tận dụng được những ưu điểm của ý tưởng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp trong phần tử tứ giác bốn nút và ý tưởng làm giàu của XFEM cho những bài toán bất liên tục. Các hàm xấp xỉ của phần tử nội suy liên tiếp sẽ được mở rộng bằng cách thêm các hàm làm giàu mô tả sự bất liên tục của vết nứt, lỗ trống và tạp chất. Kết quả tính toán được so sánh với kết quả đã công bố của bài báo khoa học quốc tế uy tín. Cơ sở lý thuyết Phần tử tứ giác, bốn nút nội suy liên tiếp Theo [3], quá trình nội suy liên tiếp phần tử tứ giác bốn Phân tích động lực học vết nứt trong vật liệu lẫn hạt cứng và lỗ rỗng bằng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng Trương Tích Thiện1*, Trần Kim Bằng1, Phan Ngọc Nhân1, Bùi Quốc Tính2 1Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh 2Khoa Xây dựng Dân dụng và Môi trường, Viện Công nghệ Tokyo, Nhật Bản Ngày nhận bài 25/1/2019; ngày chuyển phản biện 31/1/2019; ngày nhận phản biện 25/2/2019; ngày chấp nhận đăng 22/3/2019 Tóm tắt: Vật liệu có lẫn những hạt cứng là một trong những loại vật liệu được sử dụng phổ biến trong nền công nghiệp hiện đại. Vết nứt và khuyết tật xuất hiện sẽ gây ra hiện tượng tập trung ứng suất và làm ảnh hưởng lớn đến độ bền của kết cấu. Các khuyết tật trong vật liệu có thể được mô tả dưới dạng các lỗ trống. Ứng xử của vết nứt trong miền xuất hiện lỗ trống và các hạt cứng sẽ phức tạp hơn dưới tác dụng của tải trọng động. Trong bài báo này, nhóm tác giả phát triển ma trận độ cứng và khối lượng cho các phần tử mô tả vết nứt, lỗ trống và hạt cứng trong vật liệu nền bằng phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng (extended twice-interpolation finite element method - XTFEM) cho bài toán động lực học, tính toán hệ số cường độ ứng suất động theo thời gian, khảo sát sự ảnh hưởng của lỗ trống, hạt cứng gần vết nứt. Các kết quả tính toán hệ số cường độ ứng suất động tại đỉnh vết nứt bằng XTFEM sẽ được so sánh với kết quả đã được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín để kiểm chứng độ tin cậy. Từ khóa: hạt cứng, lỗ trống, mở rộng, nội suy liên tiếp, tải trọng động, vết nứt, XTFEM. Chỉ số phân loại: 1.9 *Tác giả liên hệ: Email: tttruong@hcmut.edu.vn 2361(8) 8.2019 Khoa học Tự nhiên nút bao gồm hai giai đoạn: Giai đoạn nội suy thứ nhất: Trong phần tử hữu hạn truyền thống, chuyển vị xấp xỉ tại điểm x được tính như sau: [ ] [ ] [ ] [ ]( ) i j k mi j k mu x N u N u N u N u= + + + (1) 1 1 (1 )(1 ), (1 )(1 ), 4 4 1 1 (1 )(1 ), (1 )(1 ) 4 4 i j k m N r s N r s N r s N r s = - - = + - = + + = - + (2) Với u[i], u[j], u[k], u[m] là chuyển vị tại các nút i, j, k, m của phần tử và r, s là tọa độ trong hệ tọa độ tự nhiên của phần tử tứ giác 4 nút. Miền hỗ trợ nút i, S i chứa tất cả các phần tử có liên quan nút i. Hàm trọng eω được tính như sau: ' 'i e e e S e ω ∈ = ∑ (3) Với Δ e là diện tích của phần tử e. Δ e’ là diện tích của phần tử e’ trong S i . Hình 1. Điểm cần nội suy và miền hỗ trợ của nút có tọa độ x. Đạo hàm trung bình tại nút i có thể viết như sau: [ ][ ] [ ][ ]( )[ ], , , 1 s i i n i e i ei x e x e l x l e l e u u N uω ω ∈ = ∈ = = ∑ ∑ ∑ S S (4) [ ] [ ][ ]( ), , i i i e l x e l x e N Nω ∈ = ∑ S (5) Giai đoạn nội suy thứ hai: Trong giai đoạn nội suy lần hai, giá trị nội suy trên điểm x được tính như sau: [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] [ ] , , , , , , , , ˆ( ) i j x x k m x x i i j j i ix iy y j jx iy y k k m m k kx ky y m mx my y u u u u u u u u u u u u u φ φ φ φ φ φ φ φ φ φ φ φ = + + + + + + + + + + + x (6) An extended twice-interpolation finite element method applied to simulate dynamic crack behaviour in matrix inclusion materials with random holes Tich Thien Truong1*, Kim Bang Tran1, Ngoc Nhan Phan1, Quoc Tinh Bui 2 1VNUHCM - Ho Chi Minh City University of Technology 2Department of Ci ... ác nhau đó được thể hiện như hình 3. (A) (B) Hình 3. (A) Tọa độ địa phương tại đỉnh vết nứt và (B) miền hỗ trợ chứa các phần tử được dùng để tính tích phân J trong XFEM và XTFEM Mô hình mô phỏng Mô hình 1 Xét bài toán tấm phẳng với chiều rộng W = 20 mm, chiều cao H = 40 mm, vết nứt nằm ở giữa tấm có kích thước 2a = 4,8 mm. Lực phân bố đều f0 = 1 N/m ở cạnh trên và dưới của tấm. Mô-đun đàn hồi Young: E = 199,992 GPa, hệ số Poisson: v = 0,3, khối lượng riêng ρ = 5000 kg/m3. Bước thời gian là Δt = 0,05 μs và tải tác dụng từ 0 đến 13,62 μs như hình 4. Hạt cứng trong vật liệu nền có bán kính r = 2 mm cách tâm vết nứt với khoảng cách d = 6 mm theo phương x. Hạt cứng có mô-đun đàn hồi Young: E = 199,992 x 103 GPa, hệ số poisson v của hạt cứng và vật liệu nền đều bằng 0,3. Trường hợp đang xét là biến dạng phẳng. Vận tốc lan truyền sóng dọc Cd = 7,34 mm μs -1. Kết quả tính toán từ XTFEM sẽ được so sánh với kết quả tính theo XFEM, đã được công bố trong tài liệu [9]. Thời gian sẽ được chuẩn hóa như sau: _ 2 /chuan hoa dt C t h với h = H là chiều cao tấm Hệ số cường độ ứng suất động Mode I sẽ được chuẩn hóa như sau: * 0 0 0 ; II K K K f a K Hình 4. Tấm phẳng với vết nứt ở giữa gầ hạt cứng hình tròn. 2761(8) 8.2019 Khoa học Tự nhiên Sự so sánh các kết quả tính toán giữa hai phương pháp XFEM [9] và XTFEM được thể hiện trong hình 5. Các kết quả hệ số cường độ ứng suất theo thời gian thu được từ XTFEM khá tương đồng với các kết quả được tham khảo từ [9]. Mô hình 2 Trong ví dụ tiếp theo, xét mô hình tấm phẳng bị nứt có chứa đồng thời lỗ trống và hạt cứng. Các thông số về kích thước, vật liệu và tải trọng được cho tương tự như mô hình 1. Tấm chứa 2 lỗ trống với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O 1 (1,25; 3,75) m, r 1 = 0,6 m và O 2 (3,75; 1,25) m, r 2 = 0,7 m. Tấm chứa 2 hạt cứng với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O3(1,25; 1,25) m, r3 = 0,55 m và O4(3,75; 3,75) m, r 4 = 0,8 m. Tấm có vết nứt bắt đầu từ giữa cạnh trái đi về tâm của tấm, với chiều dài vết nứt là a = 2,5 m. Lực phân bố cạnh trên theo thời gian như hình 6. Cạnh dưới được ngàm. Trường hợp đang xét là biến dạng phẳng. Hình 6. Tấm phẳng chứa vết nứt, lỗ trống và hạt cứng chịu tải theo thời gian. Đồ thị hệ số cường độ ứng suất động Mode I của tấm theo thời gian và chuyển vị theo phương x, y, trường ứng suất theo hai phương x, y cũng được minh họa qua hình 7 và 8. Hình 8. (A) Chuyển vị theo phương x; (B) Chuyển vị theo phương y; (C) Ứng suất theo phương x; (D) Ứng suất theo phương y tại thời điểm t = 0,15s. Tại thời điểm t = 0,15s, lúc tải có giá trị lớn nhất, thì ứng suất chủ yếu tập trung tại đỉnh vết nứt, còn cạnh vết nứt ứng suất gần như bằng 0, từ đó cho thấy trong trường hợp này vết nứt chính là biên bất liên tục dạng mạnh nhất. Ứng suất cũng tập trung ở hạt cứng phía trên vết nứt, gây ảnh hưởng rõ rệt đến hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Với việc sử dụng XTFEM, trường ứng suất khá mịn. Xét về chuyển vị theo phương y, chuyển vị trên và dưới vết nứt có sự đối lập nhau rõ rệt, phần phía trên vết nứt bị kéo ra nên chuyển vị rất lớn. Kết luận Trong bài báo này, phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng (XTFEM) đã được áp dụng để xây dựng chương trình mô phỏng bài toán động lực học vết nứt với sự ảnh hưởng của các khuyết tật lỗ rỗng và các hạt cứng phân bố trong vật thể dựa trên ngôn ngữ lập trình Matlab. Phương pháp này có ưu điểm là dễ dàng mô tả được tính chất vật lý của vết nứt, lỗ rỗng và hạt cứng thông qua hàm làm giàu mà không cần phụ thuộc vào lưới mô hình. Đồng thời có thể đem lại một trường ứng suất và biến dạng trơn, liên tục. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả tính hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Một vài ví dụ mô phỏng số đã được thực hiện và so sánh để chứng tỏ tính đúng đắn của chương trình. Kết quả thu được từ XTFEM khá tương đồng với kết Hình 5. So sánh kết quả hệ số cường độ ứng suất động giữa hai phương pháp. Sự so sánh các kết quả tính toán giữa hai phương pháp XFEM [9] và XTFEM được thể hiện trong hình 5. Các kết quả hệ số cường độ ứng suất theo thời gian thu được từ XTFEM k á tương đồng với các kết quả được tham khảo từ [9]. Mô hình 2 Trong ví dụ tiếp theo, xét mô hình tấm phẳng bị nứt có chứa đồng thời lỗ trống và hạt cứng. Các thông số về kích thước, vật liệu và tải trọng được cho tương tự như mô hình 1. Tấm chứa 2 lỗ trống với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O1(1,25; 3,75) m, r1 = 0,6 m và O2(3,75; 1,25) m, r2 = 0,7 m. Tấm chứa 2 hạt cứng với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O3(1,25; 1,25) m, r3 = 0,55 m và O4(3,75; 3,75) m, r4 = 0,8 m. Tấm có vết nứt bắt đầu từ giữa cạnh trái đi về tâm của tấm, với chiều dài vết nứt là a = 2,5 m. Lực phân bố cạnh trên theo thời gian như hình 6. Cạnh dưới được ngàm. Trường hợp đang xét là biến dạng phẳng. Hình 6. Tấm phẳng chứa vết nứt, lỗ trống và hạt cứng chịu tải theo thời gian. Đồ thị hệ số cường độ ứng suất động Mode I của tấm theo thời gian và chuyển vị theo phương x, y, trường ứng suất theo hai phương x, y cũng được minh họa qua hình 7 và 8. Hình 7. Hệ số cường độ ứng suất động mode I của tấm theo thời gian. Hình 5. So sánh kết quả hệ số cường độ ứng suất động giữa hai phương pháp. Sự so sánh các kết quả tính toán giữa hai phương pháp XFEM [9] và XTFEM được thể hiện trong hình 5. Các kết quả hệ số cường độ ứng suất theo thời gian thu được từ XTFEM khá tương đồng với các kết quả được tham khảo từ [9]. Mô hình 2 Trong ví dụ tiếp theo, xét mô hình tấm phẳng bị nứt có chứa đồng thời lỗ trống và hạt cứng. Các thông số về kích thước, vật liệu và tải trọng được cho tương tự như mô hình 1. Tấm chứa 2 lỗ trống với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O1(1,25; 3,75) m, r1 = 0,6 m và O2(3,75; 1,25) m, r2 = 0,7 m. Tấm chứa 2 hạt cứng với tọa độ tâm và bán kính lần lượt là: O3(1,25; 1,25) m, r3 = 0,55 m và O4(3,75; 3,75) m, r4 = 0,8 m. Tấm có vết nứt bắt đầu từ giữa cạnh trái đi về tâm của tấm, với chiều dài vết nứt là a = 2,5 m. Lực phân bố cạnh trên theo thời gian như hình 6. Cạnh dưới được ngàm. Trường hợp đa g xé là biến dạng phẳn . Hình 6. Tấm phẳng chứa vết nứt, lỗ trống và hạt cứng chịu tải theo thời gian. Đồ thị hệ số cường độ ứng suất động Mode I của tấm theo thời gian và chuyển vị theo phương x, y, trường ứng suất theo hai phương x, y cũng được minh họa qua hình 7 và 8. Hình 7. Hệ số cường độ ứng suất động mode I của tấm theo thời gian. (A) (B) (C) (D) Hình 8. (A) Chuyển vị theo phương x; (B) Chuyển vị theo phương y; (C) Ứng suất theo phương x; (D) Ứng suất theo phương y tại thời điểm t = 0,15s. Tại thời điểm t = 0,15s, lúc tải có giá trị lớn nhất, thì ứng suất chủ yếu tập trung tại đỉnh vết nứt, còn cạnh vết nứt ứng suất gần như bằng 0, từ đó cho thấy trong trường hợp này vết nứt chính là biên bất liên tục dạng mạnh nhất. Ứng suất cũng tập trung ở hạt cứng phía trên vết nứt, gây ảnh hưởng rõ rệt đến hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Với việc sử dụng XTFEM, trường ứng suất khá mịn. Xét về chuyển vị theo phương y, chuyển vị trên và dưới vết nứt có sự đối lập nhau rõ rệt, phần phía trên vết nứt bị kéo ra nên chuyển vị rất lớn. Kết luận Trong bài báo này, phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng (XTFEM) đã được áp dụng để xây dựng chương trình mô phỏng bài toán động lực học vết nứt với sự ả h hưởng của các khuyết tật lỗ rỗng và các hạt cứng phân bố trong vật thể dựa trê ngôn n ữ lập trình Matlab. Phương pháp này có ưu điểm là dễ dàng mô tả được tính chất vật lý của vết nứt, lỗ rỗng và hạt cứng thông qua hàm làm giàu mà không cần phụ thuộc vào lưới mô hình. Đồng thời có thể đem lại một trường ứng suất và biến dạng trơn, liên tục. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả tính hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Một vài ví dụ mô phỏng số đã được thực hiện và so sánh để chứng tỏ tính đúng đắn của chương trình. Kết quả thu được từ XTFEM khá tương đồng với kết quả tham khảo từ tài liệu uy tín [9]. Đề tài này có thể phát triển theo nhiều hướng liên quan đến bài toán nhiều biên bất liên tục với các loại vật liệu khác. LỜI CẢM ƠN ghiên cứu được tài trợ bởi Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh trong khuôn khổ đề tài mã số To-KHUD-2017-04. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] T. Belytschko, T. Black (1999), “Elastic crack growth in finite elements with minimal remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 45, pp.601-620. [2] N. Moës, J. Dolbow, T. Belytschko (1999), “A finite element method for crack growth without remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 46, pp.131-150. [3] Q.T. Bui, Q.D. Vo, Ch. Zhang, D.D. Nguyen (2014), “A consecutive- interpolation quadrilateral element (CQ4)”, Formulation and Applications Finite Elem. Anal. Des., 84, pp.14-31. [4] C. Zheng, S.C. Wu, X.H. Tang, J.H. Zhang (2010), “A novel twice-interpolation finite element method for solid mechanics problems”, Acta Mech. Sin., 26, pp.265- 278. [5] S.C. Wu, W.H. Zhang, X. Peng, B.R. Miao (2012), “A twice-interpolation finite element method (TFEM) for crack propagation problems”, Int. J. Comput. Methods, 9, pp.12-55. (A) (B) (C) (D) Hình 8. (A) Chuyển vị theo phương x; (B) Chuyển vị theo phương y; (C) Ứng suất theo phương x; (D) Ứng suất theo phương y tại thời điểm t = 0,15s. Tại thời điểm t = 0,15s, lúc tải có giá trị lớn n ất, thì ứng suất chủ yếu tập trung tại đỉnh vết nứt, còn cạnh vết nứt ứng suất gần như bằng 0, từ đó cho thấy trong trường hợp này vết nứt chính là biên bất liên tục dạng mạnh nhất. Ứng suất cũng tập trung ở hạt cứng phía trê vết nứt, gây ảnh hưởng rõ rệt đế hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Với việc sử dụng XTFEM, trường ứng suất khá mịn. Xét về chuyể vị theo phươn y, c uy vị trên và dưới vết n t có sự đối lập nhau rõ rệt, phần phía trên vết nứt bị kéo ra nên chuyển vị rất lớn. Kết luận Trong bài báo này, phương pháp phần tử hữu hạn nội suy liên tiếp mở rộng (XTFEM) đã được áp dụng để xây dựng chương trình mô phỏng bài toán động lực học vết nứt với sự ả h hưở của ác khuyết tật lỗ rỗng và các hạt cứng phân bố trong vật thể dựa trên ngôn ngữ lập trình Matlab. Phương pháp này có ưu điểm là dễ dàng mô tả được tính chất vật lý của vết nứt, lỗ rỗng và hạt ng thông qua hàm làm giàu mà không cần phụ thuộc vào lưới mô hình. Đồng thời c thể đem lại một trường ứng suất và biến dạng trơn, liên tục. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả tí h hệ số cường độ ứng suất tại đỉnh vết nứt. Một vài ví dụ mô phỏng số đã được thực hiện và so sánh để chứng tỏ tính đúng đắn của chương trình. Kết quả thu được từ XTFEM khá tương đồng với kết quả tham khảo từ tài liệu uy tín [9]. Đề tài này có thể phát triển theo nhiều hướng liên quan đến bài toán nhiều biên bất liên tục với các loại vật liệu khá . LỜI CẢM ƠN ghiên cứu được tài trợ bởi Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh trong khuôn khổ đề tài mã số To-KHUD-2017-04. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] T. Belytschko, T. Black (1999), “Elastic crack growt in inite elements with minimal remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 45, pp.601-620. [2] N. Moës, J. Dolbow, T. Belytschko (1999), “A finite element method for crack growth without remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 46, pp.131-150. [3] Q.T. Bui, Q.D. Vo, Ch. Zhang, D.D. Nguyen (2014), “A consecutive- interpolation quadrilateral element (CQ4)”, Formulation and Applications Finite Elem. Anal. Des., 84, pp.14-31. [4] C. Zheng, S.C. Wu, X.H. Tang, J.H. Zhang (2010), “A novel twice-interpolation finite element method for solid mechanics problems”, Acta Mech. Sin., 26, pp.265- 278. [5] S.C. Wu, W.H. Zhang, X. Peng, B.R. Miao (2012), “A twice-interpolation finite element method (TFEM) for crack propagation problems”, Int. J. Comput. Methods, 9, pp.12-55. Hình 7. Hệ số cường độ ứng suất động mode I của tấm theo thời gian. (A) (B) (C) (D) 2861(8) 8.2019 Khoa học Tự nhiên quả tham khảo từ tài liệu uy tín [9]. Đề tài này có thể phát triển theo nhiều hướng liên quan đến bài toán nhiều biên bất liên tục với các loại vật liệu khác. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu được tài trợ bởi Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh trong khuôn khổ đề tài mã số To-KHUD-2017-04. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] T. Belytschko, T. Black (1999), “Elastic crack growth in finite elements with minimal remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 45, pp.601-620. [2] N. Moës, J. Dolbow, T. Belytschko (1999), “A finite element method for crack growth without remeshing”, Int. J. Numer. Meth. Eng., 46, pp.131-150. [3] Q.T. Bui, Q.D. Vo, Ch. Zhang, D.D. Nguyen (2014), “A consecutive-interpolation quadrilateral element (CQ4)”, Formulation and Applications Finite Elem. Anal. Des., 84, pp.14-31. [4] C. Zheng, S.C. Wu, X.H. Tang, J.H. Zhang (2010), “A novel twice-interpolation finite element method for solid mechanics problems”, Acta Mech. Sin., 26, pp.265-278. [5] S.C. Wu, W.H. Zhang, X. Peng, B.R. Miao (2012), “A twice- interpolation finite element method (TFEM) for crack propagation problems”, Int. J. Comput. Methods, 9, pp.12-55. [6] Zuoyi Kang, Tinh Quoc Bui, Du Dinh Nguyen, Takahiro Saitoh, Sohichi Hirose (2015), “An extended consecutive- interpolation quadrilateral element (XCQ4) applied to linear elastic fracture mechanics”, Acta Mech. Sin., 80, pp.17-55. [7] S. Mohammadi (2012), XFEM fracture analysis of composites, John Wiley & Sons. [8] D. Motamedi and S. Mohammadi (2010), “Dynamic crack propagation analysis of orthotropic media by the XFEM”, Int. J. Fract., 161, pp.21-39. [9] S. Jiang, C. Du, C. Gu and X. Chen (2014), “XFEM analysis of the effects of voids, inclusions and other cracks on the dynamic stress intensity factor of a major crack”, Fatigue Fract. Eng. Mater. Struct., 37, pp.1-17.
File đính kèm:
- phan_tich_dong_luc_hoc_vet_nut_trong_vat_lieu_lan_hat_cung_v.pdf